"Bước chân vào trai đường
Buông
xả mọi vấn vương
Nhẹ
nhàng trong chánh niệm
Trân
kính thọ cúng dường."
Với những bửa
ăn trong ngày đạm bạc, tiến hành công quả tạo tác công trình Chí Tôn tại thế.
Buổi phôi thai Đạo thiếu mọi nhu
cầu tối thiểu trong đời sống và cả mọi phương tiện xây dựng công trình vĩ đại,
hầu hết mọi thứ cần dùng đều có được từ trong trí tuệ của đức tin Cao Đài. Vào
thời khởi đầu này, chưa tạo được một mái nhà nào, không có chổ nấu ăn nên tạm
đặt phòng trù chổ miếng đất gần nhà thờ Đức Quyền Giáo Tông bây giờ.
Trên đây là hình ảnh ghi lại sinh
hoạt hằng ngày của Đạo tại cánh rừng nguyên sinh, nói lên tinh thần lớn của
toàn thể Đạo lúc nguồn Đạo khởi động. Những công quả của nam nữ phục vụ khiêng
cơm và đồ ăn từ phòng trù (nhà bò tạm) đến khu rừng vừa phá trống tạm làm nơi
ăn uống cho công quả phá rừng hằng ngày. Vì công quả khai phá rừng quá đông
không có chổ để dọn cơm một lúc, cho nên tổ chức từng tốp, tốp công quả nào về
trước ăn trước, về sau ăn sau, ăn xong khiêng gánh chén bát trở về phòng trù
tạm rồi tự rửa sạch.
Người mặc áo dài trắng là bà
Nguyễn Hương Hiếu đang gứng chỉ bảo cho công quả dọn cơm phục vụ Đạo. Công quả
của nhơn sanh Cao Đài cứ thế lặng lẽ tiến hành cho đến ngày nay.
Trước khi ăn cơm chúng ta
thầm nhớ đến bài kệ:
Kinh Vào Ăn Cơm
(Giọng Nam xuân)
"Giữa
vạn vật con người một giống,
Phải
uống ăn nuôi sống thây phàm.
Từ
Bi ngũ cốc đã ban,
Dưỡng
nuôi con trẻ châu toàn mảnh thân.
Công
Thần Nông hóa dân buổi trước,
Dạy
khôn ngoan học chước canh điền.
Nhớ
ơn bảo mạng Huyền Thiên,
Con
mong mượn xác đoạt quyền vĩnh sanh."
II - CHÚ GIẢI:
Giữa vạn vật con người một giống,
Phải uống ăn nuôi sống thây phàm.
Vạn vật 萬 物: Muôn vật, chỉ tất cả các loài sinh vật nơi thế gian.
Một giống: Một loài giống
như nhau.
Thây phàm: Thể xác phàm tục.
Câu 1 và 2: Con người cũng
như bao sinh vật khác, sống ở thế gian này, cần phải ăn uống để nuôi sống thây
phàm.
Vạn vật và con người đều
có bẩm thụ một điểm Chơn linh của Chí Tôn phân tánh, song mỗi vật đều có một
hình thể hữu hình khác nhau, tùy theo trình độ tiến hóa của từng Chơn linh đó.
Con người, so với muôn vật, có tánh linh hơn hết, vì bẩm thụ tam hồn: sanh hồn,
giác hồn và linh hồn, vì thế cơ thể loài người cũng tiến hóa hơn loài vật. Cơ
thể đó muốn tồn tại và trưởng thành, nó phải mượn vật thực ở thế gian để ăn uống,
nuôi dưỡng hằng ngày. Thức ăn vì vậy cũng cao hơn loài vật.
Từ cổ xưa loài người đã biết
tìm hoa quả để ăn, sau đó các thánh nhân đã dạy kết cây làm tổ, săn bắt thú rừng,
chim cá mà ăn, đây là thời kỳ ngư lạp. Đến khi vua Thần Nông đẽo gỗ chế ra cày
bừa, dạy dân làm ruộng và tìm ra ngũ cốc để làm lương thực cho dân, đó là tiến
đến giai đoạn nông nghiệp, là giai đoạn con người đã biết dùng cơm, gạo để ăn rồi
vậy.
Từ Bi ngũ cốc đã ban,
Dưỡng nuôi con trẻ châu
toàn mảnh thân.
Từ Bi 慈 悲: Chỉ Đức Chí Tôn.
Ngũ cốc 五 穀: Năm thứ hạt để làm lương thực: Đạo 稻: Lúa gạo, lương 糧: lúa nếp, thúc 菽: Đậu, mạch 麥: lúa mì, tắc 稷: hạt kê.
Châu toàn 週 全: Vẹn khắp, không có sót hở chỗ nào. Giúp đỡ người
khổ.
Câu 3 và 4: Nhờ ơn Đức Thượng
Đế đã ban cho con người năm thứ lương thực để nuôi dưỡng thân phàm cho được đầy
đủ và vẹn khắp.
Chí Tôn sinh hóa ra con
người là một thực thể hữu hình, có mặt trên cõi hồng trần này, không phải tạo
nên hình rồi để tự sống, mà Ngài phải khiến các bậc Thánh nhân xuống trần để chỉ
dạy con người làm tổ để tự bảo vệ lấy mình, làm lúa để có cơm mà ăn, tìm thuốc
để được trị bệnh.
Như trên ta biết, ngoài việc
tìm ra lúa khoai để con người nuôi sống thây phàm, vua Thần Nông còn tìm ra các
vị thuốc để trị bệnh dân, dạy dân hợp chợ búa để trao đổi hóa vật, dạy dân định
cư, xây dựng gia đình tông tộc để tiến đến xã hội nông nghiệp.
Xem thế, lòng của Thánh
nhân cũng noi theo lòng từ bi của Đức Thượng Đế. Người tu hành cũng phải trau
luyện, giồi mài cho lòng của mình như bậc Thánh nhân, tức là phát huy tư tưởng
phục vụ lợi ích cho sanh chúng, đó là tạo công quả trong thời Tam Kỳ Phổ Độ vậy.
Công Thần Nông hóa dân buổi
trước,
Dạy khôn ngoan học chước
canh điền.
Thần Nông 神 農: Theo sách Thượng Thư Đại Truyện thì Thần Nông là
một vị vua thứ ba trong thời Tam Hoàng, đó là Toại Nhân 燧 人, Phục Hy 伏 羲, Thần Nông 神 農.
Thần Nông hiệu là Viêm Đế 炎 帝, là vị vua thời Thượng cổ, trị vì sau vua Phục Hy.
Ngài có công dạy dân đẽo gỗ chế ra cày bừa để làm ruộng, hợp chợ búa để dân
trao đổi hóa vật, nếm các thứ cây cỏ để làm vị thuốc cho dân trị bệnh.
Đến thời vua Thần Nông con
người mới biết định cư, sống hợp quần theo nông nghiệp. Ngài có công lớn trong
việc tìm các loại ngũ cốc, khoai củ để làm lương thực cho dân chúng thời bấy giờ,
và mãi mãi sau này.
Hóa dân 化 民: Giáo hóa nhơn dân, tức dạy cho nhơn dân từ cách sống
cho đến những phép tắc ở đời.
Các vị vua thời Thượng cổ
ngoài việc trị dân, cũng là những vị Thánh nhân có công giáo hóa dân, bảo vệ
dân.
Trong sách cổ có viết: Hữu
Sào dạy dân biết kết cành làm tổ để trú ẩn; Toại Nhân bày cho dân chúng khoang
gỗ lấy lửa để nấu chín đồ ăn; Phục Hy dạy dân nuôi thú vật để sai khiến, làm lưới
để săn và đánh cá, nuôi tằm, vẽ bát quái chỉ cái lẽ âm dương biến hóa của muôn
vật, chế đàn cầm, đàn sắt, dạy dân phép cưới vợ gã chồng, từ đó mới có danh từ
gia tộc, Thần Nông chế tạo cày bừa, dạy dân cày cấy, tìm các loại ngũ cốc để thế
thịt thú cầm, và nếm cây cỏ tìm vị thuốc để giúp dân trị bệnh.
Canh điền 耕 田: Cày ruộng.
Câu 5: Con xin mang ơn Vua
Thần Nông vì Ngài có công dạy dỗ dân chúng buổi trước.
Câu 6: Dạy cho dân chúng
được khôn ngoan mà biết cày cấy làm ruộng để tạo ra ngũ cốc cho dân dùng.
Nhớ ơn bảo mạng Huyền
Thiên,
Con mong mượn xác đoạt quyền
vĩnh sanh.
Bảo mạng: Hay bảo mệnh 保 命: Bảo vệ sanh mạng, bảo vệ mạng sống.
Huyền thiên 玄 天: Chữ Huyền là màu trời. Huyền thiên là chỉ Trời, Đấng
Tạo hóa, Đấng Chí Tôn.
Mượn xác: Mượn lấy xác
phàm.
Đoạt quyền vĩnh sanh 奪 權 永 生: Đoạt được quyền hằng sống, tức đạt Đạo để về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Câu 7: Chúng con nhớ đến
ơn các bậc Thánh đã tìm cách bảo vệ mạng sống cho con ví như ơn Tạo Hoá.
Thời Thượng cổ, các Thánh
nhân ngoài việc trị dân còn tìm cách giáo hóa, bảo vệ mạng sống của dân, công
ơn ấy rất cao dày được ví như ơn Đấng Huyền Thiên, tức ơn Tạo Hóa (Vì Thánh chất
của Đấng Tạo Hóa hay Chí Tôn là Bảo sanh).
Sách Hàn Phi Tử viết: Đời
Thượng cổ, người thì ít mà cầm thú thì nhiều, nhân dân không thắng được loài
chim thú, rồng rắn, nhờ có Đấng Thánh nhân dấy lên, kết cây làm tổ cho dân
chúng có chỗ ở để tránh tai hại, nhân dân mang ơn, tôn làm vua thiên hạ, hiệu
là Hữu Sào.
Đến đời vua Thần Nông cũng vậy, Ngài dạy dân từ
thời kỳ ngư lạp (Săn và đánh cá), tiến đến
thời kỳ nông nghiệp, con người bắt đầu sống hợp quần và định cư, biết làm ruộng
để lấy lương thực, biết tìm cây cỏ để làm thuốc.
Sách Thương Quân khen đời vua Thần
Nông như sau: Đời Thần Nông, con trai cày mà ăn, con gái dệt mà mặc, không dùng
hình,
chính, mà dân được trị, không dấy binh đao mà làm vua được thiên hạ.
Thực là một đời vua có công rất lớn cho con người
thời bấy giờ và mãi mãi về sau.
Câu 8: Con mong mượn cái xác phàm phu này để quyết chí tu hành hầu đoạt vị nơi cõi Thiêng Liêng
Hằng Sống.
Thượng Đế tạo lập nên Càn khôn
Vũ trụ, hóa sanh vạn vật và ban cho con người một điểm Linh quang, tức là một
thực thể vô hình, có tính cách trọn lành. Khi nhập thế, Chơn linh đến từng cõi giới, phải tiếp nhận mỗi cõi một cái vỏ để thích hợp
với từng cõi giới đó. Đến cõi hồng trần, Chơn linh khoác lên cái thân xác cuối cùng phù hợp với cõi giới này là
hình hài xác thịt.
Để có mặt và tồn tại, con người phải hít thở khí của Trời, uống ăn vật thực của đất, tức là phải thọ biết
bao nhiêu ân đức của Đấng Huyền Thiên (Thượng Đế). Vì vậy,con người phải biết
báo đền nguồn ân ấy bằng cách giữ vẹn khối Chơn linh cho nhẹ nhàng trong sạch để
làm sao Chơn linh ấy có thể phản bổn huờn nguyên, hầu hòa nhập cùng Thượng Đế.
Muốn vậy, con người phải
mượn cái thân xác nặng nề, ô trược này lo trau luyện, giồi mài tâm tánh, nghĩa
là dẹp bỏ thất tình lục dục, tu dưỡng thân thể tinh khiết bằng cách gìn giữ
trai giới, có tư tưởng thanh cao, phát huy bản thể trọn lành của Đức Thượng Đế
và thường xuyên lễ bái để tâm thần được thông công, giao cảm với Thiêng Liêng hầu
phàm thân trở nên Thánh thể. Lúc ấy Chơn linh mới nhẹ nhàng, trong sạch mà qui
nguyên cõi Hằng sống (Vĩnh sanh).
Khi Ăn
cơm xong, trán bát uống nước, ta thầm nhớ bài kệ:
Kinh Khi Ăn Cơm Rồi
(Giọng Nam xuân)
"Nguyện
nhớ ơn nông canh nhằn nhọc,
Nguyện
ơn người lúa thóc giã xay.
Ngậm
cơm, ơn ngậm hằng ngày,
Nên
người, con nguyện ra tài lợi sanh.
Con
cầu xin mảnh hình tráng kiện,
Giúp
nên công xây chuyển cơ đời.
Trên
theo pháp luật đạo Trời,
Dưới
thương sanh chúng một lời đinh ninh."
(Niệm 1 lần Câu Chú của Thầy)
GIẢI NGHĨA
Câu 1-2: Nguyện nhớ ơn nông canh nhằn nhọc,
Nguyện ơn người lúa thóc giã xay.
Nguyện: Mong muốn và quyết tâm thực hiện.
Nông canh: Canh nông, chỉ việc cày ruộng trồng lúa.
Lúa thóc: chỉ chung về lúa gạo. Miền Nam gọi là
lúa, miền Bắc gọi là thóc.
Giã xay: Xay lúa và giã gạo. Thuở xưa chưa có nhà
máy xay lúa, người ta dùng cối làm bằng nan tre để xay lúa cho tróc vỏ, ta được
gạo lức, dùng chày gỗ giã gạo lức cho tróc chất cám, ta được gạo trắng dùng để
nấu cơm.
C.1-2: Nguyện nhớ ơn người làm ruộng nhọc nhằn vất
vả, Nguyện nhớ ơn người xay lúa giã gạo.
Câu 3-4: Ngậm cơm, ơn ngậm hằng ngày,
Nên người, con nguyện ra tài lợi sanh.
Ngậm cơm: Ngậm hột cơm trong miệng để ăn.
Ơn ngậm: Ngậm ơn, tức là mang ơn.
Nên người: Trở thành người lớn có trách nhiệm.
Ra tài lợi sanh: Ðem tài sức ra làm việc để đem lại
lợi ích cho nhơn sanh.
C.3-4: Ngậm miếng cơm ăn trong miệng hằng ngày thì
nhớ ơn người làm ra lúa gạo. Khi lớn lên, con nguyện đem tài sức ra làm việc
đem lại lợi ích cho nhơn sanh.
Câu 5-6: Con cầu xin mảnh hình tráng kiện,
Giúp nên công xây chuyển cơ đời.
Mảnh hình: Tấm thân. Tráng kiện: Mạnh khỏe.
Giúp nên công: Giúp tay vào để làm nên công việc.
Xây chuyển: Làm cho
thay đổi. Cơ đời: Bộ máy của đời, tức là tất cả các hoạt động của dân chúng
trong xã hội.
Xây chuyển cơ đời là làm cho
đời thay đổi từ tình trạng đạo đức luân lý suy đồi trở nên thuần lương chơn chánh.
Ðó là Chuyển Thế, một chủ trương rất tích cực của Ðạo Cao Ðài.
C.5-6: Con cầu xin tấm thân con được tráng kiện, để
con giúp sức vào công cuộc chuyển thế được kết quả tốt đẹp.
Câu 7-8: Trên theo pháp luật đạo Trời,
Dưới thương sanh chúng một lời đinh ninh.
Ðạo Trời: Nền đạo do Ðức Chí Tôn lập ra. Ðó là Ðạo Cao Ðài. Ðinh ninh: Nhứt
định không thay đổi.
C.7-8: Trên thì tùng theo luật pháp của Ðạo Cao Ðài, dưới thì thương yêu chúng sanh, một lời không thay đổi.
Viện
Sử Cao Đài