Tập San Ban Thế Đạo. * Số 1 - Ngày 20/2/2021. [3/12]

Đức Cao Thượng Phẩm
" ... Các em có hiểu chăng ? Tiếng “lòng một dạ hai” là chi không đó ?
Chẳng phải nói riêng khi phản đạo mà thôi, mà lại chung qui cho cả sự thương yêu giữa anh em đồng đạo. Đó là một sở nhứt định của sự hành tàng hư  thiệt... "
Chơn truyền là gốc, Luật pháp là chuẩn thằng, Từ bi bác ái là đạo pháp”.
TrungTông Đạo, 18-10-Canh Dần (dl 27-11-1950)
Bần đạo chào các em.
Em Giáo Sư, việc em khẩn nguyện cho các vị tử đạo, chưa có thể được, vì họ có kẻ bởi quả kiếp mà phải trả nợ, cũng có kẻ còn thiếu đức cần phải lập thêm, nên không thể giáng cơ đặng. Về vụ thống nhứt Lương Viện, chút nữa Anh Cả về sẽ nói chuyện.
Và luôn đây, Bần đạo cũng có để lời chỉ giáo, nhứt là các em lãnh lịnh đi hành đạo tha phương, ráng để ý, các em đã hẳn biết nền Đạo của Chí Tôn là một nền chơn giáo hy hữu. Giáo lý của nó chỉ trọn vẹn trong hai chữ “THƯƠNG YÊU” mà thôi. Sự thương yêu đó đã bị nhơn loại phá tan, để nhượng lại cho sự tranh giành mà gây nên máu đổ thịt rơi. Giờ phút nầy, mấy em lãnh mạng lịnh giáo dân qui thiện, Bần đạo tưởng các em cũng đã hiểu rõ. Vậy các em phải nhớ câu thệ : “ Nếu lòng một dạ hai thì Thiên tru Địa lục” và câu “ Giữ dạ vô tư thể Thiên hành hóa” mà đem sự thương yêu ấy trở về nguyên bổn.
Các em có hiểu chăng ? Tiếng “lòng một dạ hai” là chi không đó ?
Chẳng phải nói riêng khi phản đạo mà thôi, mà lại chung qui cho cả sự thương yêu giữa anh em đồng đạo. Đó là một sở nhứt định của sự hành tàng hư  thiệt.
Các em cũng vẫn biết nơi đây là gốc để đem lại sự thương yêu cho toàn cả sanh chúng trên mặt địa cầu nầy. Vậy các em khá để trong tâm tất cả những cái gì có thể làm thương tổn đến tình yêu ái cùng là điều ích riêng hay chung đặng làm điều tư lợi, những cái đó ngoài mặt thế đã chán rồi, trong cửa Đạo phải tiêu diệt cho hết thì mới mong sự phổ độ  được  đắc thành mau sớm.
Lúc ra đi hành đạo nhớ : Chơn truyền là gốc, Luật pháp là chuẩn thằng, Từ bi bác ái là đạo pháp.
Mỗi việc, các em phải khá suy nghiệm cho kỹ lưỡng, phải luôn nhớ rằng : Mình là người của chúng sanh chớ chẳng phải chúng sanh là người của mình.
Mảnh thân phàm đã làm con vật hy sinh đặng Đức Chí Tôn dùng để sửa đời lầm lạc ra thuần phong mỹ tục, thì phải biết nó ra thế nào rồi, giá trị hay chăng là được trọn cùng không đó. Lại nữa, khi đã làm con vật hy sinh thì con vật ấy phải tùng theo sự điều khiển của chủ nó, nếu chẳng tuân thì sự hình phạt không tránh khỏi.
Các em có biết hữu hình là sao ? mà vô hình là sao ?  Hai đàng chỉ khác nhau như hình với bóng. Hình thế nào thì bóng cũng thế ấy.
Mấy em hành đạo tại Khánh Hòa và Bình Thuận khá nhớ cho lắm, lúc nầy nơi đó cũng có mòi khó khăn. Mấy em khá giữ trọn đức tin mà hành đạo cho đúng lẽ thì chẳng chi lo sợ.
Thôi, Bần đạo xin kiếu.  
* THĂNG.
*     *     *
Li Thuyết Đo Ca Đc H Pháp "Thiên Tài Và Nhơn Tài".
Ðền Thánh, ngày rằm tháng 11 năm Ðinh Hợi (1947)
"... Nếu ta thấy được thì thân thể hữu hình nầy đồng thể với vật loại tức là thú vật. Pháp thân tương liên với Càn Khôn Thế Giới đồng thể với Khí, cả Khí chất tạo đoan ra nguyên do loài người, lấy nguyên do đó làm hình ảnh của linh thân chúng ta, còn sự sáng suốt linh thiêng là do nơi lòng Ðức Ðại Từ Phụ. Vậy chia làm ba (3) người trong ta nuôi nấng xác hài hữu hình nầy. Pháp thân một mặt gìn giữ xác thân châu toàn kiếp sống, một mặt tương liên với quyền năng sở định của các Ðấng Thiêng Liêng với Chí Tôn. Vậy nó chia ra hai lập trường:
Lập trường đối với vật loại.
Lập trường đối với Chí Tôn và các Ðấng Thiêng Liêng... "
Hôm nay Bần Ðạo giảng về “Thiên Tài và Nhơn Tài”. Nhưng trước khi giảng thuyết ấy, nên mở một lối để cả thảy hiểu nguyên do nào mình đạt được thiên tài hay chỉ nắm nhơn tài mà thôi.
Bần Ðạo đã giảng nhiều phen hình trạng Tam Bửu, đã cho cả thảy biết trong mình ta có tam thân, thất phách, chúng ta gọi theo Ðạo giáo là Tinh, Khí, Thần.
Thứ nhứt: Thân thể hữu hình của chúng ta đây gọi là Phàm thân.
Thứ nhì: Thân thể khí chất vô hình, mắt không nhìn thấy được, nếu thấy được là đạt Ðạo, gọi là Pháp thân.
Thứ ba: Gọi là Linh thân tức là linh hồn. Ba món báu ấy chung hiệp nhau lại tạo nên hình ảnh con người.
Nếu ta thấy được thì thân thể hữu hình nầy đồng thể với vật loại tức là thú vật. Pháp thân tương liên với Càn Khôn Thế Giới đồng thể với Khí, cả Khí chất tạo đoan ra nguyên do loài người, lấy nguyên do đó làm hình ảnh của linh thân chúng ta, còn sự sáng suốt linh thiêng là do nơi lòng Ðức Ðại Từ Phụ. Vậy chia làm ba (3) người trong ta nuôi nấng xác hài hữu hình nầy. Pháp thân một mặt gìn giữ xác thân châu toàn kiếp sống, một mặt tương liên với quyền năng sở định của các Ðấng Thiêng Liêng với Chí Tôn. Vậy nó chia ra hai lập trường:
Lập trường đối với vật loại.
Lập trường đối với Chí Tôn và các Ðấng Thiêng Liêng.
Ðối với Chí Tôn, Pháp thân phải có tinh thần trí thức bổn năng xu hướng quyền năng vô hình, tìm nguyên căn mình xu hướng theo Ðấng Tạo Ðoan, hiểu thể hình, biết đi, biết về, gọi là huệ tức tâm. Thảng không biết, chỉ lo bảo tồn sự sanh sống của vật loại thôi thì trở nên tánh. Một đàng Linh tâm, một đàng Giác tánh, nó ở giữa.
Bây giờ đã hiểu rồi, Bần Ðạo xin thuyết về “Thiên Tài và Nhơn Tài”.
Trí giác Pháp thân chúng ta có hai điều xu hướng, hễ xu hướng theo thiên tư thì đạt được thiên lương là một khối tài tình đạt kiếp sống vi chủ cùng tận hình thể, việc nầy không gì khác hơn là cái kho đựng quyền năng ta đạt được. Trong phép luân chuyển kiếp sanh lập kho chất chứa cả tài vật của chúng ta đạt đặng trong kiếp sanh, nhờ đào luyện bởi bài học khổ của cơ tạo đoan, năng chịu khổ, giỏi chịu hành hạ khổ não chất chứa. Kho đó còn, tài vẫn còn.
Trở lại Giác tánh, ta thấy gì? Biết bảo trọng mạng sống như muôn vật, như trâu ăn cỏ, khỉ ăn trái cây, giác tánh tạo hình xu hướng theo vật loại thì đè pháp thân xuống, muốn tìm hạnh phúc mà thôi, mà tiềm tàng hạnh phúc ta tưởng thế gian nầy nhiều tượng hình, tương đối với Càn khôn, xác thịt yếu ớt tìm phương để bảo vệ không có phương nào không làm, so sánh với vạn vật thì con người thua nhiều con vật khác, thua công khai, như con cọp mà mình kêu ông cọp. Muốn thắng nó đặng thì trí lự tìm phương quyết thắng, tạo ra súng ống đặng tự vệ lấy mình, nên làm chủ nó được. Giác tánh tìm phương tự vệ phải xu hướng theo đường duy vật.
Nhơn Tài ta thấy gì? Có một kho sách ở thành New York có 2.000 triệu quyển sách, học mưu hay chước khéo, cả thảy tài tình nhơn loại cộng thành khối lớn, nhưng chưa hề quyết đoán vận mạng nhơn loại được.
Nhơn Tài đã làm gì hạnh phúc cho nhơn loại, chúng ta đã thấy dầu cách vật, họ đi tới mức huệ, qua không được, trở lại vật hình. Trên kia đã thấy gì? Họ tìm phương pháp tương tàn tương sát nhau, có gì khác hơn đâu, bởi duy vật chỉ làm chúa vật loại mà thôi, ấy là Nhơn Tài. Phương pháp của con người tìm thế đem cả hình thể của người lên làm chúa cả vạn vật, ấy là thuyết duy vật. Những mưu chước hay khéo, họ thâu đoạt được để làm chúa vạn vật thuộc Nhơn Tài.
Bây giờ tới thuyết Thiên Tài. Thiên Tài là khi nào Pháp thân xu hướng theo nguyên do căn bản, tâm linh của nó. Tự hỏi mình cũng như con vật, sao khôn ngoan hơn vật, sao có linh tâm, có căn bản vì đâu? Tìm kiếm ra căn bản ấy là Tu. Tu để tìm nguyên do linh tâm chúng ta là thiên lương ta đó, hay khéo hơn hết là ngày giờ nào để trí thức tinh thần theo thiên lương thì mở mang một cách lạ lùng. 
Tại sao khiếu vật hình không làm trở ngại vật mà phải cùng ta tự tìm kiếm, tự luyện tinh thần ấy là Pháp thân thì đạt huệ, mà đạt huệ đặng thì đóng khối trong kho vô tận từ thử đến giờ, nếu mở cửa ra được là lấy được, kiếp nầy mang thi hài xác thịt, có một bài học mà thôi, còn các bài học kia nếu chúng ta dở quyển sách vĩnh sanh ra thì không có gì khuất lấp được.
Thiên Tài qui tụ nơi trí ta đặng, không có năng lực nào nơi mặt thế nầy đối phó mà ta không thắng. Không nói Thiên Tài ấy đủ quyền năng tạo hạnh phúc thi hài chúng ta mà thôi, lại còn tạo hạnh phúc cho thiên hạ nữa mà chớ, ấy là cơ quan đạt Ðạo. Các Giáo Chủ tại thế nắm Thiên Tài, bảo trọng tinh thần loài người tức nhiên cứu người đó, bởi chúng ta thắng vật hình hữu vi, hữu hoại nầy. Ðêm ngày 24 giờ, thấy chết sống trước mắt, thiệt tướng. Chẳng phải ở cái sống nầy mà ở trong buổi chết, biết bao nhiêu kẻ khi khổ não cực nhọc thi hài quá lẽ, chạy theo phương cứu khổ, tìm không được phải thống khổ tinh thần. Muốn an ủi chúng nó phải đi con đường nào? Sự thống khổ có thể an ủi được chỉ trong giấc ngủ, khi thức, mở mắt ra thấy kiếp sống nầy đương đau thảm, ta tìm được phương an ủi, làm cho bình tỉnh tâm hồn, định được thiên lương chúng ta trong giấc ngủ, khi thức chúng ta đã thấy trường đời đau thảm.
Ðã giải rõ hai thuyết Nhơn Tài và Thiên Tài, xem coi bên nào hơn bên nào kém. Hại thay! Những kẻ biết vật không biết hình bóng của vật, chỉ biết vật không biết thiên lương, bởi cớ, trường đời ta thấy trí lự Nhơn Tài tìm phương tranh đấu sanh sống, hạnh phúc hơn người, cả Nhơn Tài hiện tướng dữ dội lần lần đẹp đẽ có mùi vị quyền năng trục cả tinh thần con người theo nó, chưa biết tồn tại chăng? Hình ảnh trước mắt ta thấy cả trường đời đi đến con đường tự diệt, chớ không phải con đường vĩnh sanh. Nếu chúng ta muốn đạt được quyền vĩnh sanh thì lấy Thiên Tài làm căn bản.
Muốn đoạt Thiên Tài không theo ai, không xin ai được hơn là đi theo Ðại Từ Phụ, dầu ta ngu ngốc thế nào, xin một ngày không đặng thì hai ngày đến một tháng, một năm, nếu theo hoài dầu cho có nhiều xin mà ông Cha không thể cho đặng, chúng ta cứ cương quyết chiều lòn phục lụy, kiên nhẫn theo hoài, dầu khó cũng phải cho, bởi không nỡ nào không cho, mà hễ Ðấng ấy cho rồi không có cái gì ở thế gian nầy đối với của ấy được.

Lời Bần Ðạo căn dặn: Mặc ai sang trọng ở trường đời, ta cứ quyết theo Chí Tôn thì đại nghiệp không mất, quả quyết đứa con nào của Ngài trọn trung, trọn hiếu với Người và với Hội Thánh là hình thể của Người tại thế gian nầy, thì không bao giờ thất nghiệp và thất phận.
Phụ ghi: Lịch Việt Nam. Ấn bản 1-3. Nguyễn Duy Thức biên sọan, Holly Ngô cập nhật dựa theo công thức của Fung F. Lee và Ricky Yeung. Hội Chuyên Gia Việt Nam 1995-1996: Ngày âl. 15-11-Đinh Hợi nhằm ngày (dl. 26-12-1947).

*     *     *
Đạo Cao Đài Và Ngày Đại Lễ Vía Đức Chí Tôn. * QS Nguyễn Thanh Bình.
I . Lời Giới Thiệu
Hàng năm, sau ngày Tết Nguyên Đán, hàng trăm ngàn tín đồ Đạo Cao Đài khắp mọi nơi ở Việt Nam và hải ngoại, đổ dồn về Tòa Thánh Tây Ninh để tham dự ngày Đại Lể Vía Đức Chí Tôn ngày mùng 9 tháng Giêng. Đây là ngày Đại Lể lớn nhất và quan trọng nhất trong Đạo Cao Đài, nói riêng, cũng như ở Việt Nam.
Đại Lễ Vía Đức Chí Tôn Tòa Thánh Tây Ninh Năm 2018
 
Bài “Đạo Cao Đài Và Ngày Đại Lễ Vía Đức Chí Tôn” viết để vinh danh mừng ngày Đại Lể Vía Đức Chí Tôn vào mùa Xuân năm Tân Sửu (2021), kỷ niệm 96 năm Đức Chí Tôn giáng trần dùng huyền diệu cơ bút dạy Đạo và 95 năm khai mở Tam Kỳ Phổ Độ.
Bài viết sưu tầm nầy chỉ trình bày tóm tắt về các tiểu mục sau đây (chi tiết xin đọc các tài liệu và bài viết ghi trong phần tham khảo):
I . Tại sao Đạo Cao Đài được khai mở ở phương Đông- Đạo Xuất Ư Đông?
II . Tiên Tri cho biết Đạo Cao Đài xuất hiện?
III . Lịch Sử Đạo Cao Đài từ ngày Đức Chí Tôn đến dạy Đạo đến lúc ban hành Tân Luật (4-2 Đinh Mão - dl: 07-3-1927).
IV . Lễ Tế Trời và Đại Lễ Vía Đức Chí Tôn ngày mùng 9 tháng Giêng? 
 
I . Tại sao Đạo Cao Đài khai mở ở phương Đông - Đạo Xuất Ư Đông?
Đạo phát xuất ở phương Đông như mặt trời mọc ở phương Đông. Đạo là nguồn sống của vạn vật, vạn loại, cũng tối cần như ánh sáng của mặt trời chiếu xuống trái đất này vậy. Sáng, mặt trời khởi mọc ở phương Đông lặn ở phương Tây. Rồi sáng hôm sau cũng tiếp tục trong cái chu kỳ đó.
Đạo là cơ mầu nhiệm, mà cơ mầu nhiệm ấy phải ra thế nào có thể hình như một con đường dẫn người ra khỏi chốn trầm luân khổ hải, lại đặng phước siêu phàm nhập Thánh.
Có nhiều giáo Hội đã lập thành có trót trăm năm trước khi mở Đạo đặng dạy lần cho Vạn quốc rõ thấu chánh truyền. Ngày nay, Thầy mới đến lập một cái Cao Đài nghĩa là Đền thờ cao hay là Đức tin lớn tại thế này (La Haute Eglise ou la plus grande foi du monde) làm nên nền Đạo; lại mượn một sắc dân hèn hạ nhỏ nhít của hướng Á Đông là An Nam ta, đặng cho trọn lời tiên tri “Đạo xuất ư Đông” và cho trùng Thánh ý chìu lụy hạ mình của Thầy, lập thành Hội Thánh làm hình thể Thiêng Liêng của Thầy, hầu cầm cho đặng dùi trống Lôi Âm giục giọng truy hồn, nắm cho chặt chày chuông Bạch Ngọc đặng trổi hơi định tánh làm cho cả con cái của Thầy thức tỉnh nhìn Thầy mà trở về quê cũ”.
Theo nguyên lý của Trời Đất thì Đạo luôn luôn phát khởi từ phương Đông. Trời do Đạo mà sanh, Đất do Đạo mà thành. Trời Đất, Người tuy khác biệt nhưng đối với Đạo thì chung Một mà thôi. Thật vậy, “Thiên Nhơn Hiệp Nhứt” hoặc "Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể" đối với phương Đông được coi như chân lý tất yếu.
“Từ cổ chí kim, tạo thiên lập địa, Đạo đều phát khởi từ phương Đông, là các nước ở miền Á Đông như các nền chơn giáo trước kia: Nho, Đạo, Thích cũng đều phát khởi nơi miền Á Đông rồi lần lần truyền bá qua phương Tây như:
- Đạo Phật thì khai tại Thiên Trước là Đức Nhiên Đăng Cổ Phật và Đức Thích Ca Mâu Ni khai Phật giáo.
- Đại Đạo là Đạo Tiên thì Lão Tử khai tại Trung Hoa.
- Sau nữa Khổng Tử khai Đạo Thánh cũng tại Trung Hoa là ở miền Á-đông.
- Sau lần lần Đạo trải khắp qua hướng Tây, nên Đức Chúa Jésus truyền Đạo Thánh tại hướng Tây (miền Đông của Âu-châu). Kế đó Đạo mới roi truyền ra khắp năm châu.
Ngày nay là “Châu nhi Phục thỉ”, nên Ðại Ðạo phát ra tại Á Ðông nầy. Bởi cớ ấy nên trong bài Khai Kinh của Ðức Lữ Tổ cho hai câu đầu như vầy:
"Biển trần khổ vơi vơi trời nước,
Ánh thái dương giọi trước phương Đông... "
Mặt trời mọc hướng Ðông rồi lần lần lặn thì qua hướng Tây, Ðạo truyền ra cũng như thế.
 
Câu “Ánh thái dương giọi trước phương Đông”. Ánh thái dương là Đạo đó vậy. Nay đã đến hạ nguơn mạt kiếp, cuối cùng nên Đức Chí Tôn mới chuyển Đạo nơi vùng Á Đông, đấy là nơi nguồn Đạo phát ra, lại khai nơi Nam Kỳ (một trong ba kỳ nơi cõi Á Đông). Vì cõi Đông Dương đây cũng về miền Đông của Á Châu nên ngày nay Đạo phải khởi khai nơi hướng Đông trước rồi mới truyền lần ra hướng Tây.
 
Như Đức Chúa Jésus khai Đạo bên Âu Châu, thì cũng khởi khai nơi miền Đông của Âu Châu, rồi mới loan truyền khắp cả Âu Châu, ấy là luật tự nhiên từ cổ chí kim, hễ Đạo phát khai thì cứ bắt đầu từ phương Đông truyền ra.
Ngày nay là giáp một vòng nên khởi lại điểm ban đầu gọi là “Thiên địa Tuần hoàn, Châu nhi Phục thủy, Đạo xuất ư Đông” là vậy. Do đó nền Đại Đạo phải khai tại Á Đông này, nên Thầy mới mở Đạo nơi Đông Dương là cực Đông của Á Châu mà lại khai nơi xứ Nam Kỳ là xứ thuộc địa, dân tộc yếu hèn, kém cỏi, ấy là do nơi Thiên Cơ tiền định cả muôn năm, lại là thưởng cái lòng tín ngưỡng của người Nam từ thử.
 
Do vậy mà trước đây Phật là trước: khởi khai ở Ấn Độ, kế đến Trung Hoa có Khổng, Mạnh, Lão, Trang. Tinh thần triết lý của các Tôn giáo này đã làm chủ thế giới trên mấy ngàn năm. Nay đã giáp vòng của trời đất. Đức Chí Tôn mới khởi khai mối Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại Châu Á. Châu Á sắc da vàng thuộc Thổ. Thổ ở trung ương, ứng với Ngũ hành, cho nên vòng xây chuyển từ Á sang Âu, nay lại quay về Châu Á nữa đó là Thiên địa Tuần hườn, Châu nhi Phục thủy, Đạo xuất ư Đông là vậy.
 
Tuy khai Đạo tại nước Nam mà cũng khởi từ Đông, do cái lý từ Bàn cổ sơ khai: “Thiên khai ư Tý, Địa tịch ư Sửu, nhơn sanh ư Dần”. Do vậy mà Đạo khởi khai tại Tây Ninh lần lần truyền ra Gia Định, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Chợ Lớn là mấy hạt ở hướng Đông. Qua năm thứ nhì, thứ ba Đạo mới truyền ra mấy hạt hướng Tây”. Đó là qui luật của đất trời nên Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Đức Chí Tôn Khai Đạo tại Tây-Ninh của Nam Việt Nam là một điều Thiên Thơ đã định vậy.
 
Lý Đạo được biểu tượng qua hình ảnh của “Long Mã Phụ Hà Đồ” đặt trên nóc của Nghinh Phong Đài tức là trong phạm vi của Cửu Trùng Đài. Con vật linh này có mình ngựa mà đầu rồng, nên được gọi là Long Mã (Long là rồng, Mã là ngựa). Long Mã chạy về hướng Tây quay đầu về hướng Đông vì "Đạo phát ư đông, di ư Tây, phản hồi Đông". Bởi lẽ đó, phương Tây cho rằng "Ánh sáng từ phương Đông đến" vì Châu Á là nơi phát xuất nhiều Tôn Giáo như Ấn Độ Giáo, Phật Giáo, Do Thái Giáo, Ky Tô Giáo… Và Đầu thế kỷ này là Đạo Cao Đài. Văn minh nhân loại chuyển theo không gian thời gian từ thời tứ tượng, nghĩa là từ Đông sang Tây. Thế nên, khi Đạo Cao Đài chủ trương "Nam phong thử nhựt biến Nhơn phong" không có nghĩa là lội ngược thời gian sống với cái cổ xưa mà thực sự ước mơ dọn đường cho một cuộc Bình Minh Thánh Đức, theo thời văn minh hiện tại chớ không kiểu thời cổ đại.
Tượng Long Mã Mang Hà Đồ Trên Nghinh Phong Đài Đền Thánh Tây Ninh
 
Hãy nhìn Long mã có 4 chân nhưng chỉ có 3 chân đặt xuống tượng cho Tam giáo, còn một chân dở hổng lên ấy là định cái Tâm cho một tam giác đều này (Dịch Lý Cao Đài). Tâm ấy là Thượng Đế là Đức Chí Tôn đang chế ngự, tức là nền Đại Đạo mà Đức Ngài đến Qui Hiệp trong tình thương yêu tha thiết.
Thầy dạy: “Con nghe: nơi nào Thầy ngự, thì nơi ấy là Thánh Địa. Thầy đã ban sắc cho Thần Hoàng Long Thành, thăng lên chức Văn Xương vào trấn nhậm làng Hiệp Ninh dạy dỗ dân vô Đạo. Thầy ban trọn quyền thưởng phạt đặng răn làng ấy cho đến ngày biết ăn năn cải hóa ...Vậy thì làng Long Thành các con khá an lòng.
“Còn Tòa Thánh thì Thầy muốn cho có Nhơn lực hiệp cùng Thiên ý, ấy là hạnh của Thầy, các con nên xem gương mà bắt chước.
“Từ Thầy đến lập Đạo cho các con đến giờ Thầy chưa hề một mình chuyên quyền bao giờ. Các con lựa chọn nơi nào mà Hội Thánh vừa lòng ắt đẹp lòng Thầy. Các con phải chung hiệp nhau mà lo cho hoàn toàn Toà Thánh, chi chi cũng tại Tây Ninh đây mà thôi; Các con đã hiểu Thánh Ý Thầy phải cần kiệm, mỗi sự chi vì phương tiện mà thôi.”
Xin trích gởi đến bài Thi của Đức Chí Tôn dạy trong Thi Văn Dạy Đạo:
" Tìm Đạo mà chi khá hỏi mình,
Bến mê mới vững vớt quần sanh.
Vun trồng cội phúc ơn chan thấm,
Dong ruổi đường Tiên nghĩa tạc gìn.
Tâm chánh nương nhau gìn lối chánh,
Lòng thành nhờ lẫn lóng hơi thanh.
Thiên cơ tuy hẳn nêu trường khảo,
Lướt khỏi, ngàn thu quả đắc thành."
 
II . Tiên Tri Cho Biết Đạo Cao Đài Xuất Hiện
Mối Đạo mà Đức Thượng Đế đã khai không phải là việc thường tình, xuất hiện không ai biết. Mấy ngàn mấy trăm năm về trước, trong các kinh sám, chư Phật, chư Tiên đã cho biết trước việc ấy, hoặc ở bên Thái Tây hoặc ở bên Á Đông.
Trong Càn Khôn Vũ Trụ, theo Pasteur không có định luật ngẫu nhiên, mọi sự việc đều có do lai riêng của nó. Đạo Cao Đài trước khi xuất hiện cũng đã có nhiều kinh sấm truyền báo trước. Sau đây là tóm tắt các lời tiên tri được sưu tầm ấy:
 
1 . Lời tiên tri trong quyển Phật Tông Nguyên Lý
Trong quyển kinh này, mấy chữ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đã được nêu lên. Chính Đức Thế Tôn Văn Phật đã có nói: sau Ngài sẽ có một vị Phật lớn hơn ra đời. Đức Phật lớn hơn Đức Thích Ca chỉ là Đấng Tạo Hoá là Đức Thái Cực Thánh Hoàng mà thôi.
 
2 . Lời tiên tri trong quyển Thanh Tịnh Kinh
Trong quyển Thanh Tịnh kinh lưu truyền lâu đời trong giới tu hành Lão Giáo có đoạn như vầy: “Thanh Tịnh kinh hữu di tích: Công viên quả mãn chỉ thọ đơn thơ. Thiên mạng phương khả truyền Đạo Tam Kỳ Phổ Độ”. Thích nôm: Kinh Thanh Tịnh có dấu tích để lại rằng: Công đầy quả đủ sẽ được lĩnh thọ đơn thơ (tức là kinh dạy cách luyện). Người có mạng Trời khá truyền Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
 
3 . Lời tiên tri trong Đạo Tam Thanh
Vào thế kỷ thứ 15 (1400-1499), bên Trung Quốc có một vị đạo sĩ tên Ngô Chi Hạc (Ou Tche Ho) có lập nên phái “Tam Thanh”, thờ Giáo chủ ba (3) Đạo lớn tại Trung Quốc là:
Đức Lão Tử (Đạo giáo)
Đức Khổng Tử (Nho giáo)
Đức Thích Ca (Phật giáo)
Đạo Tam Thanh là bước đầu của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ngày nay vậy.
 
4 . Lời tiên tri trong quyển Vạn Pháp Quy Tông
Lưu truyền trong nhân gian hơn mấy trăm năm nay, quyển Vạn Pháp Quy Tông do các đạo sĩ truyền lại có câu:
Cao Đài tiên bút thi văn tự
Câu nầy chỉ rõ rằng trong đạo Cao Đài mai sau sẽ có thơ văn của chư Tiên do thần cơ diệu bút tiếp ra đền mở Đạo.
 
5 . Lời tiên tri của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
Trong quyển Bạch Vân Am thi tập hay quyển Sấm của cụ Trạng Trình có đoạn như vầy:
" Con mừng, búng tít con quay,
Vù vù chong chóng gió lay trên đài
Nhà Cha cửa đóng then cài,
Ầm ầm sóng dậy, hỏi người Đông lân."
 
Hai câu đầu ám chỉ chữ "Vạn" trên nóc các Thánh Thất, Tịnh Thất của Đạo Cao Đài năm 1939-1945. Biểu hiệu này trùng với biểu hiệu của đảng Đức Quốc Xã nên người Pháp ra lịnh đóng cửa các Thánh Thất, Tinh Thất hợp ý với 2 câu sau trong bào thơ trên. Việc này đã xãy ra từ năm 1940-1941 nghĩa là sau khi Nhựt sang chiếm Đông Dương. Người Nhật đối với dân Việt Nam ta rõ ràng là láng giềng phía Đông. Rồi sau nhờ Nhật đảo chánh (1945) các Thánh Thất, Tịnh Thất được mở cửa lại, bởi thế mới có câu "ầm ầm súng vậy hỏi người Đông lân".
 
6 . Lời tiên tri của các Lão sư Chi Minh Sư hay là Đại Đạo
Bên Trung Quốc sau khi nhà Thanh thay thế nhà Minh, một số cựu thần nhà Minh không phục Mãn Thanh bèn lên núi ẩn tu lập ra chi Minh Sư, Minh Đường còn gọi là Đại Đạo. Một quyển kinh của các Lão sư phái ấy đã được từ bên Trung quốc chuyển sang Việt Nam. Ngoài bìa sách ấy có hai câu tiên tri như vầy:
Cao như Bắc khuyết nhân chiêm ngưỡng,
Đài tại Nam phương Đạo thống truyền.
 
Hai câu đối này cho biết Đạo Cao Đài sẽ xuất hiện tại Nam phương. Đức Cao Đài tức là Đức Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn ngự tại phương Bắc hay Bắc khuyết: “Cao như Bắc khuyết nhân chiêm ngưỡng”.
Tiện đây, viết vài hàng về Ngũ Chi Minh Đạo và Đạo Cao Đài về các bài kinh sách:
Khi mới khai Đạo, Đức Chí Tôn giáng dạy Ngũ Chi Minh Đạo (Minh Sư, Minh Lý, Minh Tân, Minh Thiện, Minh Đường) dâng kinh cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Do đó, Hội Thánh cử phái đoàn đại diện gồm 4 vị: Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung, Thượng Giáo Sư Vương Quan Kỳ, Đức Phạm Hộ Pháp, Đức Cao Thượng Phẩm đến Tam Tông Miếu (chi Minh Lý) thỉnh 6 bài kinh: Niệm Hương, Khai Kinh, Kinh Sám Hối, Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối, Bài Xưng Tụng Công Đức Phật Tiên Thánh Thần về làm kinh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Câu chuyện được kể lại như sau:
Khi đến nơi trình qua sự việc là Đức Chí Tôn dạy đến đây để thỉnh kinh của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Quí vị Hòa Thượng đó lấy làm ngạc nhiên và trả lời rằng:
“ Chúng tôi không có kinh của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mà chỉ có kinh Phật Giáo là Hồng Vân, Ngưu Lang, Phổ Môn….Nếu quí ông muốn thỉnh bao nhiêu chúng tôi cho thỉnh”.
 
Trong khi hai bên còn đang thảo luận thì có vị đầu bếp nghe được đi lên trình bày như sau:
“ Cách đây nhiều năm có một nhà Sư từ bên Trung Quốc đem đến một quyển Kinh và nói rằng: Sư phụ tôi dạy tôi mang quyển kinh nầy đi về hướng Nam của Trung Quốc, đi hoài chừng nào không đi được nữa thì gởi lại cho ngôi chùa Phật Giáo nơi đó mà dặn rằng: Sau nầy sẽ có một nền tôn giáo mới mở tại đây thì dâng quyển kinh nầy cho nền Tân Tôn Giáo đó.
 
Và ông tường thuật chuyến đi của ông từ Trung Quốc sang Việt Nam: Đến Bắc Việt, Trung Việt mãi đến Nam Việt là Sài Gòn thì không đi được nữa, vì hướng Đông có biển Nam Hải, hướng Nam co mũi Cà Mau, hướng Tây có vịnh Thái Lan, nên ông phải gởi quyển kinh nầy cho Tam Tông Miếu tại Sài Gòn. Khi nhà sư đó đi rồi quí vị Hòa Thượng mở ra xem thì thấy kinh viết bằng chữ Nho và buộc phải Tứ Thời Nhật Tụng là: Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu; mỗi tháng thì cúng Sóc Vọng là Mùng Một (1) và Rằm (15); mỗi năm cúng Tam Nguơn là Rằm tháng Giêng, Rằm tháng 7 và Rằm tháng 10 Đại Đàn. Khi cúng phải có kệ chuông trống, nhạc, lễ và đồng nhi đọc kinh.
 
Đối với Phật giáo mà buộc phải Tứ Thời Nhật Tụng thì họ không vừa ý, vì Phật giáo chỉ có công phu hai buổi sớm chiều, nên quí vị Hòa Thượng đó đem quyển kinh xuống nhà bếp bảo đốt đi. Nhưng ông đầu bếp nghĩ rằng: Người ta từ bên Trung Quốc lặn lội sang đây gởi cho mình, thà không lãnh thì thôi, còn lãnh mà đem đi đốt, nếu sau nầy có quả nhiên như vậy thì ăn nói làm sao?”
 
Nghĩ vậy nên ông liền đem quyển kinh để trên gác của nhà bếp. Sau lần lượt quí vị Hòa Thượng đó viên tịch hết, những vị Hòa Thượng khác lên thay thế nhưng ông đầu bếp đó vẫn còn sống.
 
Sau khi kể qua câu chuyện, ông đầu bếp liền đem dâng quyển Kinh cho hai vị Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc. Nghe qua câu chuyện huyền diệu ấy, quí vị Hòa Thượng đem dâng luôn những bài kinh: Sám Hối, Vãng Sanh…
Quí Ngài mang Kinh về mở ra xem, trước hết thấy lời tựa của quyển kinh là:
" Cao như Bắc Khuyết nhơn chiêm ngưỡng,
Đài tại Nam phương Đạo thống truyền."
 
7 . Lời tiên tri trong Minh Thánh Kinh Linh Sám
Trong quyển Minh Thánh Kinh Linh Sám có câu “Mạng hữu Cao Đài minh nguyệt chiếu” cho biết tá danh của Đức Ngọc Đế giáng trần mở nền Chánh giáo sáng tỏ như trăng rằm.
 
8 . Lời tiên tri trong sách Ấu Học Tầm Nguyên
Trong quyển sách này có câu: “Đầu thượng viết Cao Đài” nghĩa là ở nơi trên đỉnh đầu của mọi người thì gọi là Cao Đài.
 
9 . Lời tiên tri trong quyển Giác Mê Ca
Tác giả là một Đạo gia, có đoạn như vầy:
" Hữu duyên mới gặp Tam Kỳ Phổ Độ,
Muôn đời còn Tử phủ nêu danh
Ba ngàn công quả đặng viên thanh
Mới đặng Thiên thơ chiếu diệu."
           
Đoạn này báo trước rằng chỉ có người hữu duyên mới gặp Tam Kỳ Phổ Độ để trở về quê xưa vị cũ.
 
10 . Lời tiên tri trong quyển Kinh Tỉnh Thế Ngộ Chơn
Trong quyển kinh này có đoạn như sau:
" Đại thiên tiên hoá hoằng chơn đạo,
Trợ quốc cứu dân trích thiện luân.
Nam Hải Từ Hàng châu vận tế,
Tây phương Tiếp Dẫn Phật Đông Lâm."
 
Nghĩa là, trước khi có cuộc biến đổi lớn (thay Trời Đất) sẽ có một Đạo chơn thật khai ra giúp nước cứu dân làm điều đáng khen. Biển Nam có Phật Từ Hàng đi khắp để cứu độ. Phương Tây có Phật Tiếp Dẫn đưa đến Đông độ, xứ Phật.
Lại có đoạn cho biết trước như vầy:
" Mạt hậu kiền khôn đồng nhứt đại,
Thiên môn, vạn giáo, cộng quy căn."
 
Nghĩa là, sau đời Hạ Ngươn mạt kiếp Trời Đất đồng chung một dãy. Ngàn cửa, mọi tôn giáo đều quy về một gốc. Như vậy Đạo Cao Đài, một tôn giáo tổng hợp phần tinh tuý giáo lý của các Đạo khác đã được quyết định từ lâu.
 
11 . Lời tiên tri rút trong quyển Kinh Vạn Diệu Thiên Thơ Cổ Bổn.
Trong quyển kinh này có bài thơ:
Tam giáo kim tùng cổ hóa sanh
Tiên thiên phương hữu thị Tam Thanh,
Phật, Lão, Nho hề quy nhứt bổn,
Tự nhiên tà đạo thống tương tranh,
Vạn ức sơn hà giai hữu thử,
Tổng quy nhứt phái đắc an thành,
Xà vĩ mã đầu khai đại hội,
Tam kỳ hậu thế hiển phương danh.
 
Nghĩa là, Ba tôn giáo Nho Thích Đạo nay theo xưa mà hóa sanh,
Đạo Tiên Thiên hay đạo Tam Thanh,
Đạo Phật, đạo Tiên, đạo Nho đều về một gốc,
Lẽ tất nhiên tà đạo đều cũng tranh giành,
Khắp nơi đều có như thế
Đồng quay về một phái mới đặng yên ổn và an lành,
Cuối năm Rắn, đầu năm ngựa thì khai đại hội,
Đời sau đạo Tam Kỳ sẽ được rạng rỡ danh thơm."
 
12. Lời tiên tri rút trong Kinh Nhật Tụng của một phái tu thân tại Trung Việt.
 
Tại Trung Việt, khoảng 20 năm trước ngày khai mở Đạo Cao Đài, có một phái tu theo lối cư sĩ lấy hiệu là phái Minh Sư (khác với phái Minh Sư bên Tàu), nhà cách mạng gốc đạo sĩ Trần Cao Vân (1866-1916) mỗi ngày đã cầu Kinh Minh Sư trong đó có câu :
"Con cầu Phật Tổ Như Lai,
Con cầu cho thấu Cao Đài Tiên Ông"
 
Đến khi các giáo sĩ đạo Cao Đài ra truyền đạo tại Tam quan (Trung Việt) thì mấy vị này, sau khi nghe danh hiệu Đức Cao Đài, đều đến xin làm đệ tử ngay.
 
13 . Lời tiên tri lưu truyền tại Trung Việt đã lâu đời trước năm 1926, năm khai Đạo.
" Canh Dần, Mậu Dần niên,
Kỷ Mão, Canh Thìn tiền,
Tự nhiên Thiên phú tánh,
Cao Đài tân chân truyền."
 
Lời tiên tri này nói rõ năm nào và báo trước rằng Trời sẽ khiến lòng người theo đạo mới và đạo Cao Đài sẽ đạt chân truyền.
 
14 . Lời tiên tri trong hai bài thơ của chơn linh cụ Thủ Khoa Huân năm 1913.
Tại quận Cao Lãnh, 13 năm trước ngày khai Đạo, ngày 3 tháng 1 năm 1913, các ông văn nho, kỳ hào họp nhau tại nhà ông Lê Quang Hiển, nhạc phụ của ông Diệp văn Kỳ, để phò cơ thỉnh Tiên. Khi cơ lên, chơn linh cụ Thủ Khoa Huân, một văn sĩ cách mạng bị xử tử hình tại Mỹ Tho, giáng cơ cho hai bài thơ như sau:
" Dung tất Cao Đài nhiệm khuất thân,
Tứ triêm đào lý nhứt môn xuân.
Cánh tân bôi ức giang san cựu,
Trừ cựu thời thêm tuế nguyệt tân.
Cửu thập thiều quang sơ bán lục,
Nhất luân minh nguyệt vị tam phân.
Thừa nhàn hạc giá không trung vụ,
Mục đỗ Cao Đài tráng chí thân."
 
Cũng chính chơn linh cụ Thủ khoa Huân diễn Nôm:
" Co dủi Cao Đài khoẻ tấm thân,
Dạo xem đào lý đượm mùa xuân.
Giang sơn chẳng khác ngàn năm cũ,
Ngày tháng chờ thay một chữ tân.
Chín chục thiều quang vừa nửa sáu,
Một vừng trăng rạng chửa ba phân.
Thừa nhàn cỡi hạc không trung ruổi,
Chạm mắt Cao Đài khỏe tấm thân."
      
Trong hai bài thơ trên có nhắc bốn lần từ Cao Đài. Thời buổi ấy các ông không hiểu danh từ này có nghĩa gì. Song các ông biết rằng hai bài thơ này có nói về quốc vận một cách sâu xa.
Hai câu 5 và 6 có ý kỷ niệm ngày 3 tháng 1 năm 1913 vì câu nào cũng ngụ ý số 3. Sau đàn cơ ấy ông Lê Quang Hiển để hai bài thơ này lên trang thờ làm kỷ niệm. Mãi đến năm 1927 Toà Thánh Tây Ninh phái Chức sắc đến quận Cao Lãnh truyền Đạo và hai chữ Cao Đài đã được mọi người nói đến. Chừng ấy ông Lê Quang Hiển mới nhớ lại hai bài thơ của cụ Thủ khoa Huân đã cho 13 năm trước và đem ra trình với chư Chức sắc nói trên.
 
15 . Jésus Christ đã phán trong Thánh kinh (Thesalonians I5 : 2)
"Trong hai ngàn năm thì có Chúa xuống thế nhưng Ngài đến như kẻ trộm đi đêm, Ngài sẽ huyền diệu hơn ta, nhiều người kính mến hơn ta và không chịu đổ máu như ta, khi Ngài đến có nhiều tiếng còi kêu la inh ỏi trên thinh không. Ấy là cơ bút ngày nay đó vậy."
Trước khi có cuộc thay đổi lớn sẽ có một nền đạo chân chánh xuất hiện giúp nước cứu dân, làm điều thiện đáng khen. Biển Nam có Phật Từ Hàng đi khắp nơi để độ rỗi.
Phương Tây có Phật tiếp dẫn đưa người đến Đông độ.
 
16 . Lời tiên tri trong quyển Kinh Vạn Diệu Thiên Thư Cổ Bổn
"Tam giáo kim tùng cổ hoá sanh
Tiên thiên phương hữu thi Tam Thanh
Phật pháp Nho hề quy nhứt bổn
Tự nhiên tả đạo thống trương tranh
Vạn ức sơn hà giai hữu thử
Tổng quy nhất phái đắc an thành
Xà vĩ, mã đầu khai đại hội
Tam Kỳ hậu thế hiển phương danh."
 
17 . Lời tiên tri của Huê Quang tại Chùa Ngọc Hoàng (ĐaKao) :
Vào đêm 22-7 Qúi Hợi (dl: 2-9-1923), Huê Quang Đại Đế giáng đàn tại chùa Ngọc Hoàng ở Đất Hộ cho bài thi quán thủ như vầy:
" Huê phát Tam Kỳ Đạo dĩ khai,
Quang minh tứ hướng thướng anh (tam) tài.
Ðại phước kêu đau thân đắc ngộ,
Đế Quân giáng hạ, nhữ vô tai."
 
(Nguyễn Trung Hậu, Đại Đạo Căn Nguyên, Saigon 1930)
Câu hai tiên tri bốn phương đều kéo cờ ba màu vàng xanh đỏ (tứ hướng thướng tam tài).
 
III . Lịch Sử Đạo Cao Đài Từ Ngày Đức Chí Tôn Đến Dạy Đạo Đến Lúc Ban Hành Tân Luật (4-2 Đinh Mão - dl: 07-3-1927).
Năm Ất Sửu (1925), Đức Chí Tôn đến trần gian dùng huyền dịêu cơ bút dạy Đạo, thâu nhận đồ đệ, Thập Nhị Thời Quân để rồi năm sau, năm Bình Dần (1926) Đức Chí Tôn đã khai mở Tam Kỳ Phổ Độ. Đến nay, mùa Xuân Tân Sửu (2021) đánh dấu 96 năm Đức Chí Tôn đến dạy Đạo hay kỷ niệm 95 năm khai mở Đạo Cao Đài.
 
Thuở đầu tiên, vào thời tiền khai Đạo Cao Đài, vào chiều tối thứ bảy ngày 25-7-1925 (al:  5-6 Ất Sửu) tại nhà Ông Cao Hoài Sang ở Phố Hàng Dừa, nay là đường Cống Quỳnh, Sài Gòn, Ông Phạm Công Tắc (1890-1959), Ông Cao Quỳnh Cư (1888-1929), và Ông Cao Hoài Sang (1901-1971) đồng sắm sửa nghi lễ lần đầu tiên “xây bàn “mời vong linh quá vãng để cầu hỏi về vận mạng tương lai của Tổ Quốc hoặc xướng họa thi vịnh tiêu khiển.
 
Ngày hôm sau 26-7-1925 (âl: 6-6-Ất Sửu), giờ Tý, ba vị lại tiếp tục xây bàn và gặp được chơn linh Ngài Cao Quỳnh Tuân (Xuất Bộ Tinh Quân 1844 - (04-11 Bính Thân) 1896], thân phụ của Ngài Cao Quỳnh Cư.
Đêm 30-7-1925 (âl: 10-6-Ất Sửu) ba vị tiếp tục xây bàn và gặp chơn linh cô Vương Thị Lễ (1900-1918) (Thất Nương) xưng danh là Đoàn Ngọc Quế giáng điển cho bài đường thi và hai bài thất ngôn tứ tuyệt làm rung động ba vị xúc cảm họa vận.
 
Ngày 31-7-1925, ngài Cao Quỳnh Cư mời nhị vị Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang đến nhà ông ở số 134 đường Bourdais, nay là Calmette, Quận 1, cùng xây bàn, gặp chơn linh cô Đoàn Ngọc Quế (tá danh Vương Thị Lễ) dùng thi phú kết thân. Ngày mồng 4 tháng 7 Ất Sửu (dl: 22-8-1925), Cô Đoàn Ngọc Quế giới thiệu với ba vị chơn linh Cô Hớn Liên Bạch, giáng tặng một bài đường thi đặc sắc và bài Hoài Lang.
 
Vào đêm thứ sáu 10-7 Ất Sửu (dl: 28-8-1925), tại nhà Ngài Cao Quỳnh Cư, ba ông (Cư, Tắc, Sang) thỉnh bàn ra (lúc nầy như say Đạo), tính xây bàn cầu Cô Đoàn Ngọc Quế (tá danh của Thất Nương Vương Thị Lễ) về dạy học văn thi. Ba vị tiếp được Đức AĂÂ (tá danh của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế) giáng cho bài thơ “Ớt cay cay ớt gẫm mà cay...”
Đấng A Ă Â
Ba ông để tay thì bàn dở lên, bỗng có một Ông giáng, ông Cư hỏi tên gì, thật rất lạ, xưng là AĂÂ, gõ bàn cho một bài thi dưới đây :
Thi:
" Ớt cay cay ớt gẫm mà cay,
Muối mặn ba năm muối mặn dai.
Túng lúi đi chơi nên tấp lại,
Ăn bòn chẳng chịu tấp theo ai."
 
Ông Phạm Công Tắc nghe dứt câu liền nói với ông Cao Quỳnh Cư rằng :
- Thôi anh, ai đâu mà nói tiếng gì khó nghe quá ! Sao lại không có tên mà xưng là AĂÂ. 
Ông Cư nói :
- Ậy, em ngồi lại cho qua hỏi, vị nầy không phải tầm thường đâu em.
Ông Cư hỏi Ông AĂÂ mấy chục tuổi ?
Ông AĂÂ gõ bàn, đếm hoài không ngừng, đếm đến mấy trăm cái mà cũng không thôi. Liền đó ông Cư ngưng lại không dám hỏi nữa và kiếm hiểu Ông nầy ở trển chắc lớn lắm.
 
Từ đó về sau, có vị nào giáng cho thi thì ba ông cầu Đấng AĂÂ xin giải nghĩa.”
Khoảng đầu tháng 9 năm Ất Sửu, Đấng AĂ giáng bàn phân rằng: “Muốn cho Bần đạo đến thường, xin chư vị nạp mấy lời yêu cầu của Bần đạo như sau đây : 
" Một là đừng kiếm biết Bần đạo là ai.
Hai là đừng hỏi đến Quốc sự.
Ba là đừng hỏi đến Thiên cơ.”
Quí vị xây bàn đều hứa giữ ba điều ấy”.
 
Đêm mồng 8-8 Ất Sửu (dl: 25-9-1925), Đức AĂÂ dạy ba vị chuẩn bị thiết một lễ chay để cầu thỉnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương giáng lâm.
Ngày mồng 9-8 Ất Sửu, Cô Đoàn Ngọc Quế (Vương Thị Lễ) cho biết Cô chính là Thất Nương và Chị Hớn Liên Bạch là Bát Nương, cùng trong Cửu Vị Tiên Nương sẽ hộ giá Đức Diêu Trì Kim Mẫu vào đêm Trung Thu.
 
Sau ba ngày trai giới, đêm 14 rạng Rằm tháng Tám Ất Sửu (dl: 2-10-1925), ba vị thiết lễ Hội Yến với Chư Thiên tại tư gia Ngài Cao Quỳnh Cư 134 Bourdais. Đến giờ Tý ngày Rằm, ba vị đồng hiến lễ theo lời hướng dẫn của Thất Nương và được Chư Tiên Nương cho biết “Từ đây có Ngọc Cơ rồi thì tiện cho Diêu Trì Cung đến dạy đạo.”
 
Đêm 1-10-1925 (âl 14-8-Ất Sửu): Hội Yến Diêu Trì Cung
Lối thượng tuần tháng 8 năm Ất Sửu (1925), Thất Nương cho biết về Diêu Trì Cung:
“Diêu Trì Cung trên có Cửu Thiên Nương Nương cai quản, dưới có Chín Tiên Nương mà Cô là Thất Nương, Hớn Liên Bạch là Bát Nương.”
Ba ông (Cư, Tắc, Sang) nhờ Thất Nương dạy cách cầu Đức Cửu Thiên Nương Nương.
Thất Nương nói :
- Ba anh muốn cầu thì phải ăn chay trước ba ngày và cầu vào đêm Trung Thu, phải có ngọc cơ cầu mới đặng.
Nhơn vào ngày đó, Đấng AĂÂ bảo ba ông (Cư, Tắc, Sang) làm một cái tiệc chay đãi Mười Đấng Vô hình gồm: Đức Cửu Thiên Nương Nương và Chín vị Tiên Nương.
 
Đúng vào đêm Trung Thu, 14-8-Ất Sửu (dl 1-10-1925), tại nhà ông Cư (134 Bourdais Sàigòn, nay là đường Calmette), đúng giờ Tý, cả thảy đều đủ mặt.
Ông Cư đã sắp đặt một cái bàn dài, rải bông lá xung quanh, phía trong bàn, ngay chính giữa, để một cái ghế mây lớn, và nối theo là chín cái ghế mây nhỏ hơn đặt chung quanh bàn, trên bàn chưng dọn những bình bông và trái cây tươi tốt, đặt trước mỗi cái ghế là một tách trà, một ly rượu, một cái chén cùng với muỗng, đũa. Ông Cư đốt hương xông trầm, trang hoàng rất tinh khiết. Ông Cư lên nhang đèn, cả thảy đều quì lạy, khấn vái.
Xong, hai ông Cư và Tắc đem ngọc cơ ra cầu.
Đức Cửu Thiên Nương Nương và Cửu vị Tiên Nương giáng Ngọc Cơ để lời chào mừng quí ông.
 
Thất Nương yêu cầu ba ông (Cư, Tắc, Sang) đờn, rồi mỗi người ngâm bài thi của mình (đã làm sẵn do Thất Nương dặn trước) để hiến lễ.
Chừng nhập tiệc, Thất Nương mời ba ông ngồi vào bàn cho vui. Ba ông không thể chối từ, nên đem thêm ba cái ghế, sắp sau lưng chín cái ghế nọ, ba ông xá rồi ngồi xuống.
Bà Hiếu (bạn đời của ông Cư) sắp đặt đồ ăn chay sẵn, đi vòng quanh bàn dài, gắp thức ăn đặt vào chén của Mười Đấng, rồi rót rượu và rót nước trà, đãi Mười Đấng Vô hình, giống như đãi người hữu hình vậy.
Cách chừng nửa giờ sau, như là tan tiệc, hai ông Cư và Tắc đem Ngọc Cơ tái cầu.
Lịnh Nương Nương và Chín Tiên Cô để lời cảm tạ, nói rằng : 
- Từ đây có Ngọc Cơ rồi thì tiện cho Diêu Trì Cung đến dạy việc.
Xong mỗi vị cho một bài thi 4 câu làm kỷ niệm (không ghi các bài thi trong bài viết nầy)
 
Ngày 27-10 Ất Sửu (dl: 12-12-1925), Đức Cửu Thiên Huyền Nữ (Cửu Thiên Nương Nương) giáng cơ mách bảo rằng: “ Mùng 1 tháng 11 nầy, tam vị đạo hữu Vọng Thiên Cầu Đạo”.
Ba ông hợp nhau bàn giải, không hiểu cầu đạo là gì mà Đức Bà dạy, để cầu hỏi mấy em.
Ngày sau, ba ông cầu Thất Nương hỏi :
- Thất Nương dạy giùm, cầu đạo là gì ?
Thất Nương nói :
- Không phải phận sự của em, xin hỏi Ông AĂÂ.
Ngày sau nữa, có các Đấng giáng, ba ông hỏi thì các Đấng cũng nói :
- Không phải phận sự của tôi, xin hỏi Ông AĂÂ.
Đêm 30-10 Ất Sửu (dl: 15-12-1925), ba ông cầu Đấng AĂÂ thì Đấng AĂÂ giáng dạy rằng :
- Ngày mùng 1 tháng 11 nầy (dl: 16-12-1925), tam vị phải Vọng Thiên Cầu Đạo. Ba vị tắm gội cho tinh khiết, ra quì giữa Trời, mỗi vị cầm 9 cây nhang mà vái rằng :
“Ba tôi là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, vọng bái Cao Đài Thượng Đế, ban ơn đủ phúc lành cho ba tôi cải tà qui chánh.”
 
Ngày 16-12-1925 (âl 1-11-Ất Sửu): Vọng Thiên cầu Đạo
Nhớ lời Ông AĂÂ dạy, tối hôm mùng 1 tháng 11 năm Ất Sửu, ba ông mặc áo dài đen, quần trắng, đầu đội khăn đóng, đặt một cái bàn nhỏ và thấp ngoài sân, trước nhà ông Cư, đồng quì xuống, chống tay lên bàn, mỗi người cầm 9 cây nhang đốt cháy, đưa lên vái : “ Ba tôi là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, vọng bái Cao Đài Thượng Đế ban ơn đủ phúc lành cho ba tôi cải tà qui chánh.”
 
Ba ông cứ tịnh tâm mặc niệm, vái đúng như lời của Đấng AĂÂ dạy, không nhớ tới cái vụ quì ngoài sân cỏ, dựa đường đi, có kẻ qua người lại dập dìu, lớp thì xe cộ họ đi chơi, lớp thì đi coi hát về, họ dừng chân lại coi ba ông nầy cúng vái ai mà lại quì ngoài sân cỏ như vậy. Ai coi mặc ai, ba ông cứ quì đó cầu khẩn, van vái cho tàn hết 9 cây nhang.
Cúng vái xong, ba ông vào nhà, đem Ngọc Cơ ra cầu.
Đấng Cao Đài Thượng Đế giáng cơ, viết chữ Nho, cho 4 câu Hán văn, chép ra sau đây:
" Vọng niệm phân kỳ sự sự phi,
Cá lý Thiên tâm thường thế nhẫn.
Thiên tâm tu hướng cá trung cầu.
Quân vấn Thiên tâm mạc tri tường."
 
Ba Ông không hiểu chi cả.
Khi Đấng Cao Đài Thượng Đế thăng rồi, ba ông mới thỉnh bàn ra, cầu Ông AĂÂ xin giải nghĩa 4 câu Hán văn của Đức Cao Đài Thượng Đế trên đây.
 
Đấng AĂÂ giáng, giải nghĩa như sau :
"Cầu ước, phần thửa, việc việc, chẳng phải,
Mỗi, lẽ, Trời, lòng, thường, thế, nhịn.
Trời, lòng, tua, ngó theo, mỗi, giữa, khẩn,
Bây, hỏi, Trời, lòng, chẳng, biết rõ."
 
                 Nghĩa xuôi :
"Việc cầu ước đều chẳng phải,
Mỗi lẽ do lòng Trời, phải đợi lịnh.
Lòng Trời tua ngó theo mỗi việc đều cầu khẩn,
Bây hỏi lương tâm chưa biết rõ sao ?"
 
Đấng AĂÂ nói:
Đấng Cao Đài Thượng Đế nói tam vị chưa đủ đức tin về Ngài nên hỏi gạn lại. Tam vị phải nghĩ cho thấu. Đấng AĂÂ cho bài thi :
" Cứ níu theo phan Đức Thượng Hoàng,
Tự nhiên tu tánh đặng bình an.
Nguyệt hoa căn tội tua xa lánh,
Vịn lấy nhành dương hưởng Đạo nhàn."
 
Đêm Noel, 24-12-1925 (âl: 9-11-Ất Sửu), Thất Nương giáng cơ truyền phải chỉnh đàn cho nghiêm trang hầu tiếp giá. Nghe vậy, ba ông Cư, Tắc, Sang, nửa mừng nửa sợ, lật đật sắm hương đăng hoa trà tửu quả, chỉnh đàn có nghi tiết, rồi hai ông Cư và Tắc ngồi chấp cơ. Cơ giáng, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế Viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát Giáo Đạo Nam Phương cho bài thi:
“Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên.
Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên”.
 
“Đêm nay phải vui mừng vì là ngày Ta đã xuống trần dạy Đạo bên Thái Tây (Europe). Ta rất vui lòng mà đặng thấy đệ tử kính mến Ta như vậy. Nhà nầy (nhà của ông Cư) sẽ đầy ơn Ta. Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính mến Ta hơn nữa.
Tam vị có lời bạch, cầu xin được biết Đức AĂÂ là ai
Bấy lâu Thầy vẫn tá danh AĂÂ là cốt để dìu dắt các con vào đường đạo đức, hầu chẳng bao lâu đây, các con phải ra giúp Thầy mà khai Đạo.
Các con có thấy Thầy khiêm nhượng là dường nào chưa?
Các con nên bắt chước Thầy trong mảy mún thì mới xứng đáng là người đạo đức”.
(Đại Đạo Căn Nguyên, Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu)
 
Tiếp theo tái cầu (Noel năm 1925), Ông Cao Quỳnh Cư bàn với các bạn rằng "Bình sanh tôi lấy làm khâm phục thi văn ông Lý Bạch. Vậy chúng ta cầu thử người coi". Sau khi dâng lễ, khấn vái, thi sĩ Lý Bạch giáng cơ xác nhận thân thế và ý chí của Ngài như sau:
Thi:
Đường trào hạ thế hưởng tam quan
Chẳng quản công danh chỉ vị nhàn
Ly rượu trăm thi lời vẫn nhắc
Tánh tiên muôn kiếp vốn chưa tàn
Một bầu phong nguyệt say ngơ ngác
Đầy túi thơ văn đổ chứa chan
Bồng đảo còn mơ ngày bút múa
Tả tình thế sự, vẽ giang san.
 
Đầu tháng 12 năm 1925, Đấng AĂÂ giáng bàn phân với ba ông Cư, Tắc, Sang rằng :
- Muốn cho Ta tận tâm truyền Đạo, các vị phải gọi Ta bằng THẦY cho tiện bề đối đãi.
Ba ông vui lòng vưng chịu.
Từ đây, giữ nghĩa Thầy trò, tình giao thiệp càng thêm mật thiết.
(Đại Đạo Căn Nguyên, Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu)
Đêm cuối năm dương lịch 31-12-1925 (âl: 16-11 Ất Sửu), Đức Cao Đài giáng cơ giảng dạy: “Con thấy đặng sư hạ mình của AĂÂ thế nào chưa… AĂÂ là Thầy”.
Ngày 02-01-1926, Đức Cao Đài lâm đàn dạy nhị vị Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc về ý thức trọng trách sắp được giao phó: “Thầy dặn hai con một điều… Thầy khởi sự dạy Đạo cho.”
Ngày 03-01-1926, Thầy dạy bổ sung về thủ cơ chấp bút. Ngày 04-01-1926, Thầy dạy về việc tụng kinh. Tiếp theo sau đó Thầy dạy thờ Thiên Nhãn tại nhà Ngài Cao Quỳnh Cư. Ngày 11-01-1926, Ngài Lê Văn Trung tìm đến hầu đàn tại nhà Ngài Cao Quỳnh Cư sau khi đàn Chợ Lớn bế cơ.
 
Đêm 22-01-1926, tại nhà ông Đoàn Văn Bản, Đức Cao Đài dạy quý Ông Kỳ, Trung, Bản, Cư, Tắc: “…Thầy muốn cho các con thương yêu nhau, sum hiệp với nhau. Nghe và tuân theo. Thầy sẽ nói lại với Chiêu, song con phải tùng nó”. Sau đó, nhóm của quý Ngài Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc đến tìm gặp nhóm của Ngài Ngô Minh Chiêu (1878-1932) xác định hình thức Thánh Tượng Thiên Nhãn.
Đêm giao thừa Ất Sửu qua Bính Dần (dl: 12-02-1926), Đức Chí Tôn phối hợp hai nhóm ghi trên (Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Ngài Ngô Minh Chiêu) làm một bộ phận thông công chung, lần lượt đến từng tư gia 11 vị của hai nhóm, thiết đàn cơ, được Đức Cao Đài ban ân mỗi vị một bài tứ tuyệt. Cuối cùng bộ phận thông công và hai nhóm trở về tụ hội tại nhà Ngài Lê Văn Trung lập đàn đón giao thừa. Đức Cao Đài dạy “Chiêu… thay mặt Ta mà dạy dỗ chúng nó. Trung, Kỳ, Hoài, phải lo thay mặt Chiêu mà đi độ người… Bản, Sang, Giảng, Quý, lo dọn mình đặng truyền bá chúng sanh. Đắc giúp đỡ Trung. Đức… Hậu, sau theo mấy anh con đặng độ người…”
 
Ngày 12-2-1926 (âl: 30-12-Ất Sửu): Hiệp với ông Ngô văn Chiêu
Cách đây ít ngày, Đức Chí Tôn (Thượng Đế) giáng cơ dạy mấy ông: Trung, Cư, Tắc, Sang, Hậu, Đức phải hiệp với ông Phủ Ngô Văn Chiêu mà lo mở Đạo. Ngài lại dạy rằng, mỗi mỗi phải do nơi ông Chiêu là Anh Cả. Lúc nầy trong Đạo kể được 13 người :
1 . Ngô Văn Chiêu
2 . Lê Văn Trung
3 . Vương Quan Kỳ
4 . Nguyễn Văn Hoài
5 . Đoàn Văn Bản        
6 . Võ Văn Sang
7 . Lê Văn Giảng 
8 .  Lý Trọng Quí
9 . Cao Quỳnh Cư 
10 . Phạm Công Tắc
11 . Cao Hoài Sang
12 . Nguyễn Trung Hậu
13 . Trương Hữu Đức.
 
Đến đêm 30 tháng chạp năm Ất Sửu (dl: 12-2-1926), Đấng Thượng Đế giáng cơ cho mỗi vị trên một bài thi (13 bài thi không có ghi bài thi trong bài viết nầy).
Ngày 27-01-1926 (âl: 14-12 Ất Sửu), lễ khai đàn thượng Tượng được tổ chức tại nhà Ngài Cao Quỳnh Cư, ngày 31-01-1926 (dl: 18-12 Ất Sửu) tại nhà Ngài Vương Quang Kỳ và Ngài Lê Văn Trung.
Ngày mồng 9 tháng Giêng Bính Dần (1927), tổ chức thông công lập tại nhà Ngài Vương Quang Kỳ để đồng thiết Lễ Vía Trời (sau gọi là Lể Vía Đức Chí Tôn).
Ngày 20 tháng 2, 1926 (dl: 20-02-1926), Đức Cao Đài giáng cơ Ngọc Hoàng Thượng Ðế Viết Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát Giáo Ðạo Nam Phương dạy:
Bửu tòa thơ thới nở thêm hoa,
Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà,
Chung hiệp ráng vun nền Ðạo Ðức,
Bền lòng son sắt đến cùng Ta.
 
Cái nhánh các con là nhánh chính mình Thầy làm chủ, sau các con sẽ hiểu. Thầy vui muốn cho các con thuận hòa cùng nhau hoài, ấy là lễ hiến cho Thầy rất trân trọng. Phải chung lo cho danh Ðạo Thầy.
Ðạo Thầy tức là các con, các con tức là Thầy, phải làm cho nhau đặng thế lực, đừng ganh gổ nghe! Các con giữ phận làm tùy ý Thầy muốn, ngày sau sẽ rõ thấu ý muốn của Thầy.
Vào vòng huynh đệ khá thương nhau,
Một đức trổi hơn một phẩm cao.
Quyết chí Thiên Ðường mau bước tới,
Phải nhiều máu thịt mới đồng bào.
 
Các con phải hiểu rằng: Thầy, là huyền diệu thế nào? Cách dạy, Thầy buộc tùy thông minh mỗi đứa mà dạy.
 
Ngày 13-01 Bính Dần (dl: 25-02-1926), tại nhà Ngài Cao Quỳnh Cư, Đức Cao Đài dạy ý nghĩa và cách bái lạy chắp tay bắt ấn Tý cùng cách may bộ thiên phục.
Ngày rằm tháng Giêng Bính Dần (dl: 27-02-1926), tại dinh quận Cần Giuộc, Ngài Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc độ Ngài Nguyễn Ngọc Tương (1881-1951). Đức Cao Đài dạy: “Tương, từ đây con trấn nhậm nơi nào thì là hồng phúc của nơi ấy nghe con…”
Ngày 04-3-1926, Ngài Nguyễn Ngọc Tương cùng nhiều vị tiền khai đến Vĩnh Nguyên Tự xin phép lập đàn. Ngài Lê Văn Lịch (1890-1947) và Ngài Trần Văn Thụ (1857-2927) vâng lời dạy của Thái Lão Sư Lê Đạo Long đắc quả vị Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn giáng đàn, chuyển qua tu theo đạo Cao Đài.
Từ xưa đến nay, cứ mỗi lần Đức Thượng Đế khai mở một mối Đạo mới thì Đức Ngài dùng một danh xưng mới, ví dụ như: Thái Thượng Nguơn Thỉ, Thích Ca Mâu Ni, Gia Tô Giáo Chủ,...
 
Ngày 7-4-1926 (Bính Dần), Đức Thượng Đế cho biết danh xưng của Đức Ngài trong thời Tam Kỳ Phổ Độ qua bài Thánh Giáo sau đây:
Nhiên Đăng Cổ Phật thị Ngã,
Thích Ca Mâu Ni thị Ngã,
Thái Thượng Nguơn Thỉ thị Ngã,
Gia Tô Giáo Chủ thị Ngã
Kim viết Cao Đài.„
(Trích từ Phổ Cáo Chúng Sanh)
 
                          Nghĩa là:
Nhiên Đăng Cổ Phật là Ta,
Thích Ca Mâu Ni Phật là Ta,
Thái Thượng Nguơn Thỉ là Ta,
Gia Tô Giáo Chủ là Ta,
Nay gọi là Đấng Cao Đài.
 
Như vậy, danh xưng của Đức Thượng Đế trong thời Tam Kỳ Phổ Độ là Đấng Cao Đài.
Khai Đạo tại Việt Nam vào thời mạt pháp, Đức Thượng Đế đã dùng hai chữ Cao Đài, là Tòa Ngự của Ngài, để làm danh xưng cho Ngài và cho mối Đạo mới là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (hay Đạo Cao Đài).
 
Theo Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Phật Thích Ca giáng dạy về “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ” lần đầu tiên vào ngày 26-2-Bính Dần (dl: 8-4-1926) tại Đàn cơ nơi Vĩnh Nguyên Tự (Cần Giuộc, Long An). Bài Thánh ngôn Đức Thích Ca Mâu Ni Phật giáng cơ như vầy:
Thích Ca Mâu Ni Phật
Chuyển Phật Đạo,
Chuyển Phật Pháp,
Chuyển Phật Tăng,
Qui nguyên Đại Đạo, tri hồ chư chúng sanh?
 
Khánh hỷ! Khánh hỷ! Hội đắc Tam Kỳ Phổ Độ. Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đại hỷ phát đại tiếu. Ngã vô lự tam đồ chi khổ. Khả tùng giáo Ngọc Đế Viết Cao Đài Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.”
Để truyền Đạo qua cơ bút, Ðức Chí Tôn chọn một sộ môn đồ và tạm phong là Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ. Ðêm 25 rạng mặt 26-4-1926 (al: 14 rạng mặt rằm-3-Bính Dần), Đức Chí Tôn giáng cơ dạy:
Ðức, Hậu, phong vi tiên đạo phò cơ Ðạo Sĩ. Cư, phong vi Tá Cơ Tiên Hạt Ðạo Sĩ.
Tắc, phong vi Hộ Giá Tiên Đồng Tá Cơ Ðạo Sĩ.
Trung, Lịch, đã thọ sắc, cứ tước vị mà theo lịnh sắc mạng Ta.
Kỳ, phong vi Tiên Sắc Lang Quân Nhâm Thuyết Ðạo Giáo Sư.
Bản, phong vi Tiên Đạo Công Thần Thuyết Ðạo Sư.
Cư, tuân theo lời Thầy truyền mà thi hành.
 
Theo tài liệu sưu khảo, để chuẩn bị cho Thập Nhị Thời Quân, Ðức Chí Tôn lập 6 cặp Phò loan, phong là Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ, gồm:
1 - Trương Hữu Ðức - Nguyễn Trung Hậu: Phò loan tại đàn Cầu Kho.
2 - Trần Duy Nghĩa - Trương Văn Tràng: Phò loan tại đàn Lộc Giang (Phuớc Long Tự).
3 - Phạm Văn Tươi - Ca Minh Chương: Phò loan tại đàn Tân Kim (Cần Giuộc)
4 - Nguyễn Thiêng Kim - Phạm Tấn Ðãi: Phò loan tại đàn Long Thành Tự (Cần Ðước).
5 - Huỳnh Văn Mai - Võ Văn Nguyên: Phò loan tại đàn Thủ Ðức (gần Chợ Thủ Ðức).
6 - Nguyễn Văn Mạnh - Lê Thiện Phước: Phò loan nhiều nơi, không rỏ và nhất định.
 
Khi lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài, ba vị Phò loan: Nguyễn Thiêng Kim, Huỳnh Văn Mai, Võ Văn Nguyên không đến dự, nên ba vị nầy không được phong vào Thập Nhị Thời Quân Hiệp Thiên Ðài.
 
Ðức Chí Tôn phong cho ba vị khác là: Thái Văn Thâu, Lê Thế Vĩnh, Cao Ðức Trọng.
Ngài Cao Ðức Trọng được Ðức Chí Tôn phong sau cùng.
Ngày Rằm tháng 3 Bính Dần (1926), Ngài Lê Văn Lịch thọ Thiên Phong Đầu Sư phái Ngọc (Ngọc Lịch Nguyệt). Vốn căn bản Đạo Minh Sư, thờ Tam Giáo, với Phẩm tước cao trọng trong thành phần lãnh đạo, Ngài được giao chọn kinh dùng trong nghi lễ. Các bài kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế,  Phật Giáo (Hỗn Độn Tôn Sư…), Tiên Giáo (Tiên Thiên khí hóa…) và Nho Giáo (Quế Hương nội điện…) được chọn dùng trong kinh Cao Đài.
 
Ngày 17-5 Bính Dần (1926), Ngài Nguyễn Ngọc Tương thọ Thiên Phong phẩm Phối Sư và ngày lễ Thiên Phong chức sắc lần 2, Ngài được ân ban phẩm Chánh Phối Sư.
Ngày 10-9 Bính Dần (1926), Thầy ân phong Ngài Trần Văn Thụ (Thái Lão Sư Trần Đạo Minh) (1857-1927) phẩm Chưởng Pháp phái Ngọc.
Đầu năm Bính Dần (1926), Quý Ngài Lê Văn Trung, Vương Quang Kỳ, Cao Quỳnh Cư, Nguyễn Văn Kinh đến Linh Quang Tự xin lập đàn. Thái Lão Sư Trần Đạo Quang (1870-1946) chịu quy hiệp Cao Đài trong đó đặc biệt có chư vị Nguyễn Văn Tương (sau thọ thiên phong Thượng Chưởng Pháp), Nguyễn Văn Kinh và nhiều vị khác nữa.
 
Ngày 12-12 Bính Dần (dl: 15-01-1926), Ngài Trần Đạo Quang thọ phong Ngọc Chưởng Pháp.
Ngày 26-6-1926, Ngài Nguyễn Ngọc Thơ (1873-1950) và bà Lâm Hương Thanh (1874-1937) thượng sớ Cầu Đạo, được Đức Chí Tôn thâu nhận làm tín đồ cốt cán.
 
Tiếp theo sau đó, nhiều vị tu theo Minh Sư và những vị có học thức, có danh tiếng, quy hiệp về Cao Đài như Ca Minh Chương, Yết Ma Nhung, Yết Ma Luật, Yết Ma Giống, Đốc Phủ Lê Bá Trang, Tri Phủ Mạc Văn Nghĩa, Thông Phán Ngô Tường Vân, Nghiệp chủ Nguyễn Phát Đạt, Đại Hương Cả Ngô Văn Kim, Thông Phán Nguyễn Văn Giỏi, Nghị viên Nguyễn Văn Lai, Cai Tổng Nguyễn Văn Chức, v.v…
Kể từ tháng 3-1926, số người nhập môn Cao Đài ngày càng nhiều (hàng ngàn người). Các Đàn Phổ Độ nhanh chóng được mở thêm như Trường Sanh Tự, Vạn Phước Tự, Đàn Lộc Giang, Đàn Thủ Đức…
 
Ngày 13-3 Bính Dần (dl: 24-4-1926), Ngài Ngô Văn Chiêu từ phẩm vị Giáo Tông của phương tu phổ độ (hữu hình), trở lại tiếp tục con đường nội tu Tâm Truyền (vô vi) sau nầy lập nên Phái Chiếu Minh (Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi).
 
Giờ Tý ngày Rằm tháng Ba Bính Dần (dl: 26-4-1926), tại nhà Ngài Lê Văn Trung, chư vị Thiên Phong lập đàn thọ phong chức sắc, đến trước Bàn Ngũ Lôi và bàn Hộ Pháp quỳ thề làm tròn Thiên Đạo và dìu dắt mấy em, môn đệ của Cao Đài Ngọc Đế.
 
Các vị chức sắc gồm: Thượng Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, Ngọc Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt, Hộ Pháp Hộ Giá Tiên Đồng Tá Cơ Đạo sĩ Phạm Công Tắc, Tá Cơ Tiên Hạc Đạo Sĩ Cao Quỳnh Cư, Tiên Đạo Phò Cơ Đạo sĩ Trương Hữu Đức và Nguyễn Trung Hậu, Tiên Sắc Lang Quân Nhậm Thuyết Đạo Giáo Sư Vương Quang Kỳ, Tiên Đạo Công Thần Thuyết Đạo Sư Đoàn Văn Bản.
 
Ngày 28-6 Bính Dần (dl: 06-8-1926), tại Tam Tông Miếu Minh Lý Thánh Hội, Đức Lục Đinh Thần, vâng lịnh Đức Đạo Tổ, truyền phải sắm 12 cuốn kinh Sám Hối cho thiệt tốt và cho đi mời Ngài Lê Văn Trung, Phạm Công Tắc, Cao Huỳnh Cư, Lê Văn Lịch, Vương Quang Kỳ,… đến làm lễ thỉnh kinh. Trong bộ kinh thỉnh 6 bài kinh: Niệm Hương, Khai Kinh, Kinh Sám Hối, Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối, Bài Xưng Tụng Công Đức Phật Tiên Thánh Thần về làm kinh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
 
Đêm mồng 1 rạng mồng 2-7 Bính Dần (dl: 9-8-1926), tại Vĩnh Nguyên Tự, Thầy dạy ngài Ngọc Lịch Nguyệt lập Tam Trấn chứng đàn. Quý ông Nguyễn Ngọc Tương, Ngô Văn Kim và Nguyễn Ngọc Thơ lập thệ có mặt quý Ngài Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang. Cũng trong đêm này, Thầy ân ban tịch đạo “Thanh” cho Nam Phái.
Ngày 8-8-1926 (âl: 1-7-Bính Dần): Ngọc Hoàng Thượng Đế Cao Ðài Giáo Đạo Nam Phương giáng cơ dạy:
" Trong Tam Kỳ Phổ Ðộ và qui Tam giáo nầy,
Phật thì có Quan Âm,
Tiên thì có Lý Thái Bạch,
Thánh thì có Quan Thánh Ðế Quân, khai đạo."
 
Vậy con lập cho đủ Ba Trấn chứng đàn, con phải lập bàn Ngũ Lôi như Thầy dạy lúc trước, phải có bùa Kim Quang Tiên, còn con viết bùa Giáng Ma Xử để bàn vọng Hộ Pháp, rồi Cư chấp bút nhang cho Thầy triệu Ngũ Lôi đến, rồi nó xuống đứng gần bàn Hộ Pháp với Tắc và Sang, còn mấy đứa phò loan đứng vòng theo đó.
Con biểu Tương, Kim, Thơ, thề y như buổi trước, chư môn đệ thề như buổi Thiên phong.
Con phải nhớ dặn chúng nó tịnh tâm mới đặng, vì có cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật chứng đàn. Các con nghe Tịch Ðạo (Thầy ban Tịch Đạo Nam Phái Cửu Trùng Đài):
Thi:
THANH đạo tam khai thất ức niên,
Thọ như địa quyển thạnh hòa Thiên.
Vô hư qui phục nhơn sanh khí,
Tạo vạn cổ đàn chiếu Phật duyên.
 
THANH là Tịch các con (Tịch Đạo Nam Phái). Phải dùng tên ấy mà thề.
Tái cầu: ngày 8-8-1926 (âl: 1-7-Bính Dần): Tam Trấn Tam Kỳ Phổ Độ giáng cơ
Trong đàn cơ nầy, Tam Trấn Tam Kỳ Phổ Độ là Lý Thái Bạch (Tiên Đạo), Quan Âm (Phật Đạo) và Quan Thánh Ðế Quân (Thánh Đạo) giáng cơ mổi vị cho bài thi:
Lý Thái Bạch giáng cơ:
Thái thượng vô ngôn hữu đạo thành,
Bạch vân hữu nhãn kiến nhơn sanh.
Kim quang đắc kiếp tu tâm thiện,
Tinh đẩu nan tri ngã độ thành.
 
Quan Âm giáng cơ:
Quang minh Nam Hải trấn thiền môn,
Âm cảnh năng tri độ dẫn hồn.
Bồ đoàn mạc hám liên huê thất,
Tác thế tâm ưu khởi đạo tông.
 
Quan Thánh giáng cơ:
Quan thành tái hiệp Hớn triều phong,
Thánh đức mạc vong hám thế trần.
Ðế thất nhứt tâm trung khí dõng,
Thanh y xích diện hảo vinh phong.
Thánh Tượng Tam Trấn và Thánh Tượng Ngũ Chi (Cũ & Mới)
 
Ngày mồng 3-7 Bính Dần (dl: 10-08-1926), tại nhà Ngài Thượng Trung Nhựt, lễ thọ nhận Thiên Phong lần 2 cho quý vị vừa được ân ban trong đêm mồng 1 rạng mồng 2 tháng 7 ở Vĩnh Nguyên Tự.
Ngày 13-8 Bính Dần (dl: 18-9-1926), Thầy nhắc lại Thánh Lệnh tổ chức Lễ Khai Minh Đại Đạo vào ngày Rằm tháng Mười Bính Dần (dl: 15-10-1926) có Đại Hội cả Tam Giáo.
 
Ngày 18-09-1926 (al: 13-8 Bính Dần): Ngọc Hoàng Thượng Ðế Viết Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát Giáo Ðạo Nam Phương giáng cơ dạy:
“Các con, Thầy đã lập thành Thánh Thất; nơi ấy là nhà chung của các con; biết à.
Thầy lại quy Tam Giáo lập thành Tân Luật, trong rằm tháng mười có đại hội cả Tam Giáo nơi Thánh Thất. Các con hay à!
Sự tế tự sửa theo "Tam Kỳ Phổ Ðộ" cũng nơi ấy mà xuất hiện ra; rõ à!
Thầy nhập ba chi lại làm một là chủ ý quy tụ các con trong Ðạo Thầy lại một nhà, Thầy làm cha Chưởng quản, hiểu à!
Từ đây trong nước Nam duy có một Ðạo chơn thật là Ðạo Thầy đã đến lập cho các con, gọi là "Quốc Ðạo", hiểu à! ….
Các con phải ngưng mọi việc mà chung lo trong đại hội”.
 
Ngày Rằm tháng 8 Bính Dần, Thầy dạy hai Ngài Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt phải hội “chư Thánh” làm đơn mà xin Khai Đạo.Đọc tiếp phần 2 :
 Home   Mục Lục: [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11[12]