BÀI ĐÓNG GÓP TẬP SAN BAN THẾ ĐẠO
XUÂN TÂN SỬU (2021)
I - BÀI SƯU TẦM:
CHỮ “VẠN” TRONG ĐẠO PHẬT
(A) (B)
Còn Chữ VẠN của Hitler, màu đen, chính
giữa xéo: Sauvastika hay Destruction (ý nghĩa xấu xa)
Chữ VẠN của Hitler
Chữ VẠN là một biểu tuợng chứ không phải
là chữ viết.
Bốn cánh của chữ VẠN tạo thành như 4 cái
bóng của 4 cái đầu của hình chữ Thập + khi quay tròn. Do đó, chữ VẠN nếu có
chiều quay ngược chiều kim đồng hồ (gọi là A) thì là chiều quay tự nhiên của
các quả địa cầu quanh mặt trời và cũng là chiều tự quay của nó. Nếu nó quay
thuận theo chiều kim đồng hồ (gọi là B), tức là theo chiều tương sanh trong Ngũ
hành. Có nhiều tranh cãi về chiều quay của chữ VẠN trong Phật giáo. Cáo nào
đúng? Cái nào sai?
1 - Theo Hán Việt của Thiều Chửu, trang
68:
Chữ nầy trong kinh truyện không có, chỉ
trong nhà Phật mới có thôi. Nhà Phật nói rằng: Khi Phật giáng sinh, trước ngực
có hiện ra hình chữ VẠN, người sau mới biết.
Chữ VẠN quay theo chiều ngược với chiều
quay của kim đồng hồ.
Trong bộ Hoa Nghiêm Âm Nghĩa nói rằng: Chữ
VẠN nguyên không có, đến niên hiệu Tràng Thọ thứ hai đời nhà Chu mới chế ra âm là VẠN, có
nghĩa là muôn đức tốt lành đều hợp cả ở đấy. Lại nữa, nguyên chữ VẠN quay ngược
nầy theo nguồn tiếng Phạn tên là Srivatsalaksana. Các Ngài La Thập, Huyền Trang
dịch là ĐỨC, Ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch là VẠN.
Ở bên Ấn Độ, thì tương truyền là cái tướng
cát tường thì dịch là ĐỨC để nói về công đức, còn dịch VẠN là nói về công đức
đầy đủ.
Song, chữ VẠN (A) nguyên là hình tướng chớ
không phải là chữ, cho nên dịch là cát
tường hải vân tướng, mà theo cái hình xoay về bên hữu (A) là phải hơn. Vì
xem như nhiễu Phật thì nhiễu về bên hữu, hào quang của Phật ở khoãng long mày
phóng ra cũng xoay về bên hữu, thì viết xoay về bên hữu như (A) mới đúng là
tướng cát tường, có chỗ để xoay về bên tả (B) là lầm.
Vậy theo Thiều Chửu như trên đây thì chữ
VẠN quay theo chiều ngược kim đồng hồ là ĐÚNG.
2 - Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn:
* trang 600, Q3.
Chữ VẠN (Svastika) thì chữ quay thuận theo
chiều kim đồng hồ (B) cũng gọi là Kiết Tường. Ấy là chữ linh bên Ấn Độ, chữ ấy
có sức đưa lại, nêu ra các điểm tốt lành, vui vẻ, phước đức. Vì vậy nên gọi là
Kiết tường, Vạn tự, Đức tự. Sức lành của chữ VẠN theo mẫu (B) sâu rộng như
biển, cao lớn như mây.
Chư Phật Thế Tôn đều có hình chữ VẠN nổi
nơi ngực. Ấy là tướng quí của các Ngài, và tóc của các Ngài cũng có hình chữ VẠN
nữa. Chữ VẠN tiêu biểu cho các điều may mắn, phước đức, tốt lành, cho nên ở
trước các ngôi chùa Phật, người ta thường thấy vẽ hình chữ VẠN ấy.
Chữ VẠN nơi ngực Đức Phật
Theo Đoàn Trung Còn, hình chữ VẠN (A) là
sai, (B) là đúng.
Điều nầy trái ngược với Thiều Chửu (phần1
trên). Nhưng cả hai đều không giải thích được lý do tại sao chữ VẠN quay chiều
nầy thì cát tường, theo chiều kia ngược lại thì nguy hại. Cả hai vị đều không
đưa ra được cái lý do xác đáng và có sức thuyết phục để người ta không thể bài
bác được.
Còn Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thì
sao?
3 - Từ Điển Phật Học của Giáo Hội PGVN:
Theo Phân Viện Nghiên Cứu Phật Học, Chủ
biên Kim Cương Tử, Q2-trang 1822:
VẠN TỰ: Svastina hoặc Srivatsalaksana là
thuật ngữ.
Theo đó, chữ VẠN theo chiều nghịch (A) là
tướng biểu thị sự tốt lành lưu truyền ở Ấn Độ, Phật Giáo, Bà La Môn giáo, Kỳ Na
giáo đều có sử dụng. Sớm nhất là trên tượng Phật Phạm Thiên, Visnu, Krisna. Âm
tiếng Phạn chữ VẠN là Thất-lị-mạt-sa-lạc-sát-nẵng
(Srivatsalaksana). Tức là tướng hải vân cát tường.
Các tôn sư
Cu-ma-la-thập, Huyền Trang dịch là ĐỨC.
Bồ Đề Lưu Chi đời nhà Ngụy trong Thập Địa
Kinh Luận, quyển12, dịch tiếng nầy là VẠN (Vạn tự), trong đó Thất-lị-mạt-sa tức
là chữ VẠN (A) dịch là VẠN với ý nghĩa là công đức viên mãn, nên có nghĩa là
hải vân cát tường; còn dịch là không có lầm lỗi.
Chỉ có lạt-sát-nẵng
dịch là Tự (chữ). Đây là sự lầm lẫn với từ ác-sát-na. Tiếng Phạn lạc-sát-nẵng
tức là tướng ác-sát-na là Tự. Nay
chữ VẠN (A) là tướng chớ không phải là tự nên có thể dịch là cát tường hải vân, tức là vạn tướng.
Thế nhưng hình dáng nầy vòng bên phải là
VẠN (A) tương tự như kính lễ Đức Phật, hoặc vòng về bên phải ba vòng, tương tự
như sợi long trắng ở giữa hai lông mày của Đức Phật chuyển vòng bên phải. Tóm
lại, chuyển vòng về bên phải (như A) là tốt lành (cát tường). Xưa nay, có khi
thấy viết chữ VẠN (B) là nhầm. Cao Ly Bản Tạng Kinh và Tuệ Lâm Âm Nghĩa (Q.21),
Hoa Nghiêm Nghĩa đều viết chữ VẠN theo VẠN (A), ngược chiều kim đồng hồ.
Lại nữa, theo thuyết của Kinh Đại Thừa thì
điều đó biểu thị tướng cát tường trên ngực của Đức Phật và Thập Địa Bồ Tát. Chữ
VẠN là một trong ba mươi hai tướng tốt của Phật và nó nằm ngay trước ngực của
Ngài. Tuy nhiên, một số kinh điển khác thì lại nói đây là tướng tốt thứ 80 của
Đức Phật Thích Ca. Dầu là tướng tốt thứ mấy đi chăng nữa thì không ai có thể
chối cải chữ Vạn chỉ là một ký hiệu chớ không phải là văn tự dùng để thể hiện
cho người có công đức vẹn toàn. Có những lúc chúng ta thấy chữ VẠN xoay qua
phía mặt và cũng có khi xoay qua phía trái. Từ đó có những lý luận cho rằng chữ
vạn của Phật giáo phải xoay hướng nầy thì đúng còn hướng kia thì sai. Đó là một
kết luận đầy tính chủ quan phiến diện.
Như vậy, theo Kim Cương Tử và các Hòa
Thượng soạn giả thì hình chữ VẠN (A) nghĩa là quay ngược kim đồng hồ là đúng,
còn thuận kim đồng hồ (B) lại là sai.
3 - Theo Từ Điển Phật Học của Thích Minh
Châu - Minh Chi, trang 757: Theo Thượng Tọa Thích Minh Châu, nguyên là Viện
Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn thì:
"VẠN: Một trong 32 tướng đẹp của
Phật, vị trí trên ngực của Phật. Nó biểu thị công đức vô lượng cửa Phật, lòng
từ bi và trí tuệ vô lượng của Phật.
Là phù hiệu, không
phải là chữ viết.
Viết xoay bên trái,
hay bên phải, đều được, tuy rằng có một số nhà Phật học tranh luận nhau về
hướng xoay của phù hiệu nầy.
Nhà độc tài Phát xít
Hitler cũng dùng phù hiệu nầy cho Đảng áo nâu của mình, nhưng đặt nghiêng". * Tiến Sĩ /TT.Thích Minh Châu.
Theo như trên đây,
Thượng Tọa Thích Minh Châu và nhà Phật học Minh Chi thì chữ VẠN (A) hay (B) đều
được cả vì cả hai nhóm bênh vực cho chữ VẠN quay thuận chiều kim đồng hồ và
ngược chiều kim đồng hồ đều không bên nào đạt được lý lẽ thuyết phục.
Một ý kiến khác của Viện
Nghiên Cứu Phật Học có viết:
- Trước đệ nhị thế chiến
có Adolf Hitler sanh ngày 20-04-1889 tại Áo quốc gần biên giới nước Đức. Vì
nuôi tham vọng thống trị cả thế giới qua chiêu bài Phát xít Đức, Ý, Nhật nên đã
chọn chữ VẠN như là biểu tượng của đảng Đức Quốc Xã. Chính chữ VẠN này đã
được bác sĩ Fridrich Krohn phát họa. Nhưng nếu chúng ta nhìn kỹ thì chữ vạn của
Hitler thì màu trắng nằm nghiêng trong một vòng tròn màu đen. Bởi thế chữ vạn
của Hitler là tượng trưng cho sự tăm tối và chết chóc. Vì thế cứ mỗi khi nghe
đến tên Hitler thì cũng như màn đêm sắp xuống, bóng ma chặp chờn, không khá
nỗi.
Đây là chữ VẠN của Đức
Quốc Xã (chính giữa xéo góc X). Đó là hai chữ S viết tắt (Social State). Do đó
chữ VẠN của Hitler không thể nào có thể đem so sánh với chữ VẠN của Phật giáo
cho được. Một bên là trời cao xanh mướt còn một bên thì thăm thẳm mù đen. Một
bên thì thanh cao thánh thiện còn bên kia thì tội lỗi đau thương. Cũng vì sự
tối tăm đó nên giấc mộng Đồ vương của Hitler biến thành mây khói và đưa đến cái
chết cho hàng triệu người vô tội và dĩ nhiên cũng kết liễu cuộc đời của một tên
bạo chúa.
Vào thời nhà Đường,
Hoàng hậu Vỏ Tắc Thiên cũng dùng chữ VẠN. Nhưng đây chỉ là biểu tượng cho mặt
trời mà thôi. Tóm lại, cho dù chữ VẠN xoay bên trái hay bên phải thì chữ VẠN
trong Phật giáo vẫn luôn luôn tượng trưng cho lòng từ bi và trí tuệ vô lượng
của Đức Phật. Sự xoay vần có nghĩa là Phật lực phát tỏa khắp bốn phương. Và ánh
sáng từ bi của Ngài tỏa ra vô cùng vô tận để cứu giúp chúng sinh còn đang lặn
hụp trong bến bờ mê muội.
Và đây là chữ VẠN của Phật Giáo (chính giữa thẳng
đứng +).
Theo: Tài liệu trích trong “Lịch Sử Phật
Giáo.com”.
4 - Nghiên cứu của tiến
sĩ Quang Đảo Đốc ở đại học Quốc Sĩ Quán Nhật Bản:
Chữ VẠN vốn không phải
là chữ viết (word), mà chỉ là ký hiệu (symbol), và nó đã có từ thế kỷ thứ 8
trước công nguyên, và đến thế kỷ thứ ba trước công nguyên mới được dùng trong
kinh Phật.
Ngài Bồ Đề Liêu Chi dịch
là "Vạn", còn ngài Huyền Trang dịch là "Đức".
Tất cả đếu có nghĩa là "phước đức viên mãn, trí tuệ và lòng từ bi vô
hạn".
Theo Huệ Lâm Âm Nghĩa
quyển 21 và kinh Hoa Nghiêm thì có 17 chỗ nói chữ VẠN viết xoay về phải. Trong
các đồ cồ, các bệ Phật cổ, các tượng Phật cổ của Trung quốc, của Ấn Độ, Tây
Tạng, Nhật Bản, … cũng đều dùng lối viết A, tức xoay về phải.
Ngôi tháp cổ ở vườn Lộc
Dã được
xây để kỷ niệm Đức Phật nhập diệt cũng khắc chữ Vạn xoay về phải.
Ba bản Tạng kinh đời
Tống, Nguyên, Minh, và Cao Ly Đại Tạng Kinh cũng đều dùng chữ Vạn xoay về phải.
Nhưng tín đồ Lạt Ma giáo, Ấn Độ giáo, và Bổng giáo thì dùng lối viết B,
xoay về trái. Có những chùa tại
Ấn Độ, và Trung Quốc hiện nay, trước hai cánh cửa chính, một bên thì vẽ
kiểu A, một bên lại vẽ kiểu B! Và những hoa văn quanh bệ thờ, cũng xen kẽ lối
viết A và B!
Cách viết nào đúng?
Như đã nói “VẠN” không
phải là một chữ mà là một ký hiệu xuất hiện rất sớm, có thể là từ thời nguyên
sơ từ khi con người mới tìm ra lửa. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy nó ở khắp mọi
vùng trên trái đất, nhưng ký hiệu nầy đã không thống nhất (chỗ viết theo lối A,
chỗ viết theo lối B).
Từ khi Đức Phật ra đời,
trên ngực đã có chữ “VẠN”, biểu tượng tướng mạo phi phàm, có ý nghĩa là
đại cát tường, phúc lộc viên mãn,… Thế nhưng từ đó về sau, chữ VẠN trong đạo
Phật cũng không thống nhất. Nhưng ta hãy suy những điều sau đây, có thể hiểu
được cách viết nào đúng:
- Xoay qua phải, là theo
chiều hào quang của Phật phóng ra.
- Ký hiệu âm dương của
vũ trụ thu nhỏ lại (xem biểu tượng “thái cực” của Lão giáo). “Chữ S”
phân chia vòng thái cực xoay về phải.
- Sợi lông trắng (bạch
hào) giữa hai lông mày của Phật uyển chuyển xoay sang phải.
- Trong các kinh điển
cổ, phần lớn đều viết chữ VẠN xoay về bên phải.
- Trong các nghi thức
sám, nhiễu Phật, nhiễu Pháp đều hướng về phải nhiễu hành.
* Tiến sĩ Quang Đảo Đốc - Nhật Bản.
5 - KẾT LUẬN:
" Hình chữ VẠN
quay theo chiều ngược kim đồng hồ (mẫu A) hay quay cùng chiều kim đồng hồ (mẫu
B) thì đó cũng chỉ là hai cái nhìn khi đứng ở hai vị trí trước mặt hay sau lưng
của cùng một chữ VẠN mà thôi.
Trên nóc chuông của
Báo Ân Từ trong nội ô Tòa Thánh Tây Ninh có gắn hình chữ VẠN. Nếu chúng ta đứng
phía trước Báo Ân Từ tại cột phướn nhìn lên, chúng ta sẽ thầy chữ VẠN theo mẫu
(A), tức là quay ngược kim đồng hồ. Còn nếu chúng ta bước sang hông của Đền Thờ
Báo Ân Từ nhìn lên, tức là nhìn phía sau của chữ VẠN thì sẽ thấy theo hình chữ
VẠN (mẫu B), nghĩa là quay thuận theo chiều quay của kim đồng hồ.
Chữ VẠN tượng trưng
cho Chơn lý, và Chơn lý nầy chỉ có một. Nhưng tùy theo vị trí, góc độ đứng nhìn
mà thấy chơn lý theo kiểu nầy, mang hình thức nầy; còn nếu ở vị trí đứng khác
thì sẽ thấy chơn lý theo kiểu khác với hình thức khác. Nhưng chơn lý vẫn chỉ là
một. Khi chúng ta hợp lại tất cả nhận thức, hợp lại tất cả kiểu dáng của tất cả
sự mô tả chơn lý thì may ra chúng ta mới có thể hiểu được chơn lý một cách toàn
vẹn đủ các mặt.
Cho nên, chúng ta
không nên lấy quan điểm riêng của mình, ở vị trí của mình với cái nhìn của mình
mà phê bình chê bai những nhận thức khác là sai. Thật là không nên.
Chữ VẠN tượng trưng
cho điều lành điều tốt đẹp, vì nó hiện ra trên ngực của Đức Phật. Nó là một
trong 32 tướng tốt của Phật. Nhưng chúng ta đừng nghĩ rằng, nếu chữ VẠN quay
theo chiều nào đó thì nó thiêu hũy công đức. Công đức của ta, chỉ có những việc
làm sai trái của ta mới tiêu hũy được công đức của ta. Cái lữa giận của ta
chẳng hạn. Ngoài ra, không có điều gì khác có thể thiêu hũy được công đức của
ta.
Chúng ta là những tín
đồ Cao Đài đang ở trong trường thi công quả do Đức Chí Tôn tạo lập. Chúng ta cứ
để mặc cho chữ VẠN quay tự do theo chiều quay của nó mà không cần bàn cãi.
Chúng ta cố gắng lo làm tròn nghĩa vụ của mình, lập công bồi đức càng nhiều
càng tốt, vì cái đức nầy mới đem chúng ta lên những ngôi vị cao trọng nơi cõi
Thiêng liêng ".
* Hồ Xưa sưu tầm và viết lại từ tài liệu:
Cao Đài Tự Điển * HT.Nguyễn văn Hồng Q3.
Học viện
Phật giáo.news.
Viện Phật
Học của PGVN.
* BuddhaNet.net
* * *
Thơ:
THƠ LÝ THƯƠNG ẨN
Bài 1: Đăng Lạc Du nguyên
Hướng vãn
ý bất thích,
Khu xa
đăng cổ nguyên.
Tịch
dương vô hạn hảo,
Chỉ thị cận hoàng hôn.
*
Lạc Du nguyên: tên một khu du lãm nổi
tiếng tại Trường An.
HỌA:
Chiều
hôm trở gót chẳng gì vui,
Đất
cổ xe lăn bánh mệt vùi.
Nắng
chiếu bóng tà nâng cảnh đẹp,
Hoàng
hôn gần đến sáng dần lui.
* HỒ
NGUYỄN
Bài
2: Dạ vũ ký bắc
Quân vấn quy kỳ vị hữu kỳ,
Ba sơn dạ vũ trướng thu trì.
Hà đương cộng tiễn tây song chúc,
Khước thoại Ba sơn dạ vũ thì.
HỌA:
Bạn
hỏi ngày về chẳng hẹn đâu,
Mưa
đêm phủ kín núi ao sâu.
Bao
giờ cửa sổ tây đèn nhóng,
Trò
chuyện đêm về ân nghĩa lâu.
* HỒ
NGUYỄN
HẠT CÁT VỮNG BỀN
Hạt
cát bao giờ đếm được đâu!
Sao
em bận trí để chi sầu.
Bãi
tràn sóng biển thân dời đổi,
Cát
trụ nơi nào có được lâu.
Đời
vốn luân lưu dòng bể khổ,
Tơ
lòng rắn chắc nghĩa tình sâu.
Cát
bao nhiêu hạt ai nào biết,
Nhưng
sắc son kia chẳng nhạt mầu.
* HỒ
NGUYỄN
LẠC QUAN
Gãy phím kè dây tạo nốt đàn,
Trong
lòng nhẹ bớt nổi man man.
Niềm
tin cố nén không vơi mất,
Hy
vọng luôn ghi chẳng vọt tràn.
Tư
tưởng sáng trong xua bẩn bụi,
Mộng
vàng một thuở trãi âm vang.
Cơn
sầu rũ sạch không vươn vấn,
Đời
nhẹ phiêu phiêu đẹp ngút ngàn.
* HỒ
NGUYỄN
KỶ NIỆM HỘI YẾN DIÊU TRÌ
Điện
Thờ Phật Mẫu sáng lung linh,
Rực
rỡ đèn hoa vọng tiếng kinh.
Trắng
toát đạo y màu tịnh khiết,
Vàng
tươi Lễ sĩ dáng đi xinh.
Trống
khua đờn đối tâm thành nguyện,
Nhịp
khắc hòa minh Thượng Sớ trình.
Phật
Mẫu Cửu Nương linh hiển chứng,
Ban
ân Thế giới Đại đồng vinh.
* HỒ
NGUYỄN
SỐNG CHẾT
1 - Sống không nhân đức sống làm chi,
Sống
chỉ tham sân sống ích gì?
Sống
nghĩ công danh không nghĩ phúc,
Sống
lo phú quý chối từ bi.
Sống
gần kẻ xấu xa hiền đức,
Sống
thích đua tranh phải khổ trì.
Sống
hại thế gian không nghĩa đạo,
Sống
vô ích thế sống mà chi!
2 -
Chết vì nghĩa cả sử còn ghi,
Chết
chẳng gìn ân hậu.. có gì?
Chết
xứng
nam nhi lưu hậu thế,
Chết
nêu chí khí núi sông ghi.
Chết
cần chi lắm mâm đưa tiễn,
Chết
chẳng cầu than khóc thét bi.
Chết
dấu chấm câu đời tạm nghỉ,
Chết
sao xứng đáng dễ ai bì?
* HỒ
NGUYỄN
CHỮ AN ĐÁNG QUÝ
An vui nhân loại mới thanh bình,
An phận cho đời trọn kiếp sinh.
An trú sống yên tu tập tánh,
An hòa tiếp xúc giữ niềm tin.
An nhiên tự toại tâm nhàn nhã,
An lạc trì kiên tự xét mình.
Đáng quý chữ AN lo trọn tín,
Sống cho yên phận giữ tâm minh.
* HỒ
NGUYỄN
Ngày 14-02-2021
Người viết: HT. Hồ văn Xưa
* * *
LTS: Kính
xin trình bày với Quý Hiền, về Cố Hiền Huynh, HT/ Phạm Văn Khảm, nguyên là một
trong những thành viên của VSCĐ.
Ngày 20 tháng 6 năm 2020. Toàn BBT thảo luận ra mắt Tập
San số 1. Huynh Khảm liền viết bài "NGƯỜI TÍN ĐỒ CAO ĐÀI CẦN XÉT LẠI
DANH XƯNG HỘI YẾN DIÊU TRÌ CUNG
HAY HỘI YẾN DIÊU TRÌ ", gửi đến BBT/TS số 1 để loan tải. Xem như bài viết cuối
cùng của Hiền Tài Phạm Văn Khảm, như một thay lời tạm biệt tập thể HT/BTĐ.
Rằm tháng 8 Âm lịch, là một trong các ngày lễ lớn của đạo Cao Đài. Vớingày lễ lớn nầy, hiện nay có hai tên gọi khác nhau :
Hội Yến Diêu Trì Cung và Hội Yến Diêu Trì. Tại sao như vậy ? Chắc chắn tự nó không mang hai tên và cũng không thể để mặc ai muốn gọi sao cũng được vì trong cửa Đạo nhất thiết cần tôn trọng sự chánh danh. Chánh danh là một trong những yếu tố bảo thủ Chơn Truyền.
Do đó người viết bài nầy không có ý tạo ra sự tranh luận đúng sai, mà chỉ mong nêu rõ những dữ kiện đã lưu trong các kinh sách để tự mình suy nghĩ và lưa chọn:Cái nào đúng thì dùng còn sai thì sửa lại.
Xin đọc trích các đoạn sau đây để tham khảo:
" Theo cổ luật, người tu khi đắc đạo, chơn hồn được về DiêuTrì Cung hưởng Hội Yến Bàn Đào.Tiệc nầy được gọi là Hội Yến Diêu Trì Cung, vì tiệc được đặt tại Cung Điện bên cạnh ao Diêu Trì, nơi Đức Phật Mẫu ngự ở tầng trời thứ 9 . Nơi đây, chơn hồn được ăn quả Đào Tiên và uống Tiên Tửu mới được nhập vào cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, gọi là Nhập Tịch. Đó là Bí Pháp.
Ngày nay, thời Tam Kỳ Phổ Độ, thời Hạ Nguơn Mạt Pháp, với đặc ân Đại Ân Xá kỳ III, Đức Chí Tôn quyết định tận độ con cái của Ngài, thay vì đặt Bí Pháp ấy cao tận DIêu Trì Cung, Ngài buộc Phật Mẫu phải đến thế gian để Bí Pháp Hội Yến Diêu Trì ( không kèm theo chữ CUNG ) tại cửa Đạo nầy cho con cái của Ngài giải thoát. Ấy là Bí Pháp Thiêng Liêng, duy chỉ có tay Ngài định Pháp ấy mới đặng." ( Đức Hộ Pháp thuyết đạo tại Đền Thánh ngày 15-8- Kỷ Sửu- 1949 ).
Cũng trong bài thuyết đạo nầy, Đức Hộ Pháp kể lại rằng: Đức Chí Tôn dạy sắp đặt cái tiệc ấy để đãi 10 Đấng vô hình: Đức Phật Mẫu, Cửu vị Tiên Nương. Phần hữu hình có 3 vị : Thượng Sanh, Thượng Phẩm và Hộ Pháp.
Bần Đạo mới hỏi: Tiệc nầy là tiệc gì ?
Đức Chí Tôn đáp: HỘI YẾN DIÊU TRÌ ( không có chữ CUNG kèm theo)
Ngoài ra, tại Cửu Long Đài chiều ngày 15-8- Tân Mão- 1951, Đức Hộ Pháp cũng đã giảng:
“ Chính Đức Chí Tôn biểu Đức Phật Mẫu, tức Mẹ Sanh của chúng ta, cầm cả quyền năng giải thoát trong tay đến lập HỘI YẾN DIÊU TRÌ ( không có chữ CUNG theo sau ) tại mặt thế nầy cho cả con cái của Ngài, nhứt là 92 ức nguyên nhân, nếu nhập vào cửa Đạo, tùng theo Chơn Pháp thì được hồng ân của Đức Chí Tôn cho hưởng Bí Pháp HỘI YẾN DIÊU TRÌ tại thế nầy.”
Ngoài ra trong quyển ĐẠO SỬ TOÀN TẬP của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, nơi trang 25 khi viết về lịch sử của ngày Đại Lễ nầy, Bà vẫn đề tựa là:TÍCH HỘI YẾN DIÊU TRÌ ( không có chữ CUNG)
Tóm lại, dựa các theo tài liệu nêu trên để tham khảo, chúng ta đủ minh định rằng:Tiệc Hội Yến Bàn Đào nếu đặt trên tầng trời thứ 9 (Tầng trời Tạo Hóa Thiên) ngay Diêu Trì Cung, nơi Đức Diêu Trì Kim Mẫu ngự thì tiệc nầy được mang tên là: HỘI YẾN DIÊU TRÌ CUNG và khi được tổ chức ở thế gian nơi Điện Thờ Phật Mẫu ( Báo Ân Từ), đối diện với Bá Huê Viên và không ở trong Cung Điện của Đức Phật Mẫu thì không thể nào gán ghép chữ CUNG vào đây được.Gọichính danh là lễ HỘI YẾN DIÊU TRÌ.
Vậy, Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung và Lễ Hội Yến Diêu Trì hoàn toàn khác nhau về không gian. Một đàng ở trên tầng trời thứ 9 và một đàn ở trần gian, hai nơi cách biệt quá xa thì làm sao có sự nhầm lẫn được !
Thiết nghĩ, người tín đồ Cao Đài cần thận trọng từ việc nhỏ cho đến việc lớn trong vấn đề chính danh để gìn giữ chơn truyền của Đạo mãi đến thất ức niên.
Trân trọng xin góp ý.
* Hiền Tài Phạm văn Khảm
* * *
" ... Đặc San BTĐ thể hiện những khát vọng, suy tư, sáng tạo tìm kiếm con đường thẳng cùng đồng đạo nhận chân thực đâu là đúng-sai, dở dang, và thiện-ác, chủ yếu xây dựng cộng đồng Cao Đài yêu thương và đoàn kết không khác biệt, không chia rẽ, và không ngừng hướng thượng, hầu tạo điều kiện phát triển Đại Đạo đến Thất Ức Niên, theo Luật Yêu Thương mà Đức Chí Tôn & Phật Mẫu đã dạy cho con cái của Người ở cõi hữu hình nầy an lạc, hạnh phúc... "
Đôi Lời Suy Tư.
Kính gởi:
- Quý Chức Sắc Ban Thế Đạo.
- Quý Chức Sắc, Chức Việc BTS trong các Thánh Thất, các Cơ Sở Hành Chánh Đạo.
- Quý Chức Sắc, Chức việc trong các Ban Quản Tộc Điện Thờ Phật Mẫu, các Cơ Sở Phước Thiện.
- Quý Huynh Tỷ Đệ Muội trong Đại Đạo Thanh Niên Hội Hải Ngoại.
- Quý Đồng Đạo và Thân hữu,
Thưa quý vị,
Ban Thế Đạo hiện hành xin kính gửi đến quý đồng Đạo tin vui. Chúng tôi công bố sẽ ra mắt Đặc San Ban Thế Đạo số 01, bắt đầu từ 1 tháng 7, 2020, và phát hành mỗi tháng một lần.
Mục đích của Đặc San là mang tiếng nói trung kiên, toàn thiện, minh bạch, và đạo đức Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức Đạo Cao Đài, để chuyển tải đến quý đồng đạo những thông tin về Đại Đạo, kinh sách Giáo Lý, Thơ Văn Đại Đạo, tìm hiểu, phân tích Thánh Ngôn Thánh Giáo, về Đạo Sự, v.v…ngõ hầu phục vụ cho đồng đạo, con cái Đức Chí Tôn.
Chủ trương của Đặc San Ban Thế Đạo sẽ bao gồm truyền thông, thông tri, những sự kiện của Đạo Cao Đài nơi Hải Ngoại, loan tải những tin mừng về văn hóa và kiến thức thế kỷ 21 của Đạo Cao Đài và của nhân loại đang sống trên Quả Địa Cầu 68 nầy, ngõ hầu giúp đồng đạo mở rộng kiến thức.
Đặc San BTĐ thể hiện những khát vọng, suy tư, sáng tạo tìm kiếm con đường thẳng cùng đồng đạo nhận chân thực đâu là đúng-sai, dở dang, và thiện-ác, chủ yếu xây dựng cộng đồng Cao Đài yêu thương và đoàn kết không khác biệt, không chia rẽ, và không ngừng hướng thượng, hầu tạo điều kiện phát triển Đại Đạo đến Thất Ức Niên, theo Luật Yêu Thương mà Đức Chí Tôn & Phật Mẫu đã dạy cho con cái của Người ở cõi hữu hình nầy an lạc, hạnh phúc.
Ban Biên Tập chân thành mời gọi quý Chức Sắc, đồng đạo, và quý thân hữu cùng tham gia gửi bài viết, các bài tham khảo, các tác phẩm Thơ Văn, lịch sử… về Đại Đạo Cao Đài, để chúng ta cùng làm nên lịch sử. Hy vọng mỗi tín đồ Cao Đài đều tỏa hương hoa Đại Đạo thơm ngát khắp cả môi trường tu tập, mở rộng lòng tin chào đón tình thương yêu, sáng tạo, xây dựng, để phục vụ đồng sinh và dâng hiến phụng sự cho Đại Đạo. Tiếng nói của mọi Tín đồ Cao Đài sẽ là pho kinh điển giá trị như một Tàng Kinh Viện. Xin hãy làm cho điểm đứng của mỗi Tín đồ Cao Đài vượt trội không gian hiện hữu.
Ban Biên Tập thành tâm kính chúc toàn Đạo tiếp nhận Hồng Ân của Đức Chí Tôn & Phật Mẫu chan rưới khắp cùng nhân sinh, bình an, hạnh phúc, và cùng nhau phát triển nền Đại Đạo nơi Hải Ngoại đi đến thành công.
" NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT "
* HT/ Huỳnh Tâm