Long Truyền Kiếm Triệt Nhân Tài . * Sưu Tầm: QS / TS / Nguyễn Thanh Bình
"... Đức Ngài lại nói: “Ngày kỷ niệm nước Việt Nam hưởng được Đạo trời khai sẽ gở nạn ách cho nhân loại. Dân tộc xuất hiện nhiều nhân tài, phá tan xiềng xích lệ thuộc. Dân tộc Việt Nam sẽ không còn bị lệ thuộc nữa..."
Đức Phạm Hộ Pháp được lịnh Đức Chí Tôn đi Thủ Đức (1928) để tìm cây Long Tuyền Kiếm. Đến nơi bà Bát Nương chỉ dẫn đi lấy Long Tuyền Kiếm ở Mỹ Tho.
Nhưng Đức Cao Thượng Phẩm bịnh nặng Đức Ngài phải trở về Toà Thánh. Sau khi an táng Đức Cao Thượng Phẩm xong, (Đức Cao Thượng Phẩm qui ngày 1-3-Kỷ Tỵ) Đức Ngài mới đi Phú Mỹ - Mỹ Tho.
Ngày 27-2-Kỷ Tỵ (1929). Đức Ngài đến Khổ Hiền Trang, chấp bút thì được chỉ dẫn nơi yếm Long Tuyền Kiếm về phía Tây Nam. Nơi điểm chỉ là một khoản đồng ruộng, có dạng hình núi nức mé bên kia sông, phải đi ghe chừng 5 cây số mới đến. Cánh đồng nước phèn, mọc toàn năng, phía xa xa là rừng đưng và bàng. Đất màu đen chưa trồng lúa được, nên dân cư sống bằng nghề làm đồ gốm, làm lu, hủ, chén v.v... Đức Ngài và các tín hữu Minh Thiện Đàn dừng lại trên một khoản đất vàng, gò cao và rộng độ chừng dưới 700 thước vuông.
Đức Ngài lại chấp bút, Lỗ Ban giáng và chỉ đào ngang chót núi, sâu xuống chừng 3 tấc tây thì đụng đá. Lỗ Ban cho biết, đó là tháp của một trạng Tàu táng thuở cai trị xứ ta. Trạng Tàu biết chỗ này là núi vàng, sợ sau này núi nổi lên thành hình thì nước Việt Nam có trạng và nhân tài sẽ phục nghiệp, nên họ quyết chiếm cứ và yếm Long Tuyền Kiếm, công dụng của kiếm là vớt đứt hết nhân tài.
Khi thế chiến thứ nhứt chấm dứt (1919) chính phủ Tàu sai một người Triều Châu giỏi về bói yếm sang Việt Nam yếm một lần nữa ngay nơi cũ. Dân cư quanh vùng, nhất là các vị bô lão thời đó đều kể như vậy.
Lỗ Ban lại cho biết, tại đây có vị thần vàng lãnh mạng nơi Thượng Đế giữ gìn vật báu không cho ai lấy, chỉ dành riêng cho Trạng Trời đến lấy mà thôi.
Việc đào lên cũng thật vất vã. Đồng thì rộng mà mỗi người chỉ có một lưỡi cuốc dàn hàng ngang mà đào. Tưởng chừng như khó tìm thấy. Bỗng nhiên trực giác giúp suy luận thành công, thông thường thì mồ mả ở vùng này đều có nấm ở trên nhưng đặc biệt có một cái mả không có nấm. Vì thế mà Đức Ngài cho đào cái mả đó lên thì được một ống ghẻ trên có một lưỡi dao cứng cắm thẳng xuống trong đó có một con cờ sừng màu trắng và 6 đồng tiền kẽm đời Minh Mạng. Đào xuống sâu nữa gặp một hộp bao chỉ dài 9 tấc, Đức Ngài cho biết trong đó có Long Tuyền Kiếm, nhưng cấm không cho ai xem và gói kín lại.
Đức Ngài dạy đào một con kinh từ Trảng Sập băng ngang chót lưỡi Long Tuyền Kiếm cho bứt. Đó là phép phản yếm để trừ tuyệt sát nhân tài.
Đức Ngài lại nói: “Ngày kỷ niệm nước Việt Nam hưởng được Đạo trời khai sẽ gở nạn ách cho nhân loại. Dân tộc xuất hiện nhiều nhân tài, phá tan xiềng xích lệ thuộc. Dân tộc Việt Nam sẽ không còn bị lệ thuộc nữa”.
Đêm hôm đó, tại Khổ Hiền Trang, Đức Phật Mẫu giáng dạy lập thảo đường.
Thi:
" Thảo đường phước địa ngộ tùng hoa
Lục tại dư niên vũ trụ hòa
Cộng hưởng trần gian an lạc nghiệp
Thế đăng đồng Đạo thịnh âu ca".
Ngày 19 tháng sáu, 2020
NHỮNG NGƯỜI LÀM CÔNG
QUẢ NÀY LÀ AI ?.
* Sưu tầm: Tam Quang - Thi quang Vinh.
Kính quý chư HTĐM đọc ý
nghĩa một đoản văn trích không đầu không đuôi.
- Ðức Ngài còn làm việc ở
văn phòng, thưa Ngài tự nhiên nhập trai đừng chờ Ðức Ngài. Người tín đồ, ngạc
nhiên hỏi tiếp:
- Ở đây có chủ và khách như vậy mình phải kỉnh chứ có lẽ nào
mình nhập trai mà không mời Người hay sao?
Tín đồ nam:
- Ðức Ngài không bao giờ nghĩ như vậy, Ðức Ngài luôn luôn
muốn mình tự do thỏa mái trong lúc nhập trai, dùng trai ở bàn nào cũng được,
còn nếu Ngài muốn chờ thì tùy ý chứ Ðức Ngài không bảo phải chờ, vã lại Ngài đã
ở đây cũng hai hôm rồi, thấy cảnh sinh hoạt là như vậy đó, ăn uống nói chuyện tự
do tùy thích đó là của riêng cá nhân, miễn đừng sanh bệnh trần tục là tốt, còn
giờ Ðạo thì phải để tất cả cho Thiêng Liêng không có cái riêng nào của mình đặt
trong ấy, Ðức Hộ Pháp đến nhập trai cùng người tín đồ .
Người tín đồ có một nhận
xét tinh tế và hiểu tự lòng. Ðức Ngài quả là bình dị trong cuộc sống, không thấy
Ðức Ngài làm kiểu cách cao sang của một Hộ Pháp và Tín đồ sống ở đây cũng vậy đều
bình đẳng, không phân biệt chia quyền giai cấp, lẽ dĩ nhiên ở đây cũng có người
quyền thế xã hội và tiền dư bạc để, trình độ kiến thức cao viễn thông kinh quán
chúng, kỷ sư, bác sĩ, giáo sư, luật sư, học giả, ký giả, chủ báo, nhà văn, nhà
thơ, cựu đốc học, cựu tỉnh trưởng, chủ bút, sinh viên và bần hèn kém học cũng
nhiều.
Tín đồ nam-nữ chia nhau
làm nội trợ, mấy Tín đồ nam rửa chén bác, chạy lau bàn, xếp ghế, quét nhà lăng
xăng rất thạo nghề nhà hàng (Restaurant) công việc hằng ngày tưởng họ là kẻ để
sai, làm vặt bình thường của hạ cấp, nhưng đâu ngờ rằng họ là những Tín đồ phụng
sự chung, họ có một tâm hồn cao quí hơn đời và bề rộng tri thức của họ cũng trội
hơn những cái đầu xưa nay tôi thường giao thiệp, nghĩ lại hơi thẹn vì đã hai
hôm đánh gía họ quá thấp, bởi cứ nghĩ rằng mình hay hơn người khác, đến Ðức
Ngài mà mình cũng còn trộm nghĩ vốn sở học đơn sơ, nay mình đáng có tội.
Người tín đồ đọc được
trong cử chỉ giao tiếp và gần gũi của ba Tín đồ nam phái, đang chạy lau bàn,
cùng nói chuyện bằng tiếng Pháp với Ngài Bảo Ðạo cách hai thước và lời rất nhỏ:
- Tối nay có ba người khách từ Sài Gòn lên thăm ông khách
kia, ở lại Thánh Thất chỉ một ngày, như vậy bác sĩ có bị vướng vào trực đêm
không? Thưa không.
Rồi hỏi tiếp: - Còn ký gỉa thì sao? Thưa Thầy tối nay con phải viết nốt
bài phóng sự Hoàng gia về vụ biên giới Thái và hỏi tiếp: - Còn luật sư thì sao?
Thưa Ngài con vẫn như mọi khi. Như vậy tối nay chỉ có ba chúng ta chạy bàn, người
tín đồ ý thức được mọi Ðạo sự ở đây, thì ra người điều hành Ðạo sự chính Ngài Bảo
Ðạo Hồ Tấn Khoa nguyên cựu Ðốc Phủ Sứ vang bóng một thời về khả năng hành chánh
miền Nam.
Mình tự thẹn, một kẻ
khách không đáng nhận ân sủng của Ðạo, bởi những Tín đồ trí thức nầy làm mình
ái ngại, vì họ không phải là Tín đồ trong suy nghĩ tầm thường của mình, âu cũng
do mình có cao ngạo nên bị những Tín đồ nơi đây đánh gục và đo váng trong Trai
đường, từ đây cái nết cao ngạo phải chừa, không được xem thường thiên hạ, nhứt
là ở cửa Ðại Ðạo và mình phải như anh bạn Ðạo đang lau bàn và quyét nhà mà khoa
bản kia mới được, hỏi ra bạn Ðạo mình tốt nghiệp tại đại học đường Paris, rồi về
Cao Miên làm việc.
Nhân hôm nay tín đồ tôi
cũng hòa mình và bạo phổi, mở lời xã giao với vài vị Tín đồ Nữ phái đang gói
bánh bì chay:
- Thưa quý Hiền Tỷ, hiện
vẫn sống ở thủ đô chùa tháp nầy, và đã công qủa ở đây được bao lâu? Hiền Tỷ trả
lời:
- Thưa Ngài. Tiểu Muội hiện đang là Giáo sư Vật lý tại đại
học đường Hoàng Gia Cao Miên, công qủa cho Ðạo nay được hai qúi (6 tháng) còn
Hiền Tỷ nầy là Dược sĩ giám đốc viện bào chế Phnom Penh, kiêm bào chế thực đơn
Trai đường, công quả đã ba qúi, chuẩn bị hết hạng ở cuối tháng nầy.
Người tín đồ:
- Nếu quý Tỷ thấy tôi dùng được ở nơi nào thì cho một dịp
công quả ở đây được không?
Hiền Tỷ giáo sư:
- Thưa Ngài, muốn tìm việc ở đây phải đưa đơn chứ nói khơi
khơi thì làm sao được, như Muội đây từ ngày đưa đơn, đến năm sau mới được vào lặt
rau, thế mà còn bị cai hăm đuổi ra khỏi sở, nếu Ngài muốn thì Muội vận động chức
lau Ðiện thờ, nhưng phải mất bảy hay tám tháng nữa mới làm được, nhưng Ngài chỉ
tạm ở đây còn 8 ngày nữa thì về Hà Nội, nhưng nếu Ngài quyết định trở lại thăm
Trấn Ðạo Kim Biên thì nộp đơn từ hôm nay là vừa.
Tự mình suy nghĩ đức hạnh
và chuyên môn để tìm chính mình một tâm hồn an lạc, vì xét thấy tất cả Tín đồ ở
đây đều hiểu Ðạo hơn mình, họ sống vì Ðạo bẵng tiếng duy ta, họ cũng thích chuyện
vui đùa tự do thỏa mái, sống không vì kiểu cách như đã thấy nơi hai Hiền Tỷ nội
trợ hiền đức mà trong họ lại chứa cả một kho tàng chất xám và ở trong họ có một
năng lực Ðạo phi thường vì khi nói chuyện xuất kình lực thanh âm và thanh khí
tuyệt diệu, họ nói chuyện đếm được từng kinh thức trong lúc phát ra, hình như họ
tịnh trong việc làm, tất cả những điều ấy tôi đã được Ðức Hộ Pháp truyền thụ,
và nhờ thế mới biết Tín đồ sống ở đây đầy lòng nhân đức, và tâm trọn lành, ngày
đầu tôi đến đây nào biết gì về họ, nay đã là thân xem nhau bằng tình đồng sinh,
thì ra cõi Thiên hiện hữu nào đâu có xa.
Từ đây tôi đã là thành
viên của Thánh Thất và Trai đường là nơi dùng trai nuôi sống mãnh đời, nên tự
mình phục vụ và tùy ý lựa chọn thực đơn theo khẩu vị, những buổi đầu tôi là
khách cho nên khi dùng trai có đồng Ðạo mang lại, nay thì tôi rất tự nhiên,
không còn chủ khách.
* Tam Quang - Thi quang Vinh
Tuyết đang rơi ngày 12 tháng 2 năm 2021
Sưu
tầm học Đạo copy và phổ truyền.
* * *
Theo quan niệm Cao Đài, sự sống trong Càn khôn vũ trụ
chia ra làm tám đẳng cấp chơn hồn tức là Bát hồn. Sau đây chúng ta hãy khảo sát sự thành hình và tấn hóa trong Bát hồn.
1 - Thánh Giáo
Đức Chí Tôn dạy về sự tấn hóa của các đẳng chơn hồn:
" Các con đã sanh ra
tại thế nầy, ở tại thế nầy, chịu khổ não tại thế nầy, rồi chết cũng tại thế nầy.
Thầy hỏi: Các con chết rồi các con ra thể nào? Các con đi đâu?
Chẳng một đứa hiểu đặng
cơ màu nhiệm ấy. Thầy dạy: Cả kiếp luân hồi thay đổi từ trong nơi vật chất mà
ra thảo mộc, từ thảo mộc đến thú-cầm, loài người phải chịu chuyển kiếp ngàn
ngàn, muôn muôn lần, mới đến Ðịa-vị nhơn-phẩm. Nhơn phẩm trên thế nầy lại còn
chia ra phẩm giá mỗi hạng. Ðứng bậc Ðế-Vương nơi trái địa-cầu nầy, chưa đặng
vào bực chót của Ðịa-cầu 67. Trong Ðịa-cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp
dường ấy. Cái quý trọng của mỗi địa-cầu càng tăng thêm hoài, cho tới Ðệ-nhứt-cầu,
Tam-Thiên-Thế-Giái; qua khỏi Tam-Thiên-Thế-Giái mới đến Tứ-Ðại-Bộ-Châu, qua Tứ-Ðại-Bộ-Châu
mới vào đặng Tam-ThậpLục-Thiên; vào Tam-Thập-Lục-Thiên rồi phải chuyển kiếp
tu-hành nữa, mới đặng lên đến Bạch-Ngọc-Kinh, là nơi Ðạo Phật gọi là Niết-Bàn
đó vậy " . * TNHT, 19-12-26.
Tấn hóa thạch khủng long
Địa cầu chúng ta là địa cầu
thứ 68 trong thất thập nhị địa, là nơi có đủ điều kiện tốt về nhiệt độ, khí hậu
để vạn vật sinh sôi nầy nở, là nơi phát khởi sự sống mạnh mẽ từ loài thảo mộc,
rồi các loài côn trùng, bò bay máy cựa, cho đến thú cầm rồi loài người,...
Trong 9 hành tinh quay quanh
mặt trời chỉ có trái đất chúng ta gọi là hành tinh xanh có sự sống. Vậy không
phải dễ dàng mà chúng ta có được một môi trường sống lý tưởng như vầy. Cho nên
việc bảo vệ môi trường sống là điều rất quan trọng cho mọi sanh linh.
Và trái đất nầy không phải
riêng của con người mà là tạo hóa ban cho muôn loài sinh vật, vậy chúng ta phải
coi chúng sanh vạn vật như anh em thân thiết cùng giúp lẫn nhau ngày càng tiến
hóa cao hơn, chớ không vì bất cứ lý do vì mà giết hại, sát mạng chúng sanh.
Chúng ta phải biết mình cũng
đã chuyển kiếp muôn ngàn lần từ trong vật chất, thảo mộc, thú cầm rồi ngày nay
mới được làm người. Chúng ta phải hướng về con đường tấn hóa đi lên từ địa cầu
67, 66, v.v… thì mới phù hợp với luật tiến hóa của càn khôn vũ trụ. . .
2 - Bát hồn
hay tám đẳng cấp chơn hồn.
Thánh giáo Đức Chí Tôn: "
Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi trong càn-khôn Thế-Giới thì khí
Hư-Vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái-Cực. Thầy phân Thái-Cực ra
Lưỡng-Nghi, Lưỡng-Nghi phân ra Tứ-Tượng, Tứ-Tuợng biến Bát-Quái, Bát-quái biến-hóa
vô cùng, mới lập ra Càn-Khôn Thế-Giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn-vật
là: vật-chất, thảo-mộc, côn-trùng, thú-cầm, gọi là chúng-sanh.
Các con đủ hiểu rằng:
Chi-chi hữu-sanh cũng do bởi chơn-linh Thầy mà ra, hể có sống, ắt có Thầy. Thầy
là cha của sự-sống, vì vậy mà lòng háo-sanh của Thầy không cùng tận ". (TNHT, Bất sát sanh) " Có Thầy mới có các con,
có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật..." * TNHT, 24-10-26.
Theo lời Thánh giáo trên tất
cả chơn hồn trong càn khôn vũ trụ gồm có tám đẳng cấp : Vật chất hồn, thảo mộc
hồn, thú cầm hồn, nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn. Bốn đẳng cấp
đầu kể từ vật chất đến nhơn hồn gọi là chúng sanh, bốn đẳng cấp sau từ Thần hồn
đến Phật hồn là các chơn linh cao trọng do nhơn hồn tu hành đạt đến thánh thiện
lên đến Phật hồn. . .
Trong Luật Tam Thể Đức Cao
Thượng Phẩm giải thích sự thành hình bát hồn như sau:
" Trong Càn-Khôn
vũ-trụ, có tám đẳng Chơn-hồn là: Kim-thạch hồn, Thảo-mộc hồn, Thú-cầm hồn,
Nhơnhồn, Thần-hồn, Thánh-hồn, Tiên-hồn và Phật-hồn. Từ lúc hổn-độn sơ khai,
âm-dương biến hóa thì trong khí Hư-vô đã có sẳn các tế-bào. Sau tiếng nổ,
âmdương phân tách, khí Dương-quang là khí nhẹ-nhàng bay lên trên; còn khí âm là
khí-chất chứa các tế-bào nên lóng xuống dưới. Sau một chuyển thì các khí-chất
trên liên-đới với tế-bào mà tựu lại thành chất-khí và biến thành vạn-vật. Khi
chưa thành hình thể hữu-vi thì chất khí vẫn là một cục lửa do khí Dương-quang đốt
cháy. Sau đó, nơi Diêu-Trì Cung thâu Thập-Nhị Địa-Chi mà biến khí Dương-quang
và chất khí làm ngũ-hành. Vậy đất, nước, sắt đá và lửa được nảy sanh trước hết.
Đó là Kim-thạch hồn. Sau một chuyển nữa, nước, đất, đá, lửa và sắt mới tiết ra
một chất khí, và liên-đới với các tế-bào lại mà tạo nên cây cỏ. Đó là Thảo-mộc
hồn. Sau một chuyển nữa, các cây cỏ chia tế-bào mà liên-đới với ngũ-hành tạo
nên bách-thú. Trong đó có phần ở khô gọi là điểu-thú, có phần ở nước gọi là
ngư-thú. Đó là Thú-cầm hồn. Sau một chuyển, ngũ-hành hiệp với thảo-mộc mà nuôi
thú-cầm. Trong thú-cầm, Chơn-hồn đã bước vào cơ tấn-hóa, do đó, tạo nên thủy-tổ
loài người là la-hầu tức là người khỉ đó. La-hầu lần lần sanh-hóa, và nhờ điểm
Linh-quang của Chí-Tôn mà lần đến loài người như hiện giờ. Đó là Nhơn-hồn".
Chúng ta lưu ý đức Cao Thượng
Phẩm nói thủy tổ loài người là la hầu tức là người khỉ có nghĩa lúc đầu loài
người có hình dạng giống như loài khỉ rồi từ từ biến đổi hình dạng tốt lành như
hiện nay chớ thủy tổ loài người không phải loài khỉ. . .
Vật chất hồn: Có nơi còn gọi là kim thạch hồn như trên gồm đất, nước,
sắt, đá và lửa nảy sanh trước hết... Vật chất hồn ở trạng thái rất đơn sơ nên
chúng ta khó mà nhận biết rõ rệt, nhưng vẫn cảm nhận được như đá núi vẫn có sự
sống , nhiều ngọn núi nhô lên ngày càng cao.
Một thí dụ khác với nước: Những
năm gần đây một vị tiến sĩ người Nhật là ông Masaru Emoto làm thí nghiệm dán
nhãn hoặc cho tác ý vào một khối lượng nước thì nhận thấy rằng khi tác ý những
ý niệm tốt như: tình yêu, lòng biết ơn, hòa bình hoặc những loại nhạc năng lượng
cao của Mozart... thì dưới kính hiển vi những phân tử nước trở thành những hình
thể thật đẹp, đối xứng như pha lê. . . Còn khi bị dán nhãn đê hèn, tội ác, chửi
rủa, hoặc những loại nhạc năng lượng thô…thì khi phóng to ra, các phân tử nước
lại có những hình thể rất xấu xí và méo mó. . .
Nhiều người nhìn thí nghiệm
nầy dưới góc độ là tư tưởng con người có tác dụng lên vật chất, nhưng ở khía cạnh
khác chúng ta cũng có thể nói vật chất cũng có linh tánh nên mới có thể cảm nhận
được tư duy của con người.
Theo giáo lý Cao Đài vật chất
hồn hay kim thạch hồn thọ nhận một điểm nguyên hồn từ Đức Chí Tôn ban cho gọi
là sanh hồn.
Thảo mộc hồn: Tức là muôn loài cây cỏ đều có sự sống chết rõ rệt,
khi sống thì cành lá xanh tươi, khi chết thì cành khô lá úa héo tàn... Các loài
cây cỏ cũng thọ nhận một điểm nguyên hồn từ Đức Chí Tôn gọi là sanh hồn.
Có nhiều loại cây biết cử động
như cây hoa mắc cở, cây bắt ruồi tức là chứng có tánh linh gần giống như loài
thú cầm. . .
Thú cầm hồn: Tiến lên đến loài thú cầm ngoài sanh hồn chúng còn
có thêm giác hồn, nhờ vậy loài vật biết cảm xúc, đau đớn, sợ hãi,... Có những
loài cầm thú có trí khôn ngoan như khỉ, chó,... có những loài biết nói như két,
chim sáo, ... Đây là những đặc tính gần giống như người, điều nầy chứng tỏ loài
vật sẽ tiến hóa lên người.
Nhơn Hồn: Con người, ngoài sanh hồn và giác hồn được Đức Chí
Tôn ban thêm linh hồn nên mới có trí thông minh, biết phân biệt phải trái,... Cho
nên người ta mệnh danh con người là động vật thượng đẳng cũng không sai.
Theo giáo lý Cao Đài mỗi người
đều có tam thể xác thân, thứ nhứt thể xác là hình hài xác thịt do cha mẹ phàm
trần sanh ra, thứ hai là chơn thần do Đức Phật Mẫu ban cho, thứ ba là chơn linh
tức là linh hồn do Đức Chí Tôn ban cho vì vậy ta gọi Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu
là cha mẹ thiêng liêng. Các tín ngưỡng nhân loại xưa nay đã biết điều nầy nhưng
còn rất mơ hồ nay qua giáo lý Cao Đài chúng ta biết được rõ ràng và thờ phượng
hai đấng hàng ngày nơi Thánh Thất và Điện thờ Phật Mẫu... Dĩ nhiên chúng ta biết
được mình có cha có mẹ vĩnh viễn nơi cõi thiêng liêng đây là niềm hạnh phúc vô
bờ cho đức tin mỗi người có nơi nương tựa vững chắc...
Theo Thánh giáo Đức Chí Tôn:
"Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần Thánh Tiên Phật",
Vậy chư Thần Thánh Tiên Phật do con người biết tu luyện mà thành, và đó là con
đường tiến hóa bắt buộc mỗi người phải đi qua như lời Đức Phật Thích Ca: Ta là
Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.
Hai phẩm Thần hồn và Thánh
hồn qua kinh nghiệm xưa nay chúng ta biết được là những người thể hiện các đức
tánh như trung nghĩa, khí tiết,. . .bảo quốc an dân thí dụ như Đức Thánh Trần
Hưng Đạo, Thánh nữ Jean D’Arc của Pháp, Thánh Gandhi của Ấn Độ,... Linh Sơn
Thánh Mẫu núi Điện Bà, Thần Nguyễn Trung Trực, Thần Cử Đa qua cơ bút...
Hai phẩm nầy chúng ta chưa
được biết bản thể thánh hình ra sao.
Đến phẩm vị Tiên tức Tiên
hồn được đắc vị khi con người luyện được Tinh Khí Thần hiệp nhứt tạo được
xác thân thiêng liêng, xác thân nầy trường tồn vĩnh viễn bất tiêu bất diệt...
Pháp tu luyện Tam bửu của
Cao Đài là luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hườn hư... khi
luyện thành công thì đắc thành Tiên vị.
Đạt được Tiên vị rồi tiếp tục
tu hành nữa để lên Phật vị (tức Phật hồn) đến Phật vị sẽ có lục thông là:
Thiên nhãn thông: Thấy tất cả các cõi giới và hàng chúng sanh khắp mọi nơi, mọi
cõi.
Thiên nhĩ thông: Tai có thể nghe âm thanh ở các nơi các cảnh giới.
Túc mạng thông: Biết sanh mạng đời trước của mình, của chúng sanh và
cả đời sau luân chuyển thế nào.
Tha tâm thông: Biết lòng dạ và tư tưởng của người khác rõ ràng
không sai khác.
Thần túc thông: Bay nhảy khắp nơi trong nháy mắt, biến hóa nhiều
phép thuật phi thường.
Lậu tận thông: Dứt tất cả phiền não, hoặc nghiệp chứng đến quả vị
hoàn toàn giải thoát. Đoạt đến Phật vị là hoàn toàn giải thoát khỏi luân hồi
sanh tử.
Ngày nay trong cửa đạo Cao
Đài, các phẩm trật chức sắc đều được đối phẩm trên cõi Thiêng liêng: Tín đồ đến
Lễ Sanh vào hàng Thần vị. Giáo Hữu đến Chánh Phối Sư vào hàng Thánh vị, Đầu Sư
đến Giáo Tông vào hàng Tiên vị. Nếu chúng ta đoạt thủ địa vị nơi cõi thế nầy một
cách xứng phận thì về Thiêng Liêng sẽ vào ngôi vị đối phẩm như trên. Điều nầy
được giải thích trong Pháp Chánh Truyền chú giải là bộ Hiến pháp của Đạo nên
chúng ta an tâm tin tưởng không sai chạy.
Ngày xưa người ta muốn đoạt
vị lên Thần Thánh Tiên Phật thật là muôn vàn khó khăn khổ não, nay Đức Chí Tôn
đến lập đạo Cao Đài là một trường thi công quả, có sẳn những nấc thang để cả
con cái Người bước lên từng nấc mà đoạt thủ địa vị so ra dễ dàng hơn ngày xưa rất
nhiều... Nhờ vậy mà người tu sẽ trở về với số lượng rất lớn như câu kinh:
" Trùng hườn phục vị Thiên môn,
Ngươn linh hóa chủng quỉ hồn nhứt thăng."
3 - Tam thể xác thân của
con người.
Con người có ba thể:
- Thể thứ nhứt là xác thân
do cha mẹ sanh ra.
- Thể thứ nhì gọi là Đệ-Nhị
xác thân của Đức Phật-Mẫu ban cho. Còn thể thứ ba là Linh-hồn, do Đức ChíTôn
ban cho. Trong ba thể ấy phải hiệp lại mới thành con người, nhưng bản-chất nó
khác nhau.
- Thể thứ nhứt là xác
thân, có ngũ-quan, biết cảm-giác xúc
động, do nơi khí bẫm của cha mẹ mà biến tướng ra. Nó thuộc về hữu-hình, luôn
luôn chịu ảnh-hưởng của ngoại vật, hơn là ảnh-hưởng của tinh-thần. Nếu nó chẳng
chịu sự kềm thúc của linh-hồn là Đệ-Tam xác thân thì cũng như con vật mà không
có người cầm cương. Nếu con vật mà không có người cầm cương gìn-giữ thì nó sẽ
trở nên buông lung. Bởi lẽ ấy mà người tu cần phải thắng những cái dục vọng của
Đệ-Nhứt xác thân. Đệ nhứt xác thân rất có ích cho toàn thể con người, nhưng nếu
chẳng thắng đặng những điều dục vọng của nó, thì cũng rất có hại cho con người
chẳng ít.
- Thể thứ hai là Đệ-Nhị
xác thân, tức nhiên là Chơn-Thần của
con người. Người ta gọi là cái vía hay là hào-quang đó. Nó do theo cái thể thứ
nhứt mà biến hình, cũng như đồ bắt kế con vật. Đệ-Nhị xác thân mà chúng ta thường
gọi cái vía, tức là bãn-năng của chúng ta đó. Bãn-năng ấy là Chơn-Thần, mà chủ
của nó tức nhiên là Phật-Mẫu.
Chơn-Thần là một thể vô hình
bất tiêu, bất diệt, luôn luôn tiến-hóa hay ngưng trệ, do mỗi lần tái kiếp được
dày công hay đắc tội. Nói cho rõ hơn nữa, thì nó là lục-dục thất-tình đó. Vậy
khi lục-dục thất-tình được điềuđộ, là nhờ Đệ-Tam xác thân điều khiển nổi, bằng
không, thì nó vì Đệ-Nhứt xác thân, tức là hình vật sai biểu theo bãn-chất của
nó.
Vậy Đệ-Nhị xác thân là hình
bóng đi lập công, bồi đức. Thoảng như nó trọn nghe lời của Đệ-Tam xác thân thì
được trọn lành mà về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, mà chúng ta gọi là đắc-quả.
Còn nương theo thú chất hình vật là Đệ-Nhứt xác thân, là phải luân-hồi chuyển
kiếp mãi mãi, chúng ta thường nói là bị đọa đó.
- Thể thứ ba là linh-hồn,
do Đức Chí-Tôn ban cho, tức nhiên là
một điểm linh-quang của Chí-Tôn chiết xuống, để cho con người biết hiểu, và
khôn ngoan hơn loài vật. Người ta gọi là " thiên-hạ " đó. Vậy
thể thứ ba như người cầm cương con vật. Đã nói rằng Đệ-Tam xác thân là kẽ cầm
cương thì cũng hiểu rõ nó như thế nào rồi, vì sở hành và bản năng của nó giống
như người cầm cương . Nếu nó sáng suốt mà chế ngự được ĐệNhứt xác thân theo luật
thiên-nhiên của Đức Chí-Tôn, thì nó được phần khen thưởng của Đức Chí-Tôn, như
kẽ cầm cương biết cẩn thận trong phận sự của chủ nảy giao điều khiển con vật,
và cái xe thì được chủ hậu đãi. Còn nếu Đệ-Tam xác thân chẳng thắng đặng Đệ-Nhứt
xác thân, mà còn bị lôi cuốn vào đường tội lỗi nữa, thì phải bị sa đọa cũng như
kẽ cầm cương không biết cẩn-thận để điều khiển con vật, hầu làm lợi ích cho chủ,
thì phải bị rầy và quỡ phạt, có khi bị chủ đuổi đi là khác...
4 - Sự tấn hóa hay thoái
hóa của các đẳng chơn hồn chúng sanh.
" Lúc khai Thiên lập
Địa thì các đẳng Chơn-Hồn ấy phải đi từ vật-chất lên thảo-mộc, thú cầm, rồi mới
chuyển kiếp làm người được. Tính ra, mỗi phẩm đi từ đầu chí cuối mà không bị lầm
lạc, thì phải đủ chín chục ngàn kiếp (90.000) mới trở về Thiêng-Liêng vị được.
Vì cớ mà các đẳng Chơn-hồn lúc bị lầm lạc, sa đọa, phải luân-hồi chuyển kiếp
mãi mãi, chưa về đặng nơi cõi Thiêng-Liêng Hằng Sống. . ." * Trích Luật Tam Thể.
Về loài vật dầu cho Thượng-cầm
hay Hạ-thú đều có thọ một điểm linh-quang của Đức Chí Tôn ban cho cũng như loài
người vậy.
Từ loài vật nó cũng thay
đổi nhiều kiếp mới tiến hoá lên loài người được, và chính nó cũng do sự tiến-hoá
mà biến hình. Cũng có nhiều khi loài người làm nên tội ác trong kiếp sanh, mà
phải bị luật thiên-khiển trừng phạt, rồi cho đầu thai trở lại làm loài vật. Cái
Bí-Pháp của các nền Đạo-Giáo đã khai mở từ xưa, cũng như Giáo-Lý của Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ đều dạy cho Môn-đồ về sự tiến-hoá của Bát-Hồn, và về sự luân-hồi
chuyển kiếp, hoặc về sự bị giáng cấp của Bát-Hồn và do Luật Thiên-Điều phân định
chí công.
Vậy một khi bàn đến loài
vật, thì người có Đạo ai cũng nhìn rằng là bậc thứ ba của Bát- Hồn. Nó cũng có
thể tiến-hoá lên phẩm người, và cũng có thể biến trở lại thảo mộc, tùy theo sở
hành gián-tiếp của nó, nên có thể được hai bản-chất của loài người và của thảo-mộc.
Luật tấn-hóa của thảo mộc, thú cầm, nhơn loại, nó từ từ tăng tiến mãi, nhưng
cũng có thối hóa vậy". * Luật
Tam Thể.
Thánh giáo Bà Bát Nương dạy
về hình phạt Ngũ lôi tru diệt và Tận đọa tam đồ bất năng thoát tục như sau: "
Còn như bị ngũ-lôi tru-diệt thì luồng điện của Chơn-Linh bị đánh tãng, không hiệp
được với Chơn Thần nữa, Chơn-Thần ấy cũng bị tãng ra và Phật-Mẫu thâu âm-quang
lại. vì vậy, Chơn-Linh ấy phải xiêu lạc, chờ cơ ân-xá Phật-Mẫu ban cho Chơn-Thần
lại mới được tái kiếp trả quả mà lập công. Thoảng như, bị tận đọa tam-đồ bất
năng thoát tục, thì Chơn-Linh phải bị ngăn cản, không hiệp được với ChơnThần,
làm cho Đệ-Nhị xác thân phải trở lại chuyển kiếp từ bực kim-thạch cho đến làm
người, và phải chuyển trở lại đủ ba vòng mới được khởi lập công lại ..."
Trong kinh Đại Thừa Chơn
Giáo có đoạn: " Còn sự tấn-hóa thì từ con thú đến làm người còn dễ, chớ
người mà tấn-hóa đến Tiên, Phật khó thay, vì con người cả mang lòng dục-vọng,
ham muốn, ưa chuộng tửu, sắc, tài, khí, lưu luyến tình đời, dâm dục quá độ,
hung bạo không ngằn thì phải chịu thoái hóa trở lộn xuống mang lông đội sừng mà
đền bồi tội quả". * ĐTCG.
Đức Chí Tôn cũng có dạy: "
Các con nghe: Như loại thảo mộc cũng có thọ nơi Thầy một điểm nguyên hồn. Nó
cũng sống, nhưng trí hóa khờ ngây. Các con coi đó, từ thảo mộc bắt đầu lên cho
chí loài người, nó có 3 cái phép:
- Như thảo-mộc thì cái gốc
trở xuống, ngọn day lên (gốc đầu, ngọn chơn).
- Rồi nó tấn-hóa đến bực
thú cầm thì cái đầu, cái đuôi ngang nhau.
- Thú cầm qua nhơn-loại
thì cái đầu trở lên trên cái chơn xuống dưới.
Vậy từ thảo mộc có một phần
hồn. Thảo mộc tấn-hóa mãi, muôn vạn kiếp mới bước sang qua thú cầm thì từ thú cầm
đã đặng hai phần hồn. Thú cầm mới dần dần tấn-hóa mãi, trăm, ngàn, muôn kiếp
lên đặng làm người thiệt là trăm đắng ngàn cay, muôn thảm vạn sầu, biết bao
nhiêu là công phu khổ hạnh, xả thân giúp đời một cách khó khăn cực nhọc, nhưng
cũng vui lòng, mãn kiếp nọ sang kiếp kia, cứ lập công quả mãi.
Vạn vạn muôn muôn lần đầu
thai mới qua đặng phẩm bực loài người, thì tấn-hóa đến loài người đã đủ trọn
tam hồn thất phách.
Những con thú mới qua làm
người thì còn khờ-khạo, ngu-ngây, tánh tình độc hiểm, nhưng biết khôn xả thân
giúp đời thì chuyển kiếp đôi ba chục lần cũng đặng minh-mẫn, khôn-ngoan.
Nhưng đã đặng làm người
phải tấn-hóa, mà tấn-hóa mãi thì cần phải chịu chuyển kiếp trăm ngàn lần đặng học
hỏi mọi lẽ thế gian. Ðặng làm người rất khó.
Người muốn tấn-hóa đến phẩm
vị Tiên, Phật, Thánh, Thần thì phải tu tâm, dưỡng tánh, tích đức, thi ân. Từ
đây mà lên đến địa vị Tiên, Phật rất là chua cay nông nỗi, có dễ dầu chi ..."
Nhưng người nào có lòng
thiện Ðạo tu hành, tánh cách hiền lương, hòa hảo thương yêu cả mọi người, thị của
đời mộng ảo, không ưa vật chất, chỉ chuộng tinh thần, ý chán đời không lưu luyến
đỉnh chung lợi lộc thì có ngày gặp Tiên, Phật chỉ truyền cái phép tu tánh luyện
mạng, qui tam bửu ngũ hành, tạo thành ngôi vị. Ấy là tấn-hóa đến phẩm Tiên, Phật
rồi thì tiêu diêu khoái lạc, an hưởng chốn thanh nhàn, không dời đổi biến thay". * ĐTCG.
" Còn người không tu
thì phải chịu ở mãi dưới thế-giới hữu hình này mà lập công quả, học hỏi cho
khôn ngoan cho đến tánh cách chí thiện, chí mỹ thì chừng đó mới sang qua thế-giới
khác, cũng làm y như vậy mà đặng sang qua thế-giới khác nữa. Ít ra con người phải
đầu thai trăm ngàn lần, công phu khổ hạnh mới đặng bỏ địa cầu này đến địa cầu
khác, khó nhọc biết bao, chuyển kiếp đi vòng quanh mãi, trong Tam-Thiên ThếGiới,
Tứ-Ðại Bộ Châu, Thất-Thập-Nhị Ðịa, Tam-Thập-Lục Thiên. Ðúng ba nguơn sợ không
có chí khó nhập vào Thiên-môn Phật-cảnh đặng..." * ĐTCG.
Pháp Chánh Truyền chú giải
có dạy: " Trong Bát Quái Đài kể từ Tiên vị đổ lên cho tới Thầy thì đã
vào địa vị của các Đấng Trọn Lành "classe des Parfaits ou des Purs",
từ Thánh vị trở xuống nhơn vị thì vào hàng Thánh "classe des Épures"
, từ thú cầm xuống vật chất thì hàng phàm tục "classe des Impurs" , ấy
vậy trong Bát Quái Đài từ bực Thánh hồn thì còn phận sự điều đình Càn Khôn Thế
Giái, giao thiệp cùng các chơn hồn, còn ở trong vòng vật chất, nâng đỡ, dạy dỗ
cho phàm phẩm tấn hóa lên cho tới Thánh vị. Hễ vào đặng Thánh vị rồi thì tự
nhiên mình biết lấy mình, dầu phải bị đọa trần đi nữa cũng còn giữ vẹn Thánh Đức
mà tu hành đặng đạt đến địa vị trọn lành, lên địa vị trọn lành rồi thì mới đồng
quyền cùng Tạo Hóa, từ bi, tự tại bất tiêu bất diệt".
Ấy vậy, chúng ta phải tu để
đoạt từ Tiên vị, Phật vị mới gọi là trọn lành và có pháp thân bất tiêu bất diệt.
Một đoạn Thánh giáo khác : "Thầy đã nói đạo đức cũng như một cái thang
vô ngằn, bắc cho các con leo đến phẩm vị tối cao tối trọng là ngang bực cùng Thầy,
hay là Thầy còn hạ mình cho các con cao hơn nữa. Vậy Thầy lại dặn các con: Nếu
kẻ không tu, làm đủ phận người, công bình chánh trực, khi hồn xuất ra khỏi xác
thì cứ theo đẳng cấp gần trên mà luân hồi lại nữa, thì biết chừng nào đặng hội
hiệp cùng Thầy. Nên Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn loại Càn khôn Thế
giới, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng, mà hại thay!
mắt Thầy chưa đặng hữu hạnh hoan lạc thấy đặng kẻ ấy". * TNHT, 19-
12-26.
Chúng ta làm sao tìm ra con
đường ngắn nhất để trở về cùng Thầy ?
5 - Nguyên Nhân, Hóa Nhân
và Quỉ Nhân.
Hóa nhân là những chơn hồn tấn hóa đi từ nơi vật chất, thảo mộc,
thú cầm rồi lên làm người.
Nguyên-nhân là Nguyên-Linh Đức Chí-Tôn cho xuống trần để học hỏi
về cơ tấn-hóa. Cũng có phần nguyên-nhân đến đặng mở cơ giáo-hoá để dìu-dắt
hoá-nhân đi lên đường tiến-hóa song không ở trong số một trăm ức của Chí-Tôn đã
cho xuống thế từ buổi thượng-ngươn.
Quỉ nhân : Các hóa nhân phạm tội mà trở nên quỉ nhân.
Nguyên-nhân do một Chơn-linh
của Chí-Tôn chiết ra, nếu họ phạm tội thì Chơn-linh ấy trở về, và Chơnthần phải
tái kiếp đặng đền bù tội lỗi. Chừng tội lỗi đền xong, thì Chơn- linh sẽ trở lại,
mà dìu-dẫn Chơnthần thêm nữa, trên đường tấn-hoá của họ.
Nguyên-nhân có cựu vị, nếu
trong trường thi tấn-hóa mà họ đoạt được thì phẩm-vị ấy sẽ được cao thăng. Còn
như Chơn-thần quá ư mê muội thì cựu-vị của họ phải để trống.
Còn như hoá-nhân thì khi họ
tạo được phẩm-vị, rồi họ mới được hưỡng hồng ân của Chí-Tôn ban cho điểm
linh-quang. Nguyên-nhân và hoá-nhân khác nhau ở chỗ đó.
Chừng hóa-nhân lập được vị rồi
lại còn muốn lập vị thêm nữa, thì lúc xuống thế đặng lập công thêm nữa, cũng được
gọi là nguyên-nhân.
Nguyên-nhân thì có Chơn-linh
chế ngự, còn hóa-nhân khi tạo được vị, mới được ban bố hồng ân hưởng được
Linh-quang. Còn như khi chưa tạo được vị, họ chỉ có giác-hồn chế ngự họ thôi.
Còn về quỉ nhân, tức quỉ ma, kinh Đại Thừa Chơn Giáo giải thích về quỉ ma như
sau:
"... Con người hễ
khi làm mất hết chơn-dương thì tất phải thuần-âm, mà người đã thuần-âm tuyệt-dương
là tất phải chết, mà chết như vậy thì tất phải làm ma làm quỉ, chớ không được
nhập vào một thế-giới nào mà an nghỉ hết, dẫu thế-giới ấy là nơi Diêm-Phù cũng
vậy.
Ðã không được nhập vào thế-giới
nào thì lũ quỉ ma ấy chỉ phải nương tựa gió mây mà chờ ngày tiêu diệt thôi. Và
không nhập vào thế-giới nào được là cũng chỉ tại chúng nó đã làm cho tiêu mất hết
cả phần chơndương của chúng nó rồi. Chớ như các linh-hồn phạm tội, tuy vậy chớ
còn được chút ít chơn-dương, vì còn chơn-dương nên còn nhập vô cõi Diêm-Phù mà
chịu hình phạt được, mà hễ còn chơn-dương thì lại còn mong mỏi có ngày sẽ đầu
thai trở lại được nữa. Bởi vậy tuy thọ hình trả quả nơi Diêm-Phù mà còn có phước
hơn là làm ma làm quỉ ..."
Nay là thời kỳ đại ân xá các
chơn hồn quỉ ma cũng được ân xá đầu kiếp lên làm người để lập công chuộc tội,
nên Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn có giáng cơ dạy như sau: " Bần Đạo khi đắc
lịnh cầm chưởng đạo lập Hội Thánh giáo đạo tha phương thì tùng lòng bác ái của
Chí Tôn, mở rộng thế cho nhơn sanh dâng công đổi vị, Bần Đạo chẳng kể là nguyên
nhân, hóa nhân hay quỉ nhân ví biết lập công thì thành đạo. . ."
6 - Bát hồn vận chuyển
hóa thành chúng sanh.
" Bát hồn vận chuyển
hóa thành chúng sanh." Câu nầy
trong bài Phật Mẫu Chơn Kinh được Đức Hộ Pháp giải nghĩa như sau: " Trong
Bát hồn kể Vật chất hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn,
Tiên hồn, Phật hồn do trong Kim Bàn của Phật Mẫu mà ra. Bát đẳng cấp thiêng liêng
chơn hồn vận chuyển biến thành vật chất, thảo mộc, cầm thú và nhơn loại gọi là
chúng sanh".
Theo ý nghĩa nầy thì các
chơn linh cao trọng cũng có khi đầu kiếp xuống trần sanh vào hàng chúng sanh tức
từ vật chất cho đến con người.
Trong Con Đường Thiêng Liêng
Hằng Sống, Đức Hộ Pháp có thuyết giảng: " Nếu một vị Phật muốn thăng
lên nhứt phẩm liên hoa phải tái kiếp làm con vật, rồi đi từ con vật lên tới Phật
vị mới được một từng liên hoa nữa..."
Chúng ta cũng biết được chư
vị Bát Tiên cũng chiết chơn linh giáng phàm lập Đạo như Đức Quyền Giáo Tông là
ngươn linh đại tiên Lý Thiết Quả, Đức Cao Thượng Phẩm là ngươn linh Đức Hớn
Chung Ly, Đức Cao Thượng Sanh là ngươn linh Đức Lữ Đồng Tân,...
Vậy trong thế gian có rất
nhiều người là ngươn linh của chư Tiên Phật giáng trần lập công để cao thăng
Thiên vị. . .
7 - Tu là học để làm Trời.
Đâu đó trong kho tàng giáo
lý Cao Đài, chúng ta có nghe câu: Tu là học để làm Trời, có đâu mãi mãi làm người
thế gian. Đây không phải là ước vọng mà là một hành trình trên con đường tấn
hóa của chơn linh. Đức Hộ Pháp thuyết đạo ngày 29-4-Đinh Hợi (1947)
" Ðại Từ Phụ là Cha
cả Vạn Linh, chúng ta là con cái của Ngài, không phải chỉ hưởng phần hữu hình tại
thế mà thôi, Ngài lại còn dành một phần quí trọng hơn là nhứt điểm linh quang,
nhờ đó mà từ vật chất tiến đến thú cầm nhơn loại, mới tiến đến Phật vị mà ngang
phẩm cùng Ngài, Ðức Từ Phụ là Phật, Ngài muốn cho con cái cũng thành Phật. Ðặng
đạt quyền năng bí mật như Ngài, rồi lập ra một Càn Khôn Thế Giới khác. Luật
thiên nhiên một ông Cha tạo nghiệp, thì con theo nghiệp Cha mà tạo ra sự nghiệp
khác nữa.
Tuy trong buổi Tam Kỳ Phổ
Ðộ, Bần Ðạo biết mở Ðạo Cao Ðài đặng tuyển chọn trong hàng Phật đạt kiếp từ tạo
Càn Khôn Thế Giới đến kế vị Ngài. Trong buổi Ðại Từ Phụ mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ
có treo bảng ở Ngọc Hư Cung, lập một ông Trời kế vị Ngài, nhưng chúng ta thấy
trong hàng Phật có ba người: Phật Thích Ca, Phật Di Lặc, Ðức Chúa Christ, Thử hỏi
ba người ai sẽ làm Trời. Ta tưởng ba người sẽ có một người làm được, mà người
đó chúng ta biết chắc có, tuy không quyết đoán trước đặng, chúng ta mơ màng ngó
thấy nhưng không dám nói. Hễ Ðấng nào đủ quyền năng trị thế, tinh thần cho cao
trọng thâu phục cả tâm lý nhơn sanh vào khuôn Ðại Ðạo, gồm tinh thần tư tưởng
loài người lại được, thì Ðấng ấy sẽ kế nghiệp Ðức Chí Tôn ".
Đức Chí Tôn cai quản cả càn
khôn vũ trụ, trong đó có muôn ngàn càn khôn thế giới như quả càn khôn thờ nơi Đền
Thánh. Nếu có một chơn linh Phật vị nào cao trọng đủ cai quản một càn khôn thế
giới thì Đức Chí Tôn sẽ cho kế vị ngài cai quản càn khôn thế giới đó hoặc vị đó
có thể tạo nên một càn khôn thế giới mới. Tu là học để làm Trời có ý nghĩa là
như thế.
Khảo Cổ Học
8 - Phần kết:
Con người là sinh vật thượng
đẳng trong chúng sanh. Về nguồn gốc, con người có thể đi từ vật chất, thảo mộc,
thú cầm rồi tiến lên làm người. Hoặc xuất phát trực tiếp từ Đức Chí Tôn cho xuống
trần để học hỏi về cơ tấn hóa, hay đến để giáo hóa chúng sanh. Kế đến con người
có thể là chiết linh của các chơn linh cao trọng giáng phàm để lập công cao
thăng thêm thiên vị.
Trần gian nầy là môi trường
sinh động, nhà Phật gọi là biển khổ nhưng cũng là trường thi để các chơn linh đến
đây thi thố tài năng, lập công đoạt vị.
Đức Chí Tôn dạy rằng: lòng
háo sanh của Thầy không cùng tận, có nghĩa sự sanh hóa vạn vật không bao giờ ngừng
nghỉ. Các điểm linh hồn sanh hóa ra rồi sẽ đua nhau trên đường tấn hóa cho đến
khi nhập vào niết bàn là Phật vị rồi còn tấn hóa nữa để nối nghiệp Đức Chí Tôn
lập ra càn khôn thế giới mới...
Muốn đoạt Phật vị con đường
tuy rất dài nhưng Đức Chí Tôn cũng cho biết: Thầy cho một quyền rộng rải, cho cả
nhơn loại càn khôn thế giái, nếu biết ngộ kiếp một đời tu đủ trở về cùng Thầy đặng...
Nếu chúng ta có tâm thật tha
thiết mong cầu sự giải thoát thì hãy cầu nguyện Đức Chí Tôn và các đấng Thiêng Liêng
dìu dẫn để được về cùng Thầy sau khi mãn kiếp sanh nầy, đó là điều hữu hạnh nhứt
hơn mọi sự hạnh phúc ở trần gian nầy ./.
* HT / Mai Văn Tìm
(11-2020)
Tài liệu tham khảo:
- Thánh Ngôn Hiệp Tuyển .
- Đại Thừa Chơn Giáo .
- Luật Tam Thể .
- Lời Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp.