Chúng ta quan sát và chính Bần Đạo quan sát thấy chơn truyền của Đạo Thánh Gia Tô
vẫn
đồng
căn, đồng bổn với Đạo Phật, gióng với Phật giáo hạ thừa, không có chi khác, dầu bí pháp chơn truyền hay thể pháp cũng y
như vậy.
Thảng từ thử đến giờ, có thuyết chia rẽ tinh thần, là tại nơi người phàm, đem thuyết
ấy để trong sự tin tưởng của sắc dân Âu châu, nên mới có sự chia rẽ nòi giống. Vì nạn ấy mà chúng ta ngày nay thấy trên mặt
toàn cầu nòi giống chịu nạn tương tàn, tương sát nhau.
Bần Đạo xin thuyết cái nguyên căn của Đức Chúa Jésus Christ là gì?
Thỉnh thoảng rồi Bần Đạo sẽ đem nguyên căn của Thánh giáo Gia Tô thuyết
minh ra cho cả thảy nam nữ đều rõ biết.
Đức Chúa Jésus là ai?
Nếu chúng ta thấy chơn truyền của dân tộc
Hébreux tức dân Do Thái bây giờ để lại, theo luật pháp của Thánh Moise đã tiên tri nói về Đấng Cứu Thế giáng sanh. Nếu chúng
ta tìm tòi, lật từ tờ trong Kinh Thánh Gia Tô chẳng hề thấy tên Christ và chẳng
có tên Christ nơi cõi thiêng liêng. Bần Đạo dám chắc
Đức Chúa Jésus Christ là chơn linh Christna, là Tam Thế Tôn đó vậy.
Đức Phật Christna không phải xa lạ với chúng ta, bởi vậy cho nên đã đến mà
lại đến với chức trách nhỏ nhen, hạ mình hèn hạ ấy hầu đem tâm hồn Chí Thánh của
Ngài thức tỉnh các sắc dân Âu châu.
Ngài đến nơi một nhà bần hèn. Bần Đạo xin nói rằng:
Ngài đến nhà của bà Maria cốt yếu là một bà tu trong Đền Thánh Jérusalem,
ông Joseph cũng người tu trong Đền Thánh. Luật lệ của Đền Thánh buộc hễ con gái
đến tuổi cập kê cho ra xuất giá.
Năm ấy cô Maria tức là một cô Đạo nữ, chúng ta nói là một ni cô ở Đền
Jérusalem, đến tuổi lấy chồng.
Phép Đền Thánh buộc mấy Thầy tu trong đền thờ phải có người đứng ra cưới, bởi
vì chiếu theo lời Chí Tôn căn dặn nhủ lời Ngài nói với Adam và Eve buổi nọ
(Unissez vous et multipliez) bây phải chung sống cùng nhau đặng biến sanh ra
nhiều nữa.
Lễ tuyển chọn chồng cho bà Maria, theo luật Đền Thánh buộc mỗi vị nam lựa
bông để trong Đền Thánh 3 ngày, nếu bông ấy còn tươi thì được cưới.
Hại thay!
Có nhiều kẻ trẻ trung, còn ông Joseph buổi nọ đã quá 50 tuổi, cũng chịu
theo luật cưới ấy. Nếu chúng ta nói đến hoa khôi lịch sắc thì bà Maria cũng có
thể vào hạng đó. Mới tới tuổi cập kê mà sắc đẹp ấy làm biết bao nhiêu kẻ nam
nhi ước vọng. Ông Joseph cũng như mọi người, đem bông hoa đến Đền Thờ chịu
trách nhiệm tuyển chọn ấy. Người tìm bông hoa này, bông hoa kia, còn ông, ông
nghĩ mình đã già rồi, vợ con mà làm chi, nhưng luật Hội Thánh buộc không làm ắt
có hình phạt, hoặc quỳ hương chẳng hạn (cười…).
Bước ra khỏi Đền Thánh, Ông thấy bông huệ khô héo của ai bỏ, ông lượm lấy
đem cặm vào bình, không ngờ thứ huệ rất nên kỳ lạ, những bông nụ nở rồi nó rụng
đi, còn bông búp bắt hơi nước sống lại, nở tươi đẹp, còn các thứ hoa khác tàn rụi
hết, ông phải chịu phép cưới cô Maria.
Hại thay!
Nhà tu nếu làm làm lễ cưới rồi phải ra khỏi Đền Thánh, mà đôi vợ chồng ông
đều tu không gia đình, không nhà cửa, không phương sanh sống, thật rất nên thê
thảm.
May thay!
Lúc còn ở trong Đền Thánh, ông Joseph làm thợ mộc, ông giỏi nghề mộc lắm.
Ông mới bàn tính, bây giờ vợ chồng nghèo dắt nhau ra ngoài làm ăn, chồng
làm thợ mộc, vợ may vá, mà bà Maria về nữ công rất hay khéo nghề đan
(tricoter), nhờ vậy tìm sự sanh sống cũng tạm được đầy đủ.
Thảng mãn ngày qua tháng lại,
hạ sanh con đầu lòng là Jésus. Hai vợ chồng nuôi con với phương tiện nghèo khổ, nhứt
là ngày hôm nay là ngày sanh của Đức Jésus Christ còn để lại dấu tích cho chúng ta thật đáng để ý hơn hết.
Đêm Noel trong Đền Thánh làm lễ long trọng như chúng ta làm lễ hôm nay, và hai
vợ chồng đi lại từ làng Nazareth vô Đền Thánh làm lễ. Khi đó bà đã có thai gần
ngày sanh, nghĩ mình đã có căn tu, đến ngày đại lễ không thể ở nhà được. Ôm bụng
mang dạ chửa, cũng ráng đi đến chầu lễ thường lệ.
Ở Châu thành nhà cửa bị thiên hạ mướn chật hết, kiếm không ra chỗ ngủ,
không lẽ ở ngoài trời, mới vô năn nỉ chúng cho ở trong chuồng chiên tạm trú.
Trời đang tiết Đông thiên, như ngày nay chúng ta nghe cũng hơi lạnh, lạnh lẽo
lạ lùng nhứt là với hai người tâm Đạo nay vô ngủ trong chuồng chiên rất khổ sở.
Đúng 12 giờ khuya đêm hôm ấy, bà chuyển bụng sanh ra Đức Chúa Jésus Christ.
Trong sách nói, ngày Chúa giáng sanh có vì sao gọi là sao chổi mọc, đó là
Comete de Halley, mỗi 75 năm mọc trở lại một lần. Các vị Vương tiên tri rằng
"ngày nào sao chổi ấy mọc là ngày Chúa giáng sanh nên nhớ để dạ tìm Người".
Có nhiều huyền diệu ta không thể tưởng tượng được như đám chăn chiên đóng
trại ngoài trời, bỗng nghe giữa thinh không có nhiều Thiên Thần kêu nói có Chúa
Cứu Thế giáng sanh.
Nên vua của dân Maures và các người chăn chiên ấy vô đảnh lễ Chúa đầu tiên
hơn hết.
Tai hại thay!
Thời buổi đó nước của dân Juifs bị đế quốc Romains chiếm làm thuộc địa, ở
Palestine thì để một vị chánh soái là Hérode Antivas hằng để tâm mưu sát Đấng
Chúa Cứu Thế, vì có tiên tri nói đến làm Vua nước Do Thái, nên ngay từ buổi đến
trấn nhậm Palestine, chính Hérode đã giết ông Thánh Jean Baptiste.
Buổi ấy các nhà Tiên tri cho biết Đức Chúa Cứu Thế sanh ngày đó mà không biết
Đấng Chúa Cứu Thế là ai?
Muồn giết, mà không biết ở đâu?
Nên bắt tất cả con nít sanh trong đêm ấy đem ra giết hết, đinh ninh rằng
trong đám đó có lẽ có Đấng Chúa Cứu Thế.
Ai dè đâu, Ông Josph đêm mệt mỏi nằm mộng thấy Thiên Thần mách bảo, liền bồng
đứa trẻ trốn qua Ai Cập.
Hai vợ chồng đào tẩu kịp chớ không thì Chúa cũng bị giết rồi..
Qua Ai Cập một thời gian, đứa con lên được 5, 6 tuổi, nghe tin bên nước
mình đặng yên và có lịnh thiêng liêng truyền dạy hai vợ chồng trở lại
Palestine. Chồng làm thợ mộc theo nghề cũ, vợ may vá nuôi con, lại sanh thêm
ba, bốn người con trai, gái nữa, thành thử cách sống rất nghèo hèn khổ não, từ
cái đường sông Jourdain Đức Chúa để bước đội nước mỗi ngày giúp mẹ cùng kiếm
công một hai cắc.
Buổi nọ là lúc đã được 12, 13 tuổi, theo cha học làm thợ mộc, ông chỉ đâu
làm đó. Khi đó ông Joseph lãnh làm nhà của người ta, rủi cưa cắt làm sao mấy
cây cột lỡ cụt hết, người chủ bắt đền không biết liệu làm sao!!!
Nhà nghèo tiền đâu mua cột khác đặng bồi thường. Ông ngồi khóc ròng, đoạn
Chúa mới cầu nguyện rồi cha một đầu con một đầu nắm kéo nhẵng ra cho đủ thước đặng
bồi thường cho đủ, bằng không thì chỉ có ở đợ mà trừ. Thiệt lạ lùng thay và huyền
diệu thay, đó là Đấng Christ hành pháp lạ lần thứ nhất.
Trong năm 12 tuổi là năm kéo cột đó, Jésus vô Đền Thờ buổi nọ chơn linh Đức
Christna giáng hạ, các vị Giáo chủ trong Đạo toàn là những vị nghe tiếng đồn
danh thần đồng của Chúa Jésus nên khi vô Đền Thờ, họ xúm nhau lại vấn đạo, Đức
Christna giáng linh, ngồi giữa các vị Giáo chủ ấy, thuyết đạo làm cho thiên hạ
ngạc nhiên sự lạ.
Hai vợ chồng buổi nọ đi chầu lễ Sabat vô Đền Thánh cúng rồi về, dòm lại Đức
Chúa đâu mất, hỏi ai nấy có thấy Jésus không? Hai ông bà tìm kiếm mãi cũng
không thấy con, sợ sệt, hớt hãi chạy trở lại đền thờ, thấy Jésus ngồi giữa các
Giáo chủ đó ngồi chung quanh đương vấn Đạo.
Bữa nọ tình cờ, tuy vẫn lúc còn ở trong Đền Thánh, Bà có được tin truyền rằng:
“Bà sẽ cho loài người Đấng Cứu Thế nơi mặt thế gian nầy, bởi nơi lòng bà xuất
hiện ra Đấng Chúa Cứu Thế”
Tuy đã biết trước như vậy, nhưng vì chạy kiếm con không thấy, vừa mệt, vừa
sợ sệt đến khi tìm gặp thấy con ngồi thuyết đạo, bà đã có lòng phiền, bèn kêu
Chúa nói:
" - Sao con làm cho Mẹ khổ não kiếm con lắm vậy?"
Đức Chúa liền nói:
" - Mẹ không biết con đang làm phận sự của Cha con biểu phải làm hay
sao?"
Bà mới tỉnh, tự hiểu biết.
Đức Chúa thấy đã làm phiền lòng bà. Từ đó khi Chúa về nhà thì cũng như mọi
đứa trẻ khác, cũng đi đội nước, cũng đục đẽo là thợ mộc, phục tùng cha mẹ hiếu
hạnh đủ điều.
Trong nhà em út bất hoà, còn ông Jésus hiền lắm, tánh hay nhịn nhục nên mấy
người em thường hay ăn hiếp. Ở nhà không yên, ông đi làm thợ lấy tiền về nuôi
cha mẹ lây lất qua ngày.
Đến năm 30 mươi tuổi nghe Saint Jean Baptiste truyền giáo tại bờ sông
Jourdain, cũng trong lúc đó, Đức Chúa đến gặp ông đang giải oan cho thiên hạ.
Khi vừa thấy Đức Chúa ở xa xa đi đến, ông đã biết là Đấng Chúa Cứu Thế, ông mới
nói:
" Từ sáng đến giờ tôi chỉ chờ có một người nầy thôi."
Đức Chúa đến thọ phép giải oan của Ngài.
Trong buổi vừa hành pháp xong Đức Chúa dưới sông Jourdain vừa bước lên thì
trên không hiện ra hào quang sáng suốt, hiện ra giống như chim bồ câu trắng sa
giữa đầu Chúa, ngay giữa thinh không có tiếng nói:
"Nầy con yêu dấu của ta, cả ân đức của ta để cho con đó".
Từ ngày đó, Đức Chúa Jésus là chơn linh Đấng Christna giáng hạ, cho nên đi
truyền giáo nơi nào, chơn linh Ngài không phải như ngày sinh nhật nữa mà đã biến
thành Chí Thánh vậy. Ngài là chơn linh Thánh sống trước mắt cả thiên hạ đạt cả
Đạo Giáo.
Ngài quan sát nơi mặt thế nầy, Đức Jésus Christ không kém thua ai trong
hàng Giáo Chủ. Ngài để nhứt tâm lẫn tính thương sanh yêu ái người thật nồng nàn
chơn chất. Đức Thích Ca thế nào thì Đức Chúa thế ấy. Bởi cớ thiên hạ thương mến
nghe theo Đạo Giáo của Ngài. Dân Juif các vì Giáo Chủ buổi nọ, luôn các vua
chúa Palestine, thấy Đức Chúa Jésus Christ thuyết đạo giáo có một chí hướng
chơn truyền phản khắc với tôn chỉ của họ, họ oán ghét, tìm phương giết Chúa, đến
đầu cáo với César rằng:
"Người ấy mưu cuộc phản loạn đem bọn Juif ra khỏi sự thống trị của chế
độ Romain."
Nhưng họ vu cáo đủ thứ cũng không được vì thánh đức của Chúa không thể phạm
vào được. Họ lại tìm cách bài bác luật Đạo, tạo một ban tuyên truyền làm cho
nhơn gian sợ di hại liên luỵ không dám gần Chúa.
Mấy Giáo Chủ ấy bắt Chúa Jésus giao cho nguyên soái Pilate lên án tử hình.
Tuyên truyền thế nào không biết, cho đến ngày Lễ Phục Sinh là ngày thả tù nhơn,
có tên Barabbas là tướng hung dữ, sát nhơn đủ tội mà toàn dân Juif đồng tha bổng,
còn Đức Chúa Jésus chúng không tha, lên án tử hình và đem ra giết, đóng đinh
trên cây thập tự.
Cái chết cua Jésus Christ là
gì?
Là Ngài đem xác Thánh trọng
quý dâng cho Chí Tôn làm tế vật, xác Thánh chết trên Thánh giá là lễ tế đồng thể
với Tam Bửu của chúng ta dâng lên Đức Chí Tôn ngày nay đó vậy.
Vậy, Đức Chúa Jésus Christ
đã làm con tế vật cho Đức Chí Tôn đặng cứu chuộc tội lỗi của loài người, nhứt là các sắc dân
Âu Châu, nên danh thể Ngài để hai chữ Cứu Thế chẳng có chi là quá đáng.
Thật ra Đấng Cứu Thế ấy là Tam Thế Chí Tôn giáng linh tức là Christna tái
thế.
* * *
Trong một đàn cơ (24 Décembre 1956) Đức Chúa Jesus có giáng cho một bài
thi:
" Cửa hồng đuốc huệ rọi nên thông,
Thế kỷ hai mươi phải đổi dòng.
Đạo Thánh khen ai mưu lợi dụng,
Đường Tiên cậy kẻ phép thông
công.
Tây Phương trở lối về Nam Việt,
Bắc hướng quay cờ đến Lạc Hồng.
Định thế nhờ tay Vi Hộ Pháp,
Long Hoa đại hội mở Thiên Cung."
* Trích từ Lời thuyết đạo của Đức Hộ Pháp: Q.2 Năm Mậu Tý (1948) bài thứ 59.