Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ
Tòa Thánh Tây Ninh
Quyển Nhứt
Hội Thánh Giữ Bản Quyền
In lần thứ nhứt
Năm Canh Tuất (1970)
Do Ban Ðạo Sử ấn hành
lần thứ nhứt năm Canh Tuất (1970)
Kiểm duyệt Kinh sách
Ðạo số: 120/BKD ngày 13 tháng 9 năm Canh Tuất (dl. 12-10-1970 )
Trưởng Ban Kiểm Duyệt
Kinh Sách Ðạo
Hiến Pháp H.T.Ð
(Ấn Ký)
TRƯƠNG HỮU ÐỨC
Lời Thuyết Ðạo của Ðức Hộ Pháp năm Bính Tuất-Ðinh
Hợi ( 1946-1947) Q1 Trang 7 / 122 Thánh Thơ của Thượng Sanh.
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
TÒA THÁNH TÂY NINH
(Tứ Thập Ngũ Niên)
Văn Phòng HIỆP THIÊN ÐÀI
Thượng Sanh
Số: 121/TS
Chưởng Quản Hiệp Thiên Ðài
Kính gởi:
Hiền Huynh Hiến Pháp
Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh
Tham chiếu quý Thánh thơ số 16/ÐS ngày
12-6-1970.
Kính Hiền Huynh,
Theo đề nghị của Hiền
Huynh tôi chấp thuận cho Ban Ðạo Sử xuất bản để phổ biến những Bài Thuyết Ðạo
tại Tòa Thánh của Ðức Hộ Pháp từ năm 1946 đến năm 1955.
Những bài giảng được
chọn để ấn hành phải có sự kiểm duyệt của Ban Kiểm Duyệt Kinh Sách.
Nay kính,
TÒA THÁNH, ngày 14
tháng 5 năm Canh Tuất.
(dl. 17-6-1970 )
Thượng Sanh
(Ấn ký)
Lời Thuyết Ðạo của Ðức
Hộ Pháp năm Bính Tuất-Ðinh Hợi (1946-1947) Q1 Trang 8 / 122
Lời Tựa.
Những bài Thuyết Ðạo
trong quyển sách nầy là lời vàng tiếng ngọc của Ðức Hộ Pháp, một vị Giáo Chủ
của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, một bậc vĩ nhân của thế hệ, nên một Ủy Ban sưu tầm và biên tập
thành lập có Ðức Thượng Sanh chấp thuận, để xúc tiến việc sưu tầm biên tập và ấn tống các bài Thuyết Ðạo
ấy. Nay cuộc sưu tầm và biên tập đã có kết quả mỹ mãn, nên Ủy Ban đem ra ấn
tống cho toàn Ðạo được thưởng thức lời vàng tiếng ngọc nói trên.
Trong Ban Ðạo Sử của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ đã có
sẵn một Thư Viện tàng trữ các loại Kinh Sách cổ kim và Ðông Tây cho các nhà khảo
cứu và toàn Ðạo có thêm tài liệu. Những quyển "Lời Thuyết Ðạo" của
Ðức Hộ Pháp cũng sẽ lưu trữ vào Thư Viện nầy để chư đọc giả đến xem.
Ðức Hộ Pháp là một trong các vị tiền bối khai sáng
nền Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, đã thực hiện trước hết chủ thuyết Tam Lập: "Lập
đức, lập công, lập ngôn". Về lập đức, thì Ðức Ngài là người đầu tiên đã
nghe theo tiếng gọi thiêng liêng mà khai sáng mối Ðạo cho toàn sanh chúng được
chung hưởng hồng ân của Ðức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
Về lập công, thì Ðức Ngài vừa lập đức vừa lập công
trong việc khai sáng. Từ cái không mà làm ra cái có, bắt gió nắn hình tạo thành
một đại nghiệp Ðạo ở cõi thế nầy. Nếu Ngài không phải là một đại đức thì làm
sao thành công được?
Về lập ngôn, thì Ðức Ngài lưu lại lời vàng tiếng
ngọc trong các bài Thuyết Ðạo mà chúng ta đang thưởng thức và còn nhiều lời
giáo huấn cao siêu khác nữa mà chư quí đọc giả và toàn Ðạo nên lưu ý.
Nhơn danh Hiến Pháp Hiệp Thiên Ðài kiêm Trưởng Ban
Ðạo Sử, tôi xin trân trọng giới thiệu cùng đọc giả bốn phương quyển sách quí
giá nầy đáng được lưu niệm mãi mãi.
Trân trọng kính chào.
Hiến Pháp TRƯƠNG HỮU ÐỨC.
Lời Thuyết Ðạo của Ðức Hộ Pháp năm Bính Tuất- Ðinh
Hợi ( 1946-1947) Q1 Trang 9 / 122
Lời Trần Thuyết của Ban Tốc Ký.
Mỗi lần ly loạn là mỗi lần thư tịch bị làm mồi cho
binh lửa.
Nhìn vào lịch sử, những vụ "Phần Thư",
những vụ chiếm đoạt thư tịch đã xảy ra như một hệ luận trước những biến cố.
Tình trạng nầy đã kéo dài qua các thời đại ấy là biện pháp của những kẻ mạnh
nhắm vào mục đích thực hiện chính sách ngu dân và đồng hóa triệt để.
Những kinh nghiệm đau thương ấy là nguyên nhân thúc
đẩy chúng tôi cố gắng thực hiện công việc sưu tập những tài liệu nầy.
Chúng tôi nghĩ: Nếu tài liệu kinh sách chỉ được tập
trung tàng trữ vào một chỗ tránh sao cho khỏi bị hủy diệt khi kẻ cường quyền
cướp đến phá. Do đó chúng tôi quyết định quây ra làm nhiều bản để gởi đến và ký
thác vào những tâm hồn trung kiên với Ðạo, những người dám chết để bảo tồn
những tiếng nói của Ðấng thay Trời dạy Ðạo.
Nếu một mai thời cuộc lại biến thiên, có thể các
cuộc "Phần Thư" lại diễn thì thiết tưởng trong số tài liệu nầy vẫn
còn có nhiều người nhiệt tâm gìn giữ được vẹn toàn.
Ðây không phải là việc làm của cá nhân hay một đoàn
thể nhưng là một sự đóng góp chung của những người vô danh, nguyện đem hết năng
lực của mình để phụng sự cho lý tưởng bảo tồn truyền thống giáo lý của Ðạo.
Trong khi quyển tài liệu nầy đến tay quí vị thì cũng đã có người vì quá hăng
say trong công việc thực hiện lý tưởng mà phải lao tâm kiệt sức hóa ra người
thiên cổ.
Việc làm của chúng tôi không phải là một ý nghĩ
nông nỗi của một sớm một chiều, nhưng là một hoài bảo trong suốt thời gian ly
loạn. Chúng tôi hằng cầu nguyện Ðức Chí Tôn và Phật Mẫu ban bố phước lành sớm
gặp dịp may để thực hiện hoài bảo ấy. Ngày nay chân trời đã rạng tỏ, ý nguyện
đã đắc thành.
Chúng tôi xin hiến dâng trọn vẹn cho Hội Thánh tất
cả những tài liệu mà chúng tôi đã ghi chép, góp nhặt sau bao nhiêu năm theo
đuổi mục đích bảo tồn những lời vàng tiếng ngọc của Ðức Hộ Pháp.
Từ đây bản quyền nầy sẽ tùy thuộc hoàn toàn của Hội
Thánh. Kính xin Hội Thánh kiểm duyệt và ấn hành, để cho mọi người đều được nghe
lời dạy dỗ đầy yêu ái của Ðức Hộ Pháp, đã dành cho chúng ta trong thời gian Ðức
Ngài còn tại thế.
Tòa Thánh, ngày Rằm tháng
6 năm Bính Ngọ (1966)
Ban Tốc Ký
Lời Thuyết Ðạo của Ðức Hộ Pháp năm Bính Tuất- Ðinh
Hợi ( 1946-1947) Q1 Trang 10 / 122
01 - Lời Tiên tri của Ðức Lý Giáo Tông.
Thuyết đạo tại Báo Ân Từ, đêm Rằm tháng 9 năm Bính
Tuất (dl. 09-10-1946) Trong năm Bính Dần (1926) Ðức Chí Tôn giáng trần khai Ðạo
phổ hóa chúng sanh làm lành, lánh dữ, tức là Cơ Quan Cứu Thế. Khi mà Ðạo đã
truyền bá khắp các Tỉnh rồi, qua đến ngày Rằm tháng 6 năm Ðinh Mão (1927) Ðức
Lý Giáo Tông cấm cơ bút, thì chư vị Chức Sắc Ðại Thiên Phong không rõ tại sao,
nhứt là Ðức Quyền Giáo Tông có lòng sở mộ về cơ bút đã trải qua một thời gian
lắng nghe lời Thánh Giáo, nên Ðức Quyền Giáo Tông định cầu Diêu Trì Kim Mẫu và
Cửu Vị Tiên Nương đặng học hỏi về Ðạo đức.
Ðến ngày 14 tháng 11 năm Ðinh Mão, Ðức Lý Giáo Tông
mới giáng cơ thì xem hình như Ngài có đại nộ, mà chẳng hiểu Ngài giận việc chi,
Ngài mới cho một bài Thánh Giáo như vầy:
"Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư chúng sanh,
hảo hội hiệp. Thảm cho nhơn loại, khổ cho nhơn loại! Ðời quá dữ, tội tình ấy,
hình phạt kia cũng đáng đó chút. Lão vì thương yêu nhơn sanh hội 10 ngày nơi
Bạch Ngọc Kinh cải cho qua nạn nhơn loại, nhưng luật Thiên Ðình chẳng dễ chi
sửa đặng. Nạn tiêu diệt hầu gần, hết chém giết lẫn nhau, đến buổi bịnh chướng
sát hại. Lão thấy hình phạt phải châu mày, nhưng ôm lòng rán chịu, lạy lục khẩn
cầu; chư Ðạo Hữu đâu rõ thấu, ngơ ngơ ngáo ngáo như trẻ không hồn, thấy càng
thảm thiết.
Lão tưởng chẳng cần nói chi một nước nhỏ nhen đã
đặng danh Thánh Ðịa là Nước Nam nầy, mà Lão xin không đặng tội cho Thành Sài
Gòn, Chợ Lớn, Gia Ðịnh, Huế, Hải Phòng, Hà Nội... Thảm! Thảm! Thảm!"
Ðây là lời tiên tri đã trải qua 20 năm trường đến
ngày nay kết quả vẹn toàn trước mắt nhơn sanh đều thấy rõ.
Ðức Lý Giáo Tông, Ngài định phạt Ðức Quyền Giáo
Tông 10 hương, Hộ Pháp 5 hương, ông Phối Sư Bính 5 hương, xét kỹ ra là Ðức Ngài
giận ai chớ chẳng phải giận anh em tôi đâu. Tiếc thay cho nhơn sanh, chớ chi
trong thời kỳ Ðại Ðạo hoằng khai, mà để tâm tín ngưỡng chung thờ một Tôn Giáo,
tròn giữ theo Luật Pháp của Ðạo, lo trau giồi đức hạnh, làm phải làm lành, liên
lạc thương yêu, thuận hòa cùng chung, thì nay đâu có lâm nạn đao binh như thế.
Trái lại, Chức Sắc Thiên Phong là người cầm phướn
chiêu hồn dìu dắt chúng sanh thoát khổ, mà đi đến đâu đều bị họ chê bai, biếm
nhẻ, kích bác, hân hủi đủ thứ, Chức Sắc Hội Thánh đem hồng ân của Ðức Chí Tôn
rải khắp các nơi cho nhơn sanh chung hưởng, mà họ coi như vật thường, không có
giá trị gì, họ đã mài miệt chạy theo khoa học, chú
Lời Thuyết Ðạo của Ðức Hộ Pháp năm Bính Tuất- Ðinh
Hợi ( 1946-1947) Q1 Trang 11 / 122 trọng về văn minh vật chất, chớ không hấp thụ được đạo đức tinh thần, họ
đeo đuổi theo nguồn tranh đấu là cơ tự diệt, chớ nào rõ biết cơ bảo tồn qui cổ
là gì, mãi đến ngày nay mà họ cũng chưa tỉnh.
Còn nói về phần chư Môn Ðệ của Ðức Chí Tôn, từ buổi
đem thân vào cửa Ðạo trong lúc nhập môn đã quì trước Bửu Ðiện có bàn Ngũ Lôi,
mà lập minh thệ rằng: "Từ đây tôi biết một Ðạo Cao Ðài Ngọc Ðế, chẳng đổi
dạ đổi lòng, hiệp đồng chư Môn Ðệ, gìn Luật lệ Cao Ðài, như sau có lòng hai thì
thiên tru địa lục". Than ôi! Cho những người thề như vậy, mà cũng không để
trọn đức tin nơi Chí Tôn lại thối bước ngã lòng, cổi áo Ðạo, dẹp khăn tu, mong
mãi xu hướng theo con đường tục lụy, cho nên mới gây tạo ra con đường lằn súng
mũi đạn ngày nay.
Vậy, ai là người thất thệ với Chí Tôn thì phải sớm
thức tỉnh tâm hồn, ăn năn sám hối, cầu xin Ðại Từ Phụ cùng các Ðấng Thiêng
Liêng, từ bi ân xá tội lỗi tiền khiên, họa may đặng chung hưởng ân huệ của Ðức
Chí Tôn ban cho sau nầy.
Ngày nào toàn thể nhơn sanh đều biết hồi đầu hướng
thiện, nhìn Ðạo Trời là một Cơ Quan Cứu Thế, thật hành chủ nghĩa thương yêu cho
ra thiệt tướng thì ngày ấy mới đặng hưởng hòa bình đại đồng thế giới.
Lời Thuyết Ðạo của Ðức Hộ Pháp năm Bính Tuất- Ðinh
Hợi ( 1946-1947) Q1 Trang 12 / 122
02 - Vấn đề Nho Giáo.
Báo Ân Từ, đêm 30 tháng 9 năm Bính Tuất (dl.
24-10-1946) hồi 12 giờ khuya.
Nhắc lại Thầy Mạnh Tử khi qua yết kiến Vua nước
Lương, ông Huệ Vương hỏi Ðức Mạnh Tử: Lão già chẳng nệ đường xa muôn dặm sang
đến nước Quả nhân có chỉ giáo điều chi hữu lợi chăng? Thầy Mạnh Tử đáp rằng:
Tôi chỉ biết nói đến nhơn nghĩa mà thôi, chớ không nói về lợi, nếu trong nước
mà dục vọng về sở lợi, thì đình thần có trăm hộc lại muốn có thêm ngàn hộc,
thượng hạ đại phu có ngàn hộc lại muốn có muôn hộc, còn vì Thiên Tử đã có dư
muôn hộc, lại muốn có thêm triệu hộc.
Nếu trong nước mà cầu lợi như thế, thì bá tánh phải
chịu lao lung, muôn dân đồ thán, trong nước thế nào bình trị được? Còn như
trong nước biết chú trọng đạo nhơn nghĩa, thì toàn thể quốc dân đặng chung
hưởng mọi điều hạnh phúc, lạc nghiệp âu ca. Thầy Mạnh Tử thuyết minh đủ mọi
điều lợi hại rồi thì Vua Huệ Vương chịu nạp dụng. Hiện nay là buổi kim tiền, ưu
thắng liệt bại, mạnh đặng yếu thua, khôn còn dại mất, con người trên mặt thế
đều bôn xu theo quyền lợi chẳng kể gì nhơn nghĩa đạo đức, tinh thần, nên mới có
nạn chiến tranh tương tàn, đồng chủng giết hại lẫn nhau, hằng ngày diễn ra
nhiều tấn tuồng thảm thương, bi kịch, xem thôi mỏi mắt, nghe đã nhàm tai, khiến
cho giọt lụy thương tâm của khách ưu thời mẫn thế không thể nào ngưng được.
Chức Sắc trong Ðạo đem hột giống nhơn nghĩa gieo
khắp các nơi, mà nhơn sanh không ưng nạp, bởi họ không biết cái năng lực của họ
mạnh mẽ thế nào, không cần để ý đến, chớ chi họ trọng dụng đạo nhơn nghĩa thử
một thời gian coi có hiệu quả gì chăng?
Nhắc lại lời Thánh Giáo của Ðức Chí Tôn có dạy về
chữ Nhơn:
Nhơn là đầu hết các hành tàng,
Cũng bởi vì nhơn dân hóa quan.
Dân trí có nhơn nhà nước trị,
Nước nhà nhơn thiệt một cơ quan.
Ngày nào toàn thể quốc dân mà biết thực hành hai
chữ nhơn nghĩa cho ra chơn tướng, thì chẳng luận là xã hội nào cũng được hưởng
mọi điều hạnh phúc, đời chiến tranh sẽ trở nên thái bình an cư lạc nghiệp.
Lời Thuyết Ðạo của Ðức Hộ Pháp năm Bính Tuất- Ðinh
Hợi ( 1946-1947) Q1 Trang 13 / 122
03 - Vấn đề Bác Ái Từ Bi.
Báo Ân Từ, ngày Rằm tháng 10 năm Bính Tuất (dl. 08-11-1946).
Từ xưa đến nay các nhà Tôn Giáo đem chữ từ bi bác
ái phổ hóa nhơn sanh, cốt yếu là để bảo tồn sanh mạng của quần chúng, gầy lại
sự hạnh phúc cho đời chung hưởng. Chữ từ bi bác ái chẳng lạ gì.
Bần Ðạo nói ra thì chư Chức Sắc nam, nữ Chức Việc
Ðạo Hữu cũng đều hiểu rõ.
Cái nghĩa lý của bốn chữ từ bi bác ái cũng không
phải là sâu xa mắc mỏ gì, từ lớn chí nhỏ làm được tất cả mà tiếc thay cho nhơn
sanh không chịu thực hành.
Từ bi là gì? Bác ái là gì? Bần Ðạo xin được giải chữ Từ bi ai ai cũng đều có sẵn trong
tâm, trẻ con nên năm bảy tuổi thì nó đã biết sự thương yêu cha mẹ, thương
yêu anh em là người thân
tộc gần gũi của nó, khi nó đã trưởng thành có vợ con, bậu bạn thì nó lại thương
yêu rộng ra hơn nữa, một khi đã thấy sự đau khổ hoạn nạn, tai ương của quần chúng
thì nó cảm hóa xúc động đến tâm thương yêu lan tràn ra, không biết đâu là giới hạn,
ấy là tánh từ bi đó.
Còn Bác ái là thể theo lòng Trời Phật thương yêu
toàn cả chúng sanh không biết đâu là bờ bến, thấy chúng sanh làm được việc gì
có đạo đức nhơn nghĩa, thì Trời Phật vui mừng thương yêu chẳng xiết, ấy là Bác
ái.
Hiện nay nhơn loại thiếu sự từ bi bác ái cho nên
tạo ra trường tranh đấu, quyết chiến với nhau, sát hại đồng bào tương tàn cốt
nhục, Ðức Chí Tôn giáng trần hoằng khai Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ là cốt yếu đem
chủ nghĩa từ bi bác ái làm tôn chỉ, để cho nhơn sanh theo đó mà làm một cơ quan
bảo tồn tánh mạng và bảo an quốc thể được hòa bình.
Ngày nào toàn cả quần chúng, đồng bào biết giác
ngộ, tu tỉnh hiệp nhứt tâm thực hành chủ nghĩa từ bi bác ái cho ra chơn tướng,
thì nhơn sanh sẽ đặng chung hưởng mọi điều hạnh phúc, chẳng luận quốc dân nào,
xã hội nào mà toàn cầu thế giới cũng được thọ hưởng cái hạnh phúc ấy.
Lời Thuyết Ðạo của Ðức Hộ Pháp năm Bính Tuất- Ðinh
Hợi ( 1946-1947) Q1 Trang 14 / 122
04 - Tự Tín, Tha Tín, Thiên Tín.
Báo Ân Từ, đêm 10 tháng 11 năm Bính Tuất (dl.
03-12-1946) (1 giờ 46).
Ðức tín chia ra làm ba phương diện:
1. Tự tín
2. Tha tín
3. Thiên tín
1/. TỰ TÍN là gì?
Là mình tin nơi sở sanh của mình có thể bảo đảm
được sanh mạng cho mình. Con
người từ buổi ấu thơ đã biết ăn, biết nói thì biết
thương cha mẹ anh em. Ðến lúc trưởng
thành cha mẹ dạy bảo công việc làm ăn, cho đến sự ở
đời, giao thiệp cùng xã hội nhơn
quần, việc nào lợi, điều nào hại, cha mẹ đã chỉ vẽ
phân minh cũng như có một quyển sách
lập thành để làm căn bản. Ngoài ra hằng ngày ta đã
nghe và thấy các tấn tuồng của đời
diễn ra từ lớp, hay dở tốt xấu, lành dữ, hư nên ta
mới lấy đó mà kinh nghiệm kỹ càng rồi
mới lọc lược cái hay, cái khéo ở trong đó mới lập
lại làm với một quyển sách của cha mẹ
dạy ta từ thử, rồi ta mới đem lên trên Linh Ðài, ta
sẽ do theo đó mà làm mực thước cho sự
hành vi của ta và ta đủ đức tin nơi đó, là cơ bảo
tồn lấy thân ấy gọi là tự túc nơi đó tự tín
nghĩa là tu thân.
2/. Còn
THA TÍN nghĩa là gì?
Là ta biết quan tiền vũ hậu, ta tin nơi ông Thầy dạy ta học các bài vở để lập thân
cho nên người cao quí, lại có nhiều người trong xã
hội chẳng phải họ cố ý dạy ta học,
nhưng cái sở hành của họ, mọi điều phải trái lành
dữ tội phước, thì nó thường hiện ra
trước mặt ta, đó là một bài học, nên chú ý, rồi ta
mới gồm tất cả mọi sự hành vi của người
đời, ta sẽ lập lại làm quyển sách thứ nhì nữa, ta
mới cân phân, lừa lọc, tuyển chọn điều
hay lẽ phải, ta đem để lên Linh Ðài (tức là khối óc
của ta) đặng làm phương pháp bảo vệ
trường tồn tánh mạng của ta ấy là Tha tín.
3/. Tự tín và Tha tín chưa đủ hoàn toàn phải có
THIÊN TÍN là trọn đức tin nơi
Chí Tôn có đủ quyền bảo hộ sanh mạng của ta và toàn
thể chúng sanh nơi mặt thế. Nếu
để trọn đức tin nơi Chí Tôn và tuân theo bài học
của Ðức Chí Tôn dạy từ bi bác ái, nhơn
nghĩa thuận hòa, và tất cả đem vào hai quyển sách
nói trên hiệp lại thành một khối đức tin
đặc sắc, ta mới dựng lên để tên Cao Ðài rồi ta do
đó mà thi hành cho chu đáo, ấy là cơ
bảo tồn trường cửu của ta và tất cả nhơn loại.
Lời Thuyết Ðạo của Ðức Hộ Pháp năm Bính Tuất- Ðinh
Hợi (1946-1947) Q1 Trang 15 / 122
Nếu có cái Tự tín và Tha tín là cái năng lực hữu
hình, mà không có Thiên tín là Huyền pháp vô vi, thì cái năng lực ấy nó sẽ cuốn
lôi theo cơ tự diệt, vì vậy nên ta phải có đủ đức tin nơi Chí Tôn, phải trọng
mạng sống của con người, bởi Ðức Chí Tôn hóa sanh một người là một vật báu của
Ngài. Nếu ai tàn sát cho tiêu loài vật báu ấy thì phạm Thiên điều tức là đại
tội. Ngày nào toàn thể nhơn loại trên mặt thế giới nầy, mà có đủ đức tin nơi
Chí Tôn và thật hành y theo chủ nghĩa "Từ Bi, Bác Ái, Nhơn Nghĩa" cho
được hoàn toàn thì mới mong chung hưởng đời thái bình hạnh phúc, ấy là gầy lại
đời Minh Ðức, Tân Dân tái lập Tân Thế Giới.
Lời Thuyết Ðạo của Ðức Hộ Pháp năm Bính Tuất- Ðinh
Hợi ( 1946-1947) Q1 Trang 16 / 122
05 - Ðãi tiệc công thợ, giải nghĩa về con đường thứ
ba Ðại Ðạo.
Khách Thiện Từ, trước bữa đãi tiệc công thợ, ngày
Rằm tháng 11 năm Bính Tuất (dl. 08- 12-1946).
Muốn đi con đường thứ ba phải tập mình đừng ham
muốn chi cho mình nữa, hành tàng của Chí Tôn là phận sự của mình, phải yêu ái
hiếu hạnh cùng Chí Tôn và Phật Mẫu. Cái yêu ái và hiếu hạnh ấy phải là phi
thường do tâm linh điều khiển, phải thương yêu nhơn sanh và vật loại hơn mình
và coi đồng thể, đồng sanh với mình. Phải tạo dựng cố thủ Thánh tâm cho nên Chí
Thánh, và đạt cho đủ ba ngàn công quả thì sẽ đi đến, lướt đặng và vững vàng
thắng muôn điều trở ngại.
Lời Thuyết Ðạo của Ðức Hộ Pháp năm Bính Tuất- Ðinh Hợi ( 1946-1947) Q1
Trang 17 / 122
06 - Phát thưởng cho học sinh.
Huấn từ nhân lễ bãi trường và phát thưởng cho học
sinh trường Lê Văn Trung. (1946) Về nhiệm vụ của người con dân lúc quốc gia hữu
sự, một điều quan trọng mà tất cả các thanh niên học sinh cần phải biết, đó là
quốc thể của một nước, tức là sự tập hợp của một khối cá thể của những cá nhân
nước ấy. Vậy thì, mỗi công dân một nước phải có một cá thể đã. Cá thể của một
người tức là nhân cách và nhân phẩm của người đó vậy. Mà muốn cho cá thể xứng
đáng thì ông cha chúng ta đã để lại cho hai chữ vô cùng quí báu ấy là Tu Thân
vậy.
Lời Thuyết Ðạo của Ðức Hộ Pháp năm Bính Tuất- Ðinh
Hợi ( 1946-1947) Q1 Trang 18 / 122
07 - Khai Hội Nhơn
Sanh.
Ngày 1 tháng Chạp năm Bính Tuất (dl. 23-12-1946).
Thưa cùng chư Nghị Viên và Hội Viên Lưỡng Phái, Ðã
trót 5 năm dư, Bần Ðạo bị đồ lưu nơi hải ngoại, thì đã từng chịu biết bao nhiêu
là sự đau khổ tâm hồn, nỗi lo cho tương lai của Ðạo, nỗi sợ cho vận nước tránh
không khỏi nạn chiến tranh loạn ly, nặng nơi lòng một tình thương nhớ cả con
cái của Chí Tôn trót triệu chơn linh của Người giao gìn giữ.
Bần Ðạo chẳng cần minh tả thì chư Hiền Hữu, Hiền
Muội cũng rõ từ trước ta đã chán thấy nhãn tiền rằng: Chỉ có thương một người
mà năng lực tình ái ấy cũng đủ làm cho phải hủy mình mà tùng mạng lịnh của nó.
Ôi! Cái mãnh lực tuy vô hình mà nó oai quyền rất dữ, Bần Ðạo nếu chẳng đủ tinh
thần cường liệt nương lấy đức tin thì e nó đã giết hẳn mạng sanh của Bần Ðạo
một triệu lần mới phải.
Hễ cùng chia đau thảm nghèo khổ, hèn tiện có bao
nhiêu thì cường lực tình ái càng tăng nhiệt độ thêm cao hơn nữa. Bần Ðạo đã
quyết thắng, thắng đặng sống, sống vì Thầy vì Ðạo vì yêu con cái của Người. Bần
Ðạo thiệt là người đã phục sanh với một quyền Chí Thánh đó vậy.
Về tổ quốc sau khi đã chịu đủ vị thảm sầu, tưởng đã
đủ cớ phô bày cho cả chúng sanh thấy đặng rõ ràng chơn tướng của Ðạo, đã nung
chuốt với sự thảm khổ vô hạn của mình đặng vẽ vời giọt huyết lệ, hai chữ nhơn
nghĩa cho đời; nào dè trái lại thấy chan chán trước mặt một tấn tuồng bi thảm,
nước mất nhà tan, xương chồng máu đổ. Một trường sát khí bao trùm toàn quốc,
gươm tử thần vùn vụt khắp nơi, làm cho con cái không cha, tớ không thầy, vợ
không chồng, cốt nhục tương tàn, nhân dân đồ thán.
Con hạc lạc hồi quê, nhìn không nhớ tổ, xem nước
non đổi vẻ thay màu, thảm thiết nơi lòng tuôn châu đổ ngọc, sắp muốn kêu cùng
cuối một tiếng nỉ non giục kẻ tri âm hồi đáp. Ôi! Dưới bức thê lương nầy ai là
tri kỷ, tri âm cùng Bần Ðạo, ngoài ra chư Hiền Hữu, Hiền Muội thì Bần Ðạo đã
kiếm đặng ai. Tưởng khi các bạn cũng có lẽ tội nghiệp cho con hạc bịnh nầy, mà
để tai lóng tiếng. Ôi! Cái khối sanh của Chí Tôn đã xiêu lạc nơi nào mà để hai
sắc con yêu ái của Người phải chịu nạn tương tàn như thế!...
Bần Ðạo ngày nay hiển nhiên đứng trước mắt các bạn
mà còn ngỡ là giấc chiêm bao. Vậy Bần Ðạo cúi mình cậy các bạn một điều rất nên
yếu thiết là: Hòa giọng đau thương cùng con hạc lạc nầy đặng giục lòng bác ái
một cảnh an nhàn thiêng liêng cho toàn sanh chúng. Bần Ðạo đã nhiều lo ngại cho
căn số con cái của Chí Tôn trong buổi phiêu lưu nơi hải ngoại, e ra vì nhẹ dạ
của đôi phần tử Thánh Thể của Thầy, nên vừa để
Lời Thuyết Ðạo của Ðức Hộ Pháp năm Bính Tuất- Ðinh
Hợi ( 1946-1947) Q1 Trang 19 / 122 gót về đất Tổ Ðình thì đã quên hẳn mảnh thân tiều tụy hao mòn, vội cầm
quyền của Ðạo đặng sửa đương cho đẹp vẻ chơn truyền, rồi lại tìm phương hiểu
tận những điều khuyết điểm, hư hại hầu giồi mài thêm nữa, nên tức cấp mở Hội
Nhơn Sanh đặng phục vụ quyền Vạn Linh như trước.
Bần Ðạo để trọn tín nhiệm nơi các bạn, Bần Ðạo xin
mở Hội.
Lời Thuyết Ðạo của Ðức Hộ Pháp năm Bính Tuất- Ðinh
Hợi ( 1946-1947) Q1 Trang 20 / 122
08 - Khai mạc Ðại Hội Phước Thiện. Ngày Rằm tháng
Chạp năm Bính Tuất (dl. 06-01-1947).
Ngày nay, nhóm Ðại Hội Phước Thiện cũng là một Hội
trong quyền Vạn Linh, Bần Ðạo cần giải rõ cái nhiệm vụ rất trọng yếu của Phước
Thiện cho Chức Sắc, chư Phái Viên và Nghị Viên được hiểu.
Từ thử Thiên Phong nam, nữ Phước Thiện chỉ hiểu mảy
may cái trách nhiệm tối cao tối trọng của mình chớ chưa hiểu cùng tột. Bởi cớ
cho nên nhiều người không hiểu phận sự, hành Ðạo không đúng theo chơn truyền,
sái hẳn giá trị của Cơ Quan Phước Thiện, việc làm của chư vị không ra gì hết,
thành thử Cơ Quan Phước Thiện chưa có kết quả chi, lại còn theo lối giành giựt
nhau.
Hội Thánh có hai Cơ Quan: Hành Chánh và Phước Thiện
thường tương khắc nhau, song chưa tìm chơn lý để hòa nhau, ngày nào chưa hòa
nhau là còn thất sách, bất lực thì không thi thố phận sự trọng yếu cho ra thiệt
tướng được.
Mấy em cũng dư biết Ðạo Cao Ðài sản xuất có một
Chơn Lý tối cao, tối trọng nên đời buổi nầy khao khát đợi chờ như hạn trông
mưa, những kẻ tội tình trong bể khổ khát khao đợi giọt Cam Lồ của Ðức Chí Tôn
chan rưới cho bớt sự đau thảm. Ðức Chí Tôn đến tạo Ðạo giải khổ tâm hồn cả con
cái của Ngài, Ðức Chí Tôn lại tạo ra hình ảnh Thánh Thể của Ngài, mượn tay các
em và các bạn làm hình thể của Ngài, giải khổ cho đời về phần xác.
Phước Thiện lại có nhiệm vụ tối cao, tối trọng của
Ðức Chí Tôn: Giải khổ vừa xác vừa hồn, Ngài mượn mấy em nuôi nấng con cái của
Ngài, nuôi đói, nuôi khát, bảo trợ giúp đỡ cho kẻ nghèo nàn cô độc. Chừng nào
cả Cơ Quan khóc hại của loài người mình gánh vác hết thì mới đúng cái nhiệm vụ
của Chí Tôn phú thác, mấy em thử tự hỏi: Hồi nào đến giờ làm nên những gì chưa?
Chỉ lo bảo bọc anh em trong Ðạo mà thôi, có đâu ngó đến ngoài Ðời. Các vật loại
đều là con cái Chí Tôn, chớ không phải nội trong cửa Ðạo mà thôi, như thế có đủ
đâu? Cơ Quan giải khổ của Chí Tôn cậy nhờ mấy em lo, nuôi mấy em còn chưa rồi.
Từ ban sơ Qua chịu nhọc nhằn hẩm hút, ăn từ miếng tương rau hiệp cùng nhau gầy
dựng lập Phạm Môn, Qua chịu khó nhọc như mấy em cho đến ngày Cơ Quan Phước
Thiện ra thiệt tướng, đã tạo đủ lực lượng cho mấy em thi hành nhiệm vụ.
Tuy vân, lúc nọ mấy em có phương thế lắm mà mấy em
chỉ có tâm vị kỷ, trót năm năm, Qua đi vắng đến khi Qua trở về, Qua còn thấy có
kẻ đói không ai nuôi, rách rưới không ai bảo dưỡng, thất lạc nơi nầy nơi khác,
đoàn em Qua gởi gấm đã xiêu lạc, thủ phận Ðạo không được, nên phải tìm đôi bạn
sống theo Ðời, vì nếu ở thủ phận theo Ðạo thì cũng chẳng ai nuôi.
Lời Thuyết Ðạo của Ðức Hộ Pháp năm Bính Tuất- Ðinh
Hợi ( 1946-1947) Q1 Trang 21 / 122
Ngoài nữa, Qua còn nghe, trong lúc Qua đi đứa nào
có thế thì tự vi chủ, giành lấy cam một mình để toại hưởng vậy thôi. Hỏi vậy
mấy em có nghĩa hay không? Nếu Qua cho Tòa Ðạo minh tra thì không có một người
nào có thể đứng trước mặt Qua mà xưng là đại công được, cái đói khó cùng khổ
của các em nó tố cáo mấy em không còn chối cải được.
Qua nói thật, thể Ðạo chưa rồi thì có mong gì tạo
thành chơn tướng của Ðạo. Phải chi mấy em biết nghe lời, Qua mở cửa Bát Quái
Ðài cho mấy em làm bạn với các Ðấng Thiêng Liêng thì không đến nổi nầy.
Ngày nay cửa Ðạo được mở rộng đây cũng nhờ các
Thánh Tử Ðạo, nếu không thì vẫn còn đóng cửa. Nếu mấy em xem đáng, thì Qua mở
cửa cho các Ðấng Thiêng Liêng dìu đỡ mấy em.
Qua nói cho mấy em hay, Qua đang ngồi đây các Ðấng
ở Bát Quái Ðài còn đợi mấy em và chính Qua sẽ dìu dắt, kêu cửa Bát Quái Ðài cho
mấy em về làm bạn thân yêu của các Ðấng Thiêng Liêng. Nếu mấy em làm phận sự
không tròn và còn một mảy phàm tâm, thì cõi Hư Linh không đem mấy em vào bảng
công nghiệp vĩ đại bao giờ. Các em có làm trọng trách đối với con cái Chí Tôn,
thì Bát Quái Ðài mới hiệp một cùng mấy em vậy.
Mấy em chưa nắm được hoàn ngọc thì chưa đủ bảo toàn
Vạn Linh con cái của Chí Tôn.
Qua nói Qua sẽ mở cửa Bát Quái Ðài dìu dắt mấy em
mà mấy em có đến được cùng chăng là do tâm lý của mấy em đó.
Ấy vậy mấy em phải rán sức, định tâm lấy tinh thần
vi chủ nêu gương cho mấy em sau nầy đi theo. Nếu khối phàm còn trong óc mấy em
thì không bao giờ đoạt mục đích tối
cao, tối trọng được, phải có khối óc thiêng liêng
mới mong thay hình Thánh Thể Chí Tôn đối với con cái Ngài là quần linh.
Ðến đây Qua xin mở Hội, để trọn quyền Hội Thánh Phước Thiện đủ sáng suốt
làm việc và Bần Ðạo để trọn tín nhiệm về việc cầu phong, thăng thưởng một cách
chánh đáng và công bằng.
Lời Thuyết Ðạo của Ðức Hộ Pháp năm Bính Tuất- Ðinh Hợi ( 1946-1947) Q1
Trang 22 / 122
09 - Sự cầu nguyện.
Báo Ân Từ, đêm 24 tháng Chạp năm Bính Tuất (dl. 15-01-1947).
Sự cầu nguyện có cảm ứng với Chánh Trị Thiêng Liêng tức là các Ðấng Vô Hình
đều rõ biết mọi sự hành tàng nơi cõi
thế, triết lý về hình thể của con người, thọ tinh cha huyết mẹ sản xuất ra, thì có sự cảm giác thiêng
liêng đối cùng nhau rất mật thiết, cho nên một người con lúc đi làm ăn xa nhà,
khi cha mẹ có bịnh hoạn hay xảy ra điều gì tai biến, thì thân thể của người con
sẽ có điềm máy động; giựt thịt, máy mắt, hoặc là ứng mộng thấy rụng răng và các
điều khác..v.v... đó là về phần tinh khí hình thức của con người, còn về phần
linh tánh thì do nơi Ðức Chí Tôn ban cho nhứt điểm lương tâm, nó có cảm giác
cùng Chí Linh, cho nên khi ta hữu sự thì thành tâm cầu nguyện.
Nền Ðạo là một điều cảm ứng rất mầu nhiệm vô cùng,
có câu: "Nhơn tâm sanh nhứt niệm, Thiên địa tất giai tri". Từ đây chư Chức Sắc và Chức Việc
cùng Ðạo Hữu nam, nữ gắng thành tâm cầu nguyện cho nền Ðạo và cơ Ðời được an
ninh trật tự, kể từ ngày nay cho đến Tân Xuân đầu năm Ðinh Hợi thì sẽ thấy sự
tiến hóa phi thường và huyền linh mầu nhiệm, nếu toàn cả quốc dân mà đủ lòng
tín nhiệm với quyền hành Chánh Trị Thiêng Liêng, hiệp nhứt tâm cầu nguyện, thì
cơ loạn lạc sẽ trở nên an ninh trật tự, Ðời sẽ được cộng hòa chung hưởng mọi
điều hạnh phúc...
Lời Thuyết Ðạo của Ðức Hộ Pháp năm Bính Tuất- Ðinh
Hợi ( 1946-1947) Q1 Trang 23 / 122
10 - Lễ thượng cờ tại sân vận động & Ý nghĩa lá
cờ Quân Ðội Cao Ðài.
Ngày 8 tháng Giêng năm Ðinh Hợi (dl. 29-01-1947)
Ngày hôm nay lá cờ của Chi Thế ra mặt với đời cùng
cây Thư Hùng Kiếm của nó, y theo lời hứa của Ðức Chí Tôn lập cho nước Việt Nam
một nền Quốc Ðạo, cơ quan cứu sanh cho vạn loại.
Vì do sở định thiêng liêng và huyền diệu của Ngài
nên người đời dễ chi biết được. Quân Ðội Cao Ðài là một đội binh thiêng liêng
của Chí Tôn lập ra để bảo vệ cơ quan của Ngài.
Tuy với mắt thường thấy cơ quan binh bị như thế
nầy, chớ trong đó có đủ thiên binh, thần tướng vì mục đích bảo tồn thiên hạ mà
biến ra vậy. Cái sở vọng của Bần Ðạo là Quân Ðội Cao Ðài có một tinh thần kiểu
mẫu của những đội binh trên thế giới, có mục đích bảo toàn cho nhơn loại dựng
lại hòa bình. Quân Ðội Cao Ðài không phải vì quyền lợi riêng mà tàn sát làm
tiêu diệt thiên hạ.
Bần Ðạo có lời yếu thiết căn dặn toàn Quân Ðội nên
nhớ rằng: Lực lượng chúng ta dầu mạnh đến đâu cũng không thể chống lại lực
lượng tàn sát phá hoại của bom nguyên tử được.
Quân Ðội Cao Ðài phải hiểu cái mạnh của mình, mạnh
vì lòng nhơn nghĩa và tánh nghĩa hiệp cứu đời.
Vậy muốn dẹp được cái mạnh của bom nguyên tử thì
chúng ta chỉ dùng cái mạnh
của nhơn nghĩa và tính nghĩa hiệp mà thôi. Quân Ðội
Cao Ðài ra thật tướng ấy là ý Thầy
muốn cho Quân Ðội Cao Ðài làm kiểu mẫu những Quân
Ðội Quốc Tế mà thành hay
không do quyền năng của
Chí Tôn.
Vậy Quân Ðội Cao Ðài
phải giữ gìn thanh gươm nghĩa hiệp, lá cờ nhơn nghĩa cho vững vàng. Ðược
như thế thì quyền năng của Chí Tôn lúc nào cũng có trong Quân Ðội Cao Ðài vậy.
Giảng tiếp ý nghĩa tượng trưng của lá cờ Quân Ðội.
Lời Thuyết Ðạo của Ðức Hộ Pháp năm Bính Tuất- Ðinh
Hợi ( 1946-1947) Q1 Trang 24 / 122
Nền vàng cốt yếu thuộc về Quốc Gia huỳnh chủng, gốc
xanh da trời là lòng bao la quảng đại, trong có bánh xe lửa chín chia gọi là
pháp luân thường chuyển, lại có ý nghĩa là Cửu Thiên Khai Hóa. Trong lá cờ có ba màu: vàng, xanh, đỏ ấy là Tam
Giáo qui nguyên, Ngũ Chi phục nhứt, gọi là Bảo Sanh Kỳ (Lá cờ Bảo Sanh).
Quân Ðội Cao Ðài có trách nhiệm thiêng liêng, làm cho đời được an ninh trật
tự, đào tạo hạnh phúc cho nhơn sanh chung hưởng cốt yếu làm khuôn mẫu cho sự hòa bình, làm gương cả lân bang ngoại
quốc. Hiện thời các nước liệt cường dùng khí cụ tối tân, cho đến bom nguyên tử,
chỉ có tàn sát với nhau mà thôi, còn Quân Ðội Cao Ðài tức là một "Ðạo
Thiên Binh" được toàn thắng, chỉ lưỡi gươm kiếm hiệp khử tà tôn chánh,
diệt giả phò chơn, nương theo lá cờ bảo sanh mà thật hành nhơn nghĩa, thủ thắng
về mặt đạo đức tinh thần, chẳng làm gì trái với lương tâm. Tóm lại, Quân Ðội
Cao Ðài tức là một Cơ Quan Hòa Bình Thế Giái.
Lời Thuyết Ðạo của Ðức Hộ Pháp năm Bính Tuất- Ðinh
Hợi ( 1946-1947) Q1 Trang 25 / 122
11 - Lễ rước quả Càn Khôn.
Ðền Thánh, ngày 8 tháng Giêng năm Ðinh Hợi (dl.
29-01-1947).
Ngày nay đã dời quả Càn Khôn về Ðền Thánh, Ðức Chí
Tôn đã ngự nơi Ngai của Ngài, chúng ta nên mừng cho nhơn loại được ảnh hưởng
nơi Ðền Thánh nầy mà tiến hóa mãi lên.
Ðền Thánh kể từ đây không còn ai xem nó là vôi,
cát, xi măng nữa, mà là một khối đức tin của toàn con cái của Ðức Chí Tôn đã
tượng nên hình vậy.
Nhờ những bàn tay khéo léo của mấy em, mấy con, thợ
hồ, thợ mộc đã chịu đói rách khổ cực hơn 10 năm trường mới dày công đào tạo
nên. Từ đây một sắc dân nào có đủ đức tin nơi Chí Tôn là Chúa Tể vạn loại thì
dầu ở nơi phương trời nào, họ sẽ hướng về Ðền Thánh mà cầu nguyện hàng ngày
hàng giờ để mong hưởng phước lành của Ngài.
Ðền Thánh làm xong, nền Ðạo đã vững vàng, chúng ta
sẽ dẹp lần cái bạo tàn của đời để dìu dắt nhơn loại đi vào con đường gầy dựng lại
trật tự hòa bình cho cái năng lực nhơn nghĩa, chúng ta sẽ đem hạnh phúc lại cho
thiên hạ trong buổi chuyển thế nầy.
Chúng ta nên mừng vì nhơn loại sẽ nhờ khối đức tin
của chúng ta mà hưởng ân huệ.
Hộ Pháp