Lời Giới Thiệu của
hoangnamgiao.
“Cao Đài Dưới Chế Độ Ngô Đình
Diệm” là tên của một tập tài liệu do nhà biên khảo Huỳnh Tâm chấp bút và
do Hội Thánh Ngoại Giáo Cao Đài Âu Châu bảo trợ tinh thần và
yểm trợ phổ biến. Tài liệu do Giáo sư Gustave Meillon (thuộc Académie
des Sciences d’Outre-Mer) viết lời giới thiệu và được phát hành vào năm
1990. Biên khảo nầy chủ yếu xử dụng tài liệu của Ban Đạo Sử Cao Đài và Thư
viện Cao Đài tại Pháp (Quận 5, thủ đô Paris), ghi lại những mốc lịch
sử trong mối quan hệ giữa Đạo Cao Đài (thông qua Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ / Tây Ninh) và chính quyền Đệ nhất Cộng hòa từ ngày 12-1-1950 đến ngày
22-12-1963. Trong 14 năm đó, với hình thức trình bày "sử biên niên",
tác giả đã đặc biệt làm nổi bật tương quan giữa hai nhân vật Hộ Pháp Phạm Công
Tắc và Tổng thống Ngô Đình Diệm của nền Đệ nhất Cộng hòa.
Đạo Cao Đài được chính thức thành
lập thông qua Đại lễ Khai Đạo vào ngày 19-11-1926 tại chùa Thiền Lâm, tỉnh Tây
Ninh, với sự hình thành của Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Là một
tôn giáo xuất sinh từ Việt Nam, dung hợp giáo lý của Phật giáo, Đạo giáo, Nho
giáo, Hồi giáo và Cơ Đốc giáo, Đạo phát triển mạnh ở Nam Bộ, lan ra miền Trung,
miền Bắc, và qua cả Cao Miên, Thái Lan, và Lào. (Theo số liệu của cơ quan thống
kê Việt Nam cho đến năm 1973, Đạo Cao Đài có khoảng 7,6 triệu tín đồ trong 35
tỉnh/thành ở Việt Nam, và vào khoảng 42 nghìn tín đồ ở Hoa Kỳ, Châu Âu, Úc
châu. – Wikipedia]. Trôi nỗi giữa buổi giao thời của phong trào giải thực và
chiến tranh lạnh, đạo Cao Đài đã liên tục phải ứng phó với những thế lực ngoại
nhập (như Pháp, Nhật, Cộng sản quốc tế, Mỹ …) trên đất nước Việt Nam thông qua
những "con bài" ủy nhiệm của họ. Trong đó, "oan trái" nhất
là ứng phó với chính quyền Ngô Đình Diệm, khởi đi với tư cách "đồng minh"
nhưng kết thúc bi thảm vì bị chính quyền nầy "phản bội".
Đàn áp tôn giáo và tiêu diệt đảng
phái đối lập là hai chủ trương đặc thù của chế độ Diệm. Chúng ta đã có rất
nhiều tài liệu về chủ trương nầy đối với Phật giáo và Hòa Hảo, … nhưng về Cao
Đài thì chỉ có một số tài liệu về hai nhân vật nỗi bật nhất của Cao Đài là Phạm
Công Tắc và Trình Minh Thế mà thôi. Do vậy, tập biên niên sử "Cao Đài
Dưới Chế Độ Ngô Đình Diệm" nầy chính là tiếng nói chính thức và có
thẩm quyền của tín đồ Cao Đài về chính quyền Ngô Đình Diệm, sẽ giúp chúng ta
thêm dữ kiện trong việc phân định tội lỗi lịch sử của chế độ nầy một cách chính
xác và đầy đủ hơn.
Lời Giới Thiệu (của GS Gustave Meillon)
Giáo sư Gustave
Meillon (1915-1994)
Ðức tin Cao Ðài đã vượt qua những
trở lực để vươn mình vào ánh sáng dưới mặt Trời và những nguyên nhân ngăn cản
đã bỏ lại sau lưng trên dòng thời gian lịch sử, trang sử truyền giáo ấy bởi giá
trị hiến dâng của toàn đạo chịu nhọc nhằn khổ sở đổi lấy bi tráng nầy, đã chứng
minh ngọn nóng của lửa Thiên vẫn thắp sáng và nay là trường ca bất tận sống
cùng Nhân loại. Lịch sử đạo Cao Ðài với bao niềm tự tin đã dâng về đấng Ngôi
Cao từ những an lành trong cõi đời, đến khung cửa trí tuệ được mở rộng và đôi
bàn tay huyền diệu biết nâng niu đầm ấm cho nhau, biết kính trọng đức Cao Ðài
vẫn hằng sống ngự trị ở khắp mọi nơi, ngay cả lòng bao dung và vị tha trên
đường chân lý phục vụ Từ Bi Bác Ái Công Bình bước vào thời đại vĩnh cửu và cuốn
sách Cao Ðài Dưới Chế Ðộ Ngô Ðình Diệm của nhà biên khảo Huỳnh
Tâm là những thành tựu đắp xây công nghiệp Ðạo.
Ban Ðạo Sử Cao Ðài Âu Châu xét
rằng cuốn sách Cao Ðài Dưới Chế Ðộ Ngô Ðình Diệm của nhà biên
khảo Huỳnh Tâm xem như một vị trí công quả rất đáng nâng niu đã vượt ra thời
gian và sẽ được lưu truyền một công trình biên khảo sau 20 năm, nay Hiền Huynh
Huỳnh Tâm cập nhật hóa tất cả tài liệu của Ðạo đã lưu trữ tại
Hội Thánh Ngoại Giáo Cao Ðài Âu Châu và những dữ kiện được đối chiếu, hầu giúp
bạn đọc sau nầy có dịp nghiên cứu truyền giáo của đạo Cao Ðài dưới chế
độ kỳ thị Tín ngưỡng và đạo đã cống hiến sự nghiệp đức tin cho đất
nước Việt Nam vô điều kiện.
Cuốn sách Cao Ðài Dưới
Chế Ðộ Ngô Ðình Diệm của biên khảo Huỳnh Tâm đã trình bày và được mở
ra những trang sử tư liệu rõ ràng trước hoàn cảnh Ðạo nhận phải những phức tạp
trên cao điểm gay gắt từ năm 1954-1963 do chế độ Đệ nhứt Cộng hòa bày biện. Ðạo
vẫn truyền lưu và lịch sử vẫn phải ghi nhận như một chứng nhân của bao thời
trôi theo dòng đời từ Pháp thuộc đến đệ nhứt Cộng hòa, đệ nhị Công hòa rồi nay
Xã hội Chủ nghĩa và Ðạo vẫn truyền giáo trên những mặt đời thênh thang đến khắp
cùng vũ trụ và sự nghiệp truyền giáo Cao Ðài không ngừng nghĩ một giây khắc
nào, từ đây Nhân loại cất cao âm hưởng vinh ca Ðức Cao Ðài vào tần nhịp khắp
cùng vũ trụ.
Ðã bao chế độ trôi qua từng ấy
kiếp sống thay nhau nhường chỗ, nhưng Ðạo vẫn là Ðạo của muôn đời còn đó và lời
cầu Kinh, Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, Ðạo Luật, Thánh Ngôn vẫn là chất liệu
tinh anh nuôi sống cho tất cả tâm hồn tươi mát và cuốn sách Cao Ðài
Dưới Chế Ðộ Ngô Ðình Diệm cũng để ghi nhận một thời gay gắt, nói lên
tính năng động của cơ Ðạo thăng trầm theo vận sinh tồn của vũ trụ và trần thế
vẫn sàng sảy để tỏ rõ thân thế miên trường của đạo Cao Ðài, đạo Cao Ðài sẽ là
dòng đời lịch sử nương chuyển theo lưu truyền 700.000 mùa mai nở.
Paris 25/12/1990
Giáo Sư Gustave Meillon
*
* *
Lời Trình Dâng
Ánh sáng của Ðạo chỉ lối cho
chúng tôi đến với Ban Ðạo Sử Cao Ðài tọa lạc tại Paris 5, nơi
lưu trữ tư liệu Ðạo đầy đủ nhứt ở Âu Châu, bởi Quý Ngài Tiền Khai Ðại Ðạo Tam
Kỳ Phổ Ðộ Tòa Thánh Tây Ninh như Ðức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt "Lê
Văn Trung", Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Chánh Phối Sư Thượng Vinh Thanh "Trần
Quang Vinh" đã ủy thác cho Hội Thánh Ngoại Giáo Cao Ðài Âu Châu truyền
giáo vào Phương Tây và từ ấy đã có rất nhiều nhà biên khảo Tây phương đến BÐSCÐ
nghiên cứu, nhưng trên lãnh vực biên khảo và ghi nhận những khúc quanh lịch sử
của Ðạo có liên quan đến nền Ðệ nhứt Cộng Hòa do Tổng Thống Ngô Ðình Diệm trị
vì 9 năm vẫn chưa được khám phá.
Từ cơ duyên ấy trách nhiệm nầy
của người Tín đồ Cao Ðài và lương tâm người biên khảo xin dâng hiến phần công
quả nhỏ, làm gạch nối bạn đọc hầu tham khảo lịch sử của đạo Cao Ðài sau thời
Pháp thuộc và gửi đến Ban Ðạo Sử cuốn sách Cao Ðài Dưới Chế Ðộ Ngô Ðình
Diệm, nhằm bổ túc vào những dữ kiện truyền giáo đã trải qua một chế
độ kỳ thị Tôn giáo và những biến cố của Ðạo ở thời nầy.
Chúng tôi khởi đầu biên khảo cuốn
sách nầy bởi động lực kỳ thị Tôn giáo và thiếu vắng nhân bản của chế độ Ngô
Ðình Diệm, những chính sách nghiệt ngã của nhà Ngô dành cho đạo Cao Ðài
chồng chất chưa được lịch sử ghi nhận, nếu có chăng cũng là phần ghi chú
nhỏ trong hời hợt, quên lững và dị biệt, bởi người viết sử của thời nầy trống
vắng tinh thần chứng nhân và bỏ rơi giá trị Ðức tin, Nhân bản đến mức độ không
còn vì lòng trung thực .
Từ những yếu tố ấy chúng tôi
không ngần ngại lấy lương tri để biên khảo đề tài nầy và suy nghĩ những cưu
mang đích thực vì tất cả cho lẽ sống đức tin công bình, bởi những sự kiện hiển
nhiên của lịch sử và tự nó sống trên lưu truyền mà không cần đến mọi sáng tạo
theo cảm tính của hư cấu.
Nay chúng tôi đã hoàn tất biên
khảo Cao Ðài Dưới Chế Ðộ Ngô Ðình Diệm sớm hơn hai năm dự định
và chúng tôi xin cảm ơn Hội Thánh Ngoại Giáo Cao Ðài Âu Châu, Giáo
sư Gustave Meillon, Ban Ðạo Sử Cao Ðài, Thư Viện Cao Ðài tại Pháp đã bảo trợ
tinh thần, tư liệu tham khảo và vật chất cần thiết trong lúc biên khảo, với
lòng chân thành nầy chúng tôi xin cầu nguyện Chí Tôn và Phật Mẫu chan rưới phép
lành đến khắp cùng quý vị và bạn đọc xa gần như ý .
Mùa Ðông Paris
1990
Huỳnh Tâm
Cao Ðài
Dưới Chế Ðộ Ngô Ðình Diệm
28/10/1914 - Ðức Hộ Pháp ở buổi
xuân thời thường giao tiếp với Phan bội Châu, Phan châu Trinh, Lê văn Trung,
Cao quỳnh Cư, Cao hoài Sang, Thuần Ðức (Nguyễn trung Hậu), Trương hữu Ðức,
Lương khắc Ninh và Gibert Chiếu và Người liên giao toàn khối Văn học Nghệ thuật
Nam-Bắc đồng suy tư tìm sinh lực đổi mới cho quê hương, xứ sở.
Người thân thương mọi giới qua
tinh thần bao dung và văn học nghệ thuật được nhân sĩ toàn quốc kính trọng như
một hiền sĩ đương thời yêu nước.
Người theo năm tháng trăng trở nhìn
về phía trước viễn cảnh của đất nước Việt Nam vì độc lập và tự trị, những nhịp
cầu lương tâm ấy mở ra chân trời như tiếng gọi giao lưu thúc dục con dân đất
Việt đi tìm hạnh phúc cho toàn dân và phát triển xứ sở thịnh vượng, từ ấy những
suy tư ngồi lại như thời hàn vi của Ngô Ðình Diệm thường vấn an Ðức Hộ
Pháp Phạm Công Tắc, ngày Ngô Ðình Diệm lên ngôi Thủ Tướng lập ra chế độ kỳ thị
Tôn giáo.
26/7/1915 - Ðức Hộ Pháp Phạm Công
Tắc trong buổi đương thời Pháp thuộc vẫn như mọi công chức khác thuyên chuyển
đi làm việc tại Hưng Thạnh, Qui Nhơn Trung Kỳ. Ðất Qui Nhơn đoán nhận khí thế
sinh anh hùng nhập cuộc, cửa ngỏ giao lưu nhân sĩ miền Trung từ Bình Thuận cho
đến Nghệ An, những Chí sĩ miền Trung nung đúc cách mạng dân tộc đang vươn mình.
Người từ Nam ra Trung như lời kêu
gọi của Tổ Quốc, hợp thành tầng lớp thanh niên Tây học nhiệt huyết để tìm một
định chế cho tương lai xứ sở. Tại Qui Nhơn Ngài cùng những nhân sĩ miền Trung
đẩy mạnh khai tử nạn mù chữ, lập ra hội khuyến học bảo trợ xây dựng trường sở, mở
thêm lớp học đêm và ngày nâng cao dân trí, khuyến khích phát triển kinh tế mở
rộng cơ sở kinh doanh phục vụ dân sinh.
Ngài cùng đứng tên nhiều tờ báo
và thành lập Văn Ðàn Thi Xã tại Qui Nhơn, mượn môi trường văn
học nghệ thuật làm đất chiêu hiền đãi sĩ và tìm những đồng thuận để khai phóng
quê hương đổi mới, cùng dung hợp Ðông-Tây hòa nhứt để trở mình khỏi ách đô hộ
ngoại bang, tinh thần Nho sĩ Tây học bột phát tại miền Trung cao độ, như quy
hội về Trường Sơn, Triều đình nhà Nguyễn để mắt bất đồng, Chính quyền Pháp
thuộc ra tay đàn áp tàn bạo trí thức miền Trung yêu nước.
11/4/1928 - Ðức Hộ Pháp thế đời
hành Ðạo đem hết tất lòng và khả năng truyền giáo xây dựng nền đạo, tín đồ nhập
môn cầu đạo mỗi lúc mỗi đông, chính quyền thuộc địa Pháp xem Ngài như một trở
ngại lớn cho sự đô hộ tại Việt Nam. Lúc ấy Ngô Ðình Diệm cũng từ quan bỏ triều
đình nhà Nguyễn, để đi tìm giải pháp mới cho Việt Nam.
Hộ Pháp Phạm Công
Tắc và hai anh em ông Diệm và Nhu.
12/01/1950 - Ngô Ðình Diệm gia
nhập tổ chức chính trị Mặt Trận Quốc Gia do cựu Thủ Tướng Bác
sĩ Lê Văn Hoạch sáng lập và lãnh đạo, nguyên là một tín đồ Cao
Ðài, ở thời điểm nầy ông Ngô Ðình Diệm rất mật thiết với đạo Cao Ðài.
27/02/1950 - Sinh viên Ðỗ
Vạn Lý tín đồ đạo Cao Ðài du học tại Hoa Kỳ, đón tiếp và giới thiệu
Ngô Ðình Diệm với Quốc Hội Hoa Kỳ, Sinh viên Ðỗ Vạn Lý qui tụ được sinh viên
Việt Nam đang du học tại Hoa Kỳ và một số sinh viên Chính quốc tiếp xúc Ngô
Ðình Diệm.
Sau ấy Ngô Ðình Diệm được đức
Hồng y Spellman bảo trợ và đề nghị với Chính phủ Hoa Kỳ tổ chức đưa Ngô Ðình
Diệm về Việt Nam thay thế Bảo Ðại.
27/3/1950 - Ðức Hộ Pháp hội đàm
cùng với Hoàng đế Bảo Ðại tại Ðà Lạt về tình hình đất nước
đang chuyển mình vào thế không thuận cho tương lai Việt Nam .
Người có đề nghị cùng Hoàng đế
Bảo Ðại, thành lập một Chính phủ có nhiều thành phần và Ngô Ðình Diệm cũng được
đề nghị trong danh sách ấy.
29/03/1950 - Quốc Trưởng Bảo Ðại
ủy quyền cho Ðức Hộ Pháp đến Nam Vang Hội nghị an ninh Việt-Miên.
Thông cáo chung: Dành mọi đặc
quyền và ưu đãi cộng đồng Việt kiều như những cộng đồng kiều dân khác đang sinh
sống trên đất nước Cao Miên. Hai dân tộc Việt-Miên đồng quyền Tự do Tín ngưỡng
không phân biệt Tôn giáo, ổn định biên giới và bang giao mật thiết.
Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc cũng
nhân dịp nầy ngõ lời giới thiệu với Hoàng đế Cao Miên về thân thế của Ngô Ðình
Diệm, Hoàng đế Cao Miên rất hoan hỉ cảm tình Ngô Ðình Diệm từ ấy.
18/10/1950 - Ðức Hộ Pháp ra miền
Bắc hội đàm cùng các nhà lãnh đạo tinh thần Tôn giáo tại Hà Nội như: Ðức Giám
mục Lê Hữu Từ, Thượng Tọa Thích Tâm Châu và các
đảng phái chính trị, để tìm giải pháp cho Việt Nam. Tại Thánh thất Hoàn mã Hà
Nội, Ðức Hộ Pháp ban phép lành dạy toàn đạo và Chức sắc lấy tình thương yêu,
hòa thuận để vượt qua những biến cố thử thách và đất nước sẽ biến đổi vào những
năm kế tiếp, tín đồ Cao Ðài Hà Nội ghi nhớ lời vàng thước ngọc không quên lời
Tiên tri của Người.
Cũng ở dịp nầy Ðức Hộ Pháp Phạm
Công Tắc hội đàm với Linh mục Lê Hữu Từ và Người để lời khen ngợi Ngô Ðình
Diệm.
1954 Linh mục Lê Hữu Từ vào Nam
cũng kể lại cho Ngô Ðình Diệm biết về những mẫu chuyện trao đổi với Ðức Hộ Pháp
Phạm Công Tắc tại Hà Nội và Linh mục có lời khuyên Ngô Ðình Diệm không nên phụ
Người (Ðức Hộ Pháp) .
Sau nầy Ngô Ðình Diệm quên lời
dạy bảo của Linh mục Lê Hữu Từ “Không nên phụ lòng Người”, nhưng Ngô
Ðình Diệm đổi lòng thành ra “Nên phụ lòng Người”.
27/05/1953 - Tại Sài Gòn mở
ra Hội nghị Ðoàn kết Ðộc lập Hòa bình cho Việt Nam, do Ðại Ðạo Tam
Kỳ Phổ Ðộ Tòa Thánh Tây Ninh tích cực tổ chức để tìm những giải pháp thiết thực
mưu cầu hạnh phúc toàn dân và phổ biến lập trường của nhân dân Việt Nam vì tự
do, độc lập, để chuẩn bị vận động cho Thủ tướng Ngô Ðình Diệm về nước
20/6/1953 - Ngô Ðình Diệm đến
Belgique (Bỉ quốc) cư ngụ tại xứ đạo Mons, để chuẩn bị yết kiến Quốc Trưởng Bảo
Ðại, thời điểm nầy Ngô Ðình Diệm tranh thủ tìm mọi hậu thuẫn của các chính giới
trong và ngoài nước tại Âu châu.
Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc kêu
gọi Hội Thánh Ngoại Giáo Cao Ðài Âu Châu tạo mọi điều kiện để
Ngô Ðình Diệm tiếp xúc với Quốc Hội và Chính phủ Pháp quốc.
10-27/10/1953 - Ðức Hộ Pháp đại
diện Ðức Quốc Trưởng Bảo Ðại triệu tập hội nghị toàn quốc tại Sài Gòn nhằm tiếp
ứng tình hình mới Việt Nam hậu Pháp thuộc, có các Tôn giáo và đảng phái chính
trị đồng thuận xây dựng một Việt Nam tương lai như: Cao Ðài, Hòa Hảo, Ðại Việt,
Việt Quốc và có các ông Ngô Ðình Nhu, Nguyễn Xuân Chữ v.v…
28/5/1954 - Vào lúc 18 giờ 30 tại
điện Elysées, Bộ Trưởng Ngoại giao ông Mecheri tiếp đón phái đoàn Cao Ðài
dưới sự hướng dẫn của Ðức Hộ Pháp trong nghi lễ Quốc khách, thảm nhung danh dự
hướng vào sảnh đường điện Elysées. Tổng Thống Pháp René Coty và Thủ Tướng Laniel
bắt tay chào mừng Ðức Hộ Pháp và đoàn tùy tùng.
Hội nghị ra thông cáo chung đồng
thuận tìm một giải pháp Việt Nam tự trị.
29/5/1954 - Vào lúc 17 giờ tại
Hôtel Georges V Paris, Ðức Hộ Pháp mở cuộc họp báo dành riêng cho báo giới và
ký giả phỏng vấn về tôn giáo Cao Ðài và tình hình Việt Nam hiện tại cũng như
trong tương lai, sau cùng Ngài dùng thời gian đi thăm gia đình và viếng mộ phần
đại văn hào Victor Hugo “tức Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn” tại điện Panthéon và yết
kiến Quốc Trưởng Bảo Ðại.
5/6/1954 - Toàn đạo tổ chức ngày
sinh nhựt Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc hưởng thọ 60 tuổi “Lục tuần” tại Hộ Pháp
Ðường. Có trên 60 Ðại sứ khắp nơi trên thế giới đến Tòa Thánh Tây Ninh để chúc
thọ Ðức Hộ Pháp và chụp hình chung lưu niệm.
Nhân ngày lễ Lục tuần Ðức Hộ Pháp
gửi đến các Ðại sứ một thông điệp kêu gọi “Nhân loại hãy hướng về thế giới
vì Công bình, hạnh phúc và hổ trợ cho Việt Nam sớm được độc lập”. Lời kêu
gọi của Người được các Ðại sứ tiếp nhận và hưởng ứng .
Cùng ngày Thần Học Quốc
Tế và Thông Thiên Học Quốc Tế đồng tiếp nhận đức tin
Cao Ðài được vào chương trình truyền thông Quốc Tế và Tòa Thánh nhận điện văn
chúc thọ của Ngô Ðình Diệm gửi đến Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc .
10/6/1954 - Ðức Hộ Pháp đến Ðiện
Thorène yết kiến cùng Quốc Trưởng Bảo Ðại và có sự tham dự quý ông Ngô Ðình
Diệm, Phó Thủ Tướng Nguyễn Trung Vinh, Tổng Trưởng Tài Chánh Dương
Tất Tài, Trung Tướng Nguyễn Văn Xuân, Dương Hồng Chương và Ðỗ
Hùng…
15/6/1954 - Ðức Hộ Pháp Phạm Công
Tắc hội kiến cùng quốc Trưởng Bảo Ðại và Ngô Ðình Diệm tại điện Thorène, về
những sự kiện đất nước chuyển biến trong hội nghị Genève.
Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc Cố vấn
Quốc Trưởng Bảo Ðại, đề nghị trao quyền cho Ngô Ðình Diệm làm Thủ tướng và được
Quốc Trưởng Bảo Ðại chấp thuận để cho Ngô Ðình Diệm về nước toàn quyền thành
lập chính phủ.
Quốc Trưởng Bảo Ðại khuyên nhủ
Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm rằng: “Ông hãy hợp nhứt các giáo phái vào cộng đồng
Quốc gia, thống nhứt phần đất còn lại của chúng ta”.
Và Quốc Trưởng Bảo Ðại ký cho Ngô
Ðình Diệm ngân phiếu Một triệu đồng bạc để tổ chức những cuộc biểu tình tự
phát, Ngô Ðình Diệm cằm chi phiếu cảm ơn và tâu: “Bẩm Hoàng Thượng nếu khi
nào Ngài thấy tôi có lỗi, Ngài chỉ nói một lời là tôi từ chức ngay”.
Và Quốc Trưởng Bảo Ðại đề nghị
với Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc: “Nhờ Ngài Hộ Pháp Phạm Công Tắc về Việt Nam
huy động Tín đồ Cao Ðài và toàn dân đón tiếp ông Ngô Ðình Diệm”.
26/06/1954 - Ngô Ðình Diệm về
nước để chấp chánh quyền Thủ Tướng, sau nầy là nền Ðệ nhứt Cộng Hòa Việt Nam
theo thể thức dân cử phổ thông đầu phiếu, cùng ngày Ðức Hộ Pháp Phạm Công
Tắc và phái đoàn Cao Ðài thay mặt Quốc Trưởng Bảo Ðại chuẩn bị đến Genève tham
dự Hội nghị Quốc tế chia hai miền Nam-Bắc đất nước Việt Nam thành hai khối Cộng
sản và Quốc gia.
13/7/1954 - Thủ Tướng Pháp Quốc
ông Laniel tiếp Ðức Hộ Pháp tại điện Matignon bởi tình thân hữu và Thủ Tướng
Pháp rất cảm kích đức tin Cao Ðài từng soi sáng những tấm lòng hy sinh phụng sự
nhân loại.
Trong buổi tiếp kiến với Thủ
Tướng Laniel, đức Hộ Pháp thừa dịp giới thiệu Ngô Ðình Diệm hầu gây cảm tình
với Chính phủ Pháp, nhằm mở đường thuận lợi cho sự bang giao sau nầy của Chính
phủ Ngô Ðình Diệm.
15/7/1954 - Ðức Hộ Pháp cùng phái
đoàn Cao Ðài đến Thụy Sĩ, do Cựu Hoàng Bảo Ðại ủy quyền dự Hội nghị Genève. Tại
Hôtel Régina là nơi làm việc của phái đoàn Cao Ðài và văn phòng Ðức Hộ Pháp mở
cửa trên 24/24 giờ hầu tiếp đón các phái đoàn cũng như những dữ kiện lịch sử
Việt Nam phát ra từ Genève, tại đây phái đoàn Cao Ðài có nhiệm vụ dung hòa và
kêu gọi đôi bên VNDCCH và VNCH hãy hy sinh quyền lợi phe phái để ngồi lại tự
mình giải quyết cho dân tộc hòa bình, tránh cảnh chiến tranh chia đôi Dân tộc,
đức Hộ Pháp không muốn lịch sử dân tộc Việt Nam lập lại lần thứ hai như
Trịnh-Nguyễn .
Phái đoàn Cao Ðài đứng trước Liên
Hiệp Quốc làm chứng nhân lịch sử Việt Nam. Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc thay mặt
toàn dân Việt Nam làm quan sát viên hội nghị Genève về Việt Nam, Người kêu gọi
hội nghị hãy vì Tự do, Hòa Bình và hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam.
Ông Phạm văn Ðồng trưởng phái đoàn VNDCCH, Bác sĩ Trần Văn Ðỗ trưởng phái đoàn VNCH, cả hai không đồng thuận để ngồi lại tự giải quyết lợi ích chung vì Việt Nam . Vì lẽ bất đồng ý thức hệ đưa đất nước phải chia đôi, vĩ tuyến 17 làm phân ranh hai miền Nam-Bắc.
Ông Phạm văn Ðồng trưởng phái đoàn VNDCCH, Bác sĩ Trần Văn Ðỗ trưởng phái đoàn VNCH, cả hai không đồng thuận để ngồi lại tự giải quyết lợi ích chung vì Việt Nam . Vì lẽ bất đồng ý thức hệ đưa đất nước phải chia đôi, vĩ tuyến 17 làm phân ranh hai miền Nam-Bắc.
Phái đoàn đạo Cao Ðài và phái
đoàn VNCH cùng một vị trí, đối diện với phái đoàn VNDCCH, trong Hội nghị quốc
tế Genève đình chiến Việt Nam. Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc thay mặt Quốc Trưởng
Bảo Ðại và toàn dân tuyên bố tại Liên Hiệp Quốc: “Nếu Việt Minh và Pháp tuân
lịnh ngoại bang chia nước Việt Nam làm hai mà không có sự chấp thuận của toàn
dân Việt Nam thì Bần đạo chống cả hai hết”.
Lời tuyên bố cương quyết vì
thương yêu dân tộc Việt Nam vô bờ bến của Ðức Hộ Pháp, nay vẫn còn lưu trữ tại
thư viện Liên Hiệp Quốc Genève .
18/7/1954 - Ðức Hộ Pháp mở cuộc
họp báo tại Genève vào lúc 17 giờ với sự hiện diện cả hai phái đoàn VNDCCH,
VNCH, các Ðại sứ tại Liên Hiệp Quốc và phóng viên ký giả quốc tế . Người kêu
gọi thế giới tạo mọi điều kiện cho Việt Nam sớm được Ðộc lập .
20/7/1954 - Genève, Hiệp định
đình chiến Việt Nam chính thức chia đôi từ vĩ tuyến 17 thành hai vùng ảnh
hưởng, miền Bắc do khối Cộng sản Nga cầm quyền, miền Nam do khối tư bản Mỹ chi
phối. Genève đánh dấu một khúc quanh lịch sử Dân tộc Việt Nam chia đôi đất
nước, phái đoàn Cao Ðài làm hết sức mình để kết hợp và dung hòa nhưng sự cố
chấp và chia để trị đã đè nặng quê hương khắc khoải bởi hai khối quyền lợi vị
kỷ, họ từ chối quyền sống làm người và tinh thần dân tộc Việt Nam Lạc Hồng trên
5000 năm văn hiến.
Biến cố Genève, Ðức Hộ Pháp Phạm
công Tắc và toàn đạo Cao Ðài để hết tất lòng cho sự độc lập Việt Nam. Lời Tiên
tri của Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc tại Genève như sau: “Hôm nay là ngày khởi
đầu cho nội chiến, rồi đây dân tộc Việt Nam sẽ nghèo khó nhứt trên thế giới bởi
không có thời gian để phát triển đất nước, lẽ ấy chúng ta là con dân đạo phải hy
sinh vì dân tộc mà không hổ với Tổ Tiên”.
Ðình chiến hai miền Nam-Bắc Việt
Nam được ấn ký chưa ráo mực bắt đầu trầm mình vào nội chiến Huynh-đệ tương tàn
chồng chất triền miên .
10/08/1954 - Tướng Hoa Kỳ Lansdale cố
vấn cho Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm, đến núi Bà Ðen thuyết phục tướng Trịnh
Minh Thế quân đội Cao Ðài Liên Minh và hối lộ các cấp
chỉ huy lực lượng võ trang quân đội Cao Ðài, cùng lúc tướng Lansdale sử
dụng tiền bạc mua được tướng Nguyễn Thành Phương và Nguyễn Văn Thành về
hợp tác với Ngô Ðình Diệm.
19/08/1954 - Ngô Ðình Diệm cũng
cố địa vị ra tay tiêu trừ các thế lực tạm chung sống và mượn hoàn cảnh đương
thời để cho kế sách âm mưu chiếm đoạt lòng yêu nước của toàn dân và khai
trừ những nhân sĩ yêu nước đã từng chia sẻ và tạo ra Ngô Ðình Diệm.
12/10/1954 - Ðức Hộ Pháp đến
Tokyo (Nhật) rước di hài của Ðức Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể (qui
danh Nguyễn Phúc Vân, đích tôn của Ðông Cung Cảnh) về nước ngày 20/10/1954,
theo như di ngôn của Ðức Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể ủy nhiệm cho Ðức Hộ Pháp Phạm
công Tắc và toàn đạo Cao Ðài đem di hài về Tòa Thánh Tây Ninh hương khói.
Chính phủ Thủ Tướng Ngô Ðình
Diệm, Tín đồ Cao Ðài và hai người con của đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể, ra sân bay
Tân Sơn Nhứt đón rước di hài theo nghi lễ Hoàng Gia.
Di hài đến Sài Gòn được quàn tại
đền thờ Ðức Tổ Hùng Vương 3 ngày để đồng bào, nhân sĩ, những Ðại sứ ngoại giao
đoàn và Chính phủ đến tưởng niệm vị anh hùng vong thân, sau 3 ngày dưới sự
hướng dẫn của Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc và Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm cùng tháp
tùng di linh hài Ðức Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể về Tổ đình Tòa Thánh Tây Ninh thờ
phụng tại Báo Quốc Từ .
29/01/1955 – 08/02/1955 - Lễ
Khánh Thành Tòa Thánh Tây Ninh.
Chương trình khánh thành Tòa
Thánh trong 12 ngày có trên 950.000 Tín Ðồ về dự lễ và trên 120.000 quan khách
cùng tham dự, Nội ô Tòa Thánh cũng như 18 phận đạo ngày đêm tấp nập, chưa kể
tín hữu và người dân Tây Ninh tham dự, 21 trai trường đón tiếp từ 6 giờ sáng,
cứ 15 phút có một hiệp trên 1.500 người ăn cơm cho đến 20 giờ đêm mới chấm dứt
.
31/01/1955 - Tại Ðại Ðồng Xã
trước Ðền Thánh là nơi cử hành chánh lễ Khánh thành Ðền Thánh, bề ngang 10
thước, bề dài 40 thước, hai khán đài nam và nữ, mỗi khán đài chứa trên 1.000
người, hết chỗ chen chân. Phía trước khán đài danh dự, ngoài Ðức Hộ Pháp còn có
Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm, Ðại sứ các Quốc gia và Ðại diện của các Tôn Giáo, ở
phía dưới là khán đài của Chức Sắc Cửu Trùng Ðài, Hiệp Thiên Ðài, Hội Thánh
Phước Thiện Tòa Thánh Tây Ninh, Chức sắc các Chi Phái, Chức sắc các Tông Ðạo,
Hội Thánh Ngoại Giáo về tham dự cùng các Bộ phủ Chính quyền nhà nước cũng như
các chính giới trong và ngoài nước Việt Nam, ngoài ra còn có một khán đài dành
riêng cho các cơ quan báo chí khắp nơi loan tin và tường thuật, Ðạo hữu đứng
hai bên trong và ngoài rừng thiên nhiên, cũng như các cửa lộ dẫn vào Tòa Thánh.
Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đọc
diễn văn: “Ðến lúc Bần Ðạo cần cho Thế giới hiểu rõ uy tín của đạo Cao Ðài
cả về phẩm lẫn lượng đặc điểm là cho các nước hiểu quyền năng Ðức Chí Tôn trong
kỳ hỗn loạn nầy, để mong rằng nhơn-loại nên hướng về hạnh phúc chung bớt sự
tương tàn, tương sát lẫn nhau !”.
Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm đọc diển
văn . “Ðức tin Việt Nam sẽ đến với nhân loại như một hoài bảo canh tân xã
hội hoàn toàn mới”. “Hôm nay là ngày khánh thành Tòa Thánh để đánh dấu
nền tảng Tôn giáo của Việt Nam, tôi xin chúc mừng Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Tòa
Thánh Tây Ninh đã cho tôi một vinh dự nầy và tôi xin kêu gọi toàn đạo hỗ trợ
cho Chính phủ để kiến tạo đất nước, như trước đây toàn đạo đã từng hỗ trợ cho
Chính phủ”.
07/02/1955 - vào lúc 0 giờ
Ðức Hộ Pháp cắt dây băng trấn thần Ðền Thánh, toàn đạo khởi hành Ðại lễ vinh
danh Ðức Chí Tôn cùng Tam giáo.
Bãi đàn Ðức Hộ Pháp tuyên bố cùng
với Ngô Ðình Diệm: “Trong lúc hỗn loạn nầy, số phận hẩm hiu nhứt là các dân
tộc nhược tiểu. Thế giới hiện nay có hai chủ trương: Một bên lấy võ-lực làm căn
bản, một bên đem tiền tài để huy động khắp nơi.
Nhưng ta không sợ. Bằng
võ-lực: Ta có thể hợp sức nhiều nước để chống lại. Bằng tiền-tài: Ta có thể
không mắc mưu, nếu ta không ham lợi. Nói tóm lại chỉ có thống nhứt tinh thần
mới có thể thoát khỏi tai-họa hữu hình, mà chỉ có thống nhứt tôn giáo mới thống
nhứt nổi tinh thần. Vậy con cái Ðức Chí Tôn phải đồng tâm hiệp lực để Ðạo được
mau tiến triển để làm tròn phận sự một công dân của một quốc gia, một hiếu tử
của Ðức Cha-Lành”.
11/02/1955 - Tướng Trịnh Minh Thế
phong cấp quân hàm cho Hồ Ðức Trung và Nguyễn Văn Ðờn lên Thiếu tá chuẩn bị về
Sài Gòn đầu hàng Ngô Ðình Diệm và Tướng Trịnh Minh Thế đến Trí Huệ Cung xin ý
kiến Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc cùng mời Người về Sài Gòn để dự lễ Quốc Gia Hóa
Quân Ðội Cao Ðài. Người tiên tri trước rằng: “Qua không thể nào ngồi chứng
kiến cái chết của các con, tùy ý các con định liệu”.
13/02/1955 - Thủ Tướng Ngô Ðình
Diệm đọc diển văn khai mạc lễ Quốc gia hóa quân đội Cao Ðài Liên Minh (CĐLM)
chính thức sát nhập vào Quân đội Quốc gia Việt Nam. Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm gắn
quân hàm Thiếu Tướng cho Trịnh Minh Thế.
Trong buổi lễ giải tán Quân Đội Cao Đài, Đức Hộ Pháp Phạm
Công Tắc âu lo cho đàn con mất tổ và Ngài phán rằng: "Vô Phương hết Thế không Thành".
Và Ngài xác quyết rằng: "Trịnh Minh
Thế không thọ hơn 90 ngày. Nếu thọ hơn một ngày thì đôi bàn tay của Bàn
Đạo xoè ra cho phép con Thế vanh đứt mười ngón tay của Bần Đạo".
Lời Tiên tri ấy đã đến ngày thứ 78. Quả thực ứng nghiệm Trịnh Minh Thế qua đời!
– Trung Tướng Nguyễn
thành Phương bị sa thải ra khỏi quân đội Quốc gia, vì kế hoạch bội
nghĩa của Ngô Ðình Diệm đã kết thúc qua hồ sơ bản án “Trung tướng Nguyễn
Thành Phương tàng trữ xe hơi”, từ ấy Diệm-Phương thành hai kẻ bội phản
không cùng một chiến tuyến để đối diện với Cộng sản, Nguyễn Thành Phương tự đầu
quân vào Bình Xuyên để đối kháng với Ngô Ðình Diệm .
– Thiếu Tướng Trình Minh
Thế bị tử trận oan uổng và bí mật tại dạ cầu Tân Thuận Sài gòn, bởi
viên đạn đi vào từ tai trái xuyên qua mắt phải.
– Trung Tướng Nguyễn văn Thành bị
cách chức đày đi Côn Ðảo.
Triều đại nhà Ngô không chấp nhận
ngồi chung ba tướng Phương, Thế, Thành.
Tướng Trịnh Minh Thế
(1922-1955), Thiếu tướng trong Quân dội Cao Đài, "bị tử trận oan uổng
và bí mật" tại cầu Tân Thuận, Sài Gòn.
03/05/1955 - Ngô Ðình
Diệm ra tay lấy trước mạng Thiếu Tướng Trịnh Minh Thế tại dạ cầu Tân
Thuận, sau 78 ngày trên cầu vai quân hàm Thiếu tướng, hưởng dương 33 tuổi. Truy
phong Trung tướng, xác quàn tại Tòa Ðô Chính Sài Gòn và được tổ chức quốc táng,
Ðại tá Văn Thành Cao đọc điếu văn với hàng nước mắt thương tiếc cho người vắng
số, chính trị muôn mặt kẻ đọc điếu văn chính là danh thủ, chỉ một viên đạn
trúng tai trái xuyên vô mắt phải, vào lúc 03 giờ 15 phút chiều, Ngô Ðình Diệm
thăng thưởng chiến công quân hàm Ðại tá cho danh thủ Văn Thành Cao tại dinh Ðộc
Lập.
Trong những ngày tang chế, linh
cửu của Thiếu tướng Trịnh Minh Thế còn quàn tại Tòa Ðô Chính, lời phu nhân cố
Thiếu tướng Trịnh Minh Thế, bà Nguyễn Thị Kim đau khổ ôm xác chồng trong tuyệt
vọng thống thiết và tiết lộ: “Phải chi ông nhà tôi đừng nghe lời xúi biểu
của ông Nhị Lang thì hôm nay đâu có xẩy ra nông nỗi nầy”,
và “nếu như ông nhà tôi vâng lời theo Thánh ý của Ðức Hộ Pháp thì hẳn không
vắng số như hôm nay” .
Sau cái chết của Thiếu Tướng
Trịnh Minh Thế, Ngô Ðình Diệm chỉ thị cho Trần Kim Tuyến khai
thác hồ sơ và những hành vi hai mặt bội phản CÐLM của Nhị Lang như
sau:
“1/ Nhị Lang tự ý thay mặt Thiếu
tướng Trịnh Minh Thế đến Vũng Tàu họp mật với Bảy Viễn.
2/ Nhị Lang tự ý thay mặt Thiếu
tướng Trịnh Minh Thế xuống Cái Vồn họp mật với Năm Lửa.
3/ Nhị Lang tự ý họp mật với Lâm
Thành Nguyên ở Sài Gòn “tự Ba Cụt”.
4/ Nhị Lang tự ý đại diện Thiếu
tướng Trịnh Minh Thế ký vào “Tối hậu thư” buộc Ngô Ðình Diệm phải thi hành theo
những điều kiện của C.D.L.M.”
Kế sĩ gian phi tạo ra 04 dữ kiện
trên để cho mối đa nghi từ Ngô Ðình Nhu ra tay ám sát Trung tướng Trịnh
Minh Thế và Ngô Ðình Diệm, chưa kịp vung lưới bắt Nhị Lang quân sư phù
thủy phản bội CDLM đã tẩu thoát đến Cao Miên ngày 18/02/1956, tiếp tục ăn cơm
đạo Cao Ðài và sau đó bội phản đạo Cao Ðài lần cuối vào năm 1975.
28/04/1955 - Ngô Ðình Diệm thành
lập Hội Ðồng Nhân Dân Cách Mạng truất phế Bảo Ðại tại Tòa Ðô
Chính Sài Gòn. Mượn tay các Tướng lãnh Cao Ðài truất phế Bảo Ðại như Trung
Tướng Nguyễn Thành Phương, Trịnh Minh Thế, Hồ Hán Sơn và các
tướng Nguyễn Văn Vỹ, Lê Văn Tỵ. Tướng Nguyễn
Văn Vỹ tuyên bố trên đài phát thanh :
“1/ Tôi nhất định không nhìn nhận
quyền hành của Bảo Ðại, bởi vì tôi nhận thấy phong trào cách mạng là đúng với
chính nghĩa.
2/ Tôi hoàn toàn chấp nhận những
nghị quyết Đại hội Nhân dân Cách mạng đã biểu quyết trong phiên nhóm hôm
29/04/1955. Tuyên bố truất phế Bảo Ðại và toàn chế độ thực dân Pháp.
3/ Tôi không nhận đặc ân của Bảo
Ðại ban bố cho tôi.
4/ Tôi tình nguyện và nhất định ở
lại dinh Ðộc Lập và tôi sẵn sàng hiến mình cho chính phủ lâm thời thành lập nay
mai và cho Ủy Ban Cách Mạng sử dụng.
Bức thư nầy do chính tay tôi viết
đúng theo tư tưởng của tôi trước Tổ quốc, tôi yêu cầu được phổ biến bằng báo
chí và đài phát thanh.
Ký tên
Nguyễn Văn Vỹ”
Kế hoạch của Ngô Ðình Diệm mượn
tay các tướng lãnh, tiểu trừ ảnh hưởng Bảo Ðại trong chính quyền mới, Ngô Ðình
Diệm đứng ngoài Hội Ðồng Truất phế Bảo Ðại để không mang tiếng bội nghĩa
17/05/1955 - Sau khi Ngô Ðình
Diệm tiểu trừ được Tướng Nguyễn Văn Hinh và quân đội Bình Xuyên, miền Nam không
còn những đối đầu quân sự ngôi Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm được ổn định và ông
chuẩn bị chính sách khủng bố đảng phái và các Tôn giáo như: Cao Ðài, Phật Giáo,
Hòa Hảo và nhân sĩ yêu nước. Khởi đầu cho chính sách, Ngô Ðình Nhu hạ
thủ Ðại Tá Hồ Hán Sơn tại Tây Ninh .
20/08/1955 - Ngô Ðình Diệm lập
mưu đồ cho Nguyễn Văn Thành lật đổ quyền Tổng Tư Lệnh quân đội Cao Ðài của Trần
Quang Vinh.
Nguyễn Văn Thành nắm quyền Tổng
Tư Lệnh liền tổ chức phản loạn và thanh trừng nội bộ.
Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc thu quyền của Nguyễn Văn Thành và giao cho Ðại Tá Lê Văn Tất .
Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc thu quyền của Nguyễn Văn Thành và giao cho Ðại Tá Lê Văn Tất .
Nguyễn Thành Phương mượn quân đội
Liên Minh của Trịnh Minh Thế mưu gian ác khủng bố ám sát Ðại tá Lê Văn Tất,
buộc nhường quyền cho Nguyễn Thành Phương, bất chấp tuân lịnh của Hội Thánh .
Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc nhận
định tình thế quân đội Cao Ðài không làm tròn sứ mạng vì Ðạo-Ðời đúng nghĩa-vụ
và danh dự, để Ngô Ðình Diệm giựt dây nội bộ chia rẽ, Ðức Hộ Pháp
không hài lòng những việc làm của Trung tướng Nguyễn Thành Phương, Thiếu Tướng
Trịnh Minh Thế và Tướng Nguyễn Văn Thành bởi tự ý về Sài Gòn cộng tác với Ngô
Ðình Diệm để rồi rơi vào kế sách phản bội, Ngô Ðình Diệm chiến thắng rực rỡ kế
sách Quốc gia hóa quân đội Cao Ðài, các Tướng lãnh Cao Ðài Liên Minh thất
trận chính trị và tan vỡ tại Sài Gòn.
Ngô Ðình Diệm mượn danh thủ Ðại
tá Văn Thành Cao và Ðại úy Quy điều động các đơn vị Cao Ðài Liên Minh về
Tây Ninh khủng bố, phong tỏa Tòa Thánh, bắt giam Chức sắc Thiên Phong
và Tín đồ cùng bao vây Hộ Pháp Ðường, để chặn lối đối đầu của những tiểu
đoàn Cao Ðài không chấp nhận Quốc gia hóa và thị uy như một thông cáo nhằm
thách đố đạo Cao Ðài .
02/09/1955 - Thủ Tướng Ngô Ðình
Diệm chỉ thị kế hoạch của Ngô Ðình Nhu cho Tổng Tư Lệnh Quân Ðội Cao Ðài Nguyễn
Thành Phương ra sức tăng cường, bao vây siết chặt Nội ô Tòa Thánh Tây Ninh và
thành lập Ủy Ban Thanh Trừng, bắt Chức sắc, Tín đồ giam cầm
và bắt tín đồ Nữ phái câu lưu tra tấn ép buộc khai theo hồ sơ ngụy tạo
nội dung nhiều điều khiếm nhã cho Ðức Hộ Pháp, bao vây Hộ Pháp Ðường cầm tù
lỏng Ðức Hộ Pháp cho đến 16/2/1956.
Bởi Ngô Ðình Diệm tối mắt nghe
lời sàm tấu của những bầy tôi nịnh thần, sợ đạo Cao Ðài có nhiều ảnh hưởng
trong xã hội, với tính phán đoán cực kỳ đa nghi của Ngô Ðình Nhu, nhà
Ngô đã quên lúc thăng trầm đời áo vải để quyết định bắt Ðức Hộ Pháp Phạm Công
Tắc vì Người là chứng nhân hiểu rõ Ngô Ðình Diệm đã một thời van xin quì lạy
trợ lực vật chất và tinh thần để về cầm quyền Việt Nam, nay Ngô Ðình Diệm
trở giáo phất cờ bao vây Tòa Thánh, bắt Chức sắc, Tín đồ Cao Ðài cầm tù tra
khảo không luật pháp và cấm phổ truyền đức tin Cao Ðài, sự kiện nầy còn gọi là
(“biến cố Ngô Ðình Diệm”).
Ngài Linh Mục Cao văn Luận viết
rằng: “Ðạo Cao Ðài hỗ trợ cho Ngô đình Diệm về nước lập chánh phủ và đạo Cao
Ðài đã nuôi Ngô Ðình Diệm sống những ngày tháng tại Hoa Kỳ và tại Paris v.v…
Sau khi Ngô Ðình Diệm được chính quyền trong tay quên nhân nghĩa ấy”
Trước tình thế phản bội của anh
em Ngô Ðình Diệm đối xử với đạo Cao Ðài không còn lễ nghĩa nên Phó chủ tịch Hội
đồng Hồ Hán Sơn lui về Tây Ninh và sau đó bị giết một
cách rất bí mật do chính tay Ngô Ðình Nhu mua chuộc tướng Nguyễn Thành
Phương và Ngô Ðình Diệm trả mọi chi phí để cho Nguyễn Thành Phương bao vây Tòa
Thánh.
Kế hoạch Diệm dùng Nguyễn Thành
Phương kết thúc, lực lượng võ trang Cao Ðài đã hoàn toàn quốc gia hóa và
Diệm-Nhu nghinh tiếp Nguyễn Thành Phương với một giá rất rẻ Phó Thủ Tướng không
ngai vào lao lớn Chí Hòa được tra tấn và cho ra đời một thân tàn danh liệt suốt
kiếp, lịch sử đã chứng minh kẻ bội phản được phán xét dưới mặt trời công
bình.
Thiếu tướng Nguyễn
Thành Phương, Tư lệnh Nghĩa binh Cao Đài, đọc diễn văn quy thuận chính
phủ (Ảnh chụp 7-5-1955 / Nguồn: RFA)
23/10/1955 - Ngô Ðình Diệm tự ý
phản bội truất phế Quốc Trưởng Bảo Ðại bằng trưng cầu dân ý, chấp chính lên làm
Tổng Thống lập nền Ðệ nhứt Cộng Hòa Việt Nam đầu tiên tại miền Nam, trên danh
nghĩa miền Nam thanh bình và có vị Tổng Thống anh minh.
Chính thể nền Cộng Hòa miền Nam
lại mở ra sự bất ổn mới để quên đi những nhân sĩ đã từng ủng hộ Ngô Ðình Diệm
lên làm Tổng Thống, một triều đại mới thể hiện khả năng Ngô chí sĩ độc thoại
yêu nước cô đơn, bởi gia đình trị đứng trên cao cả dân tộc và chính
thể Cộng Hòa thiết lập chế độ độc tôn, làm mất năng tính của một vị Tổng
Thống anh minh và tự nó buộc vào vắng bóng Nhân sĩ.
Lòng dân bắt đầu bất tín Ngô Ðình
Diệm và đến lúc không tha thứ một chế độ cai trị đất nước tan rã trầm trọng như:
– Bội phản tinh thần Nhân sĩ của
buổi ban đầu thành lập nền Ðệ nhứt Cộng Hòa và các tín ngưỡng Việt Nam, đảng
phái yêu nước.
– Thất nghĩa với đức tin Cao Ðài
và đồ mưu sách động quật mồ Ðức Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể tại
Thánh Ðịa Tây Ninh.
– Không thi hành những điều khoản
đã hứa với nhân dân và ám sát Thiếu Tướng Trịnh Minh Thế.
– Ngô Ðình Diệm phản bội lòng tin
yêu nước của Ðức Ngự Mã Thiên Quân “Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc.
– Ngô Ðình Diệm thanh trừng
MTTNTLQG tại dinh Ðộc lập, để lập triều đại gia đình trị và Cần-La .
– Ngô Ðình Diệm mướn bồi bút
H.Hoài Hương, viết thiên phóng sự dài hạng trên nhựt báo Dân Nguyện với
giá 1.200.000 đồng, nhằm mục đích bôi đen uy tín Ðức Hộ Pháp Phạm Công
Tắc đang lưu vong tại Nam Vang.
16/11/1955 - Ngô Ðình Diệm đề bạt
danh thủ Văn Thánh Cao làm chỉ huy trưởng chiến dịch miền Ðông, nhằm trong kế
hoạch “Cao Ðài trừ Cao Ðài” phong tỏa Tòa Thánh Tây Ninh .
Cùng ngày Ngô Ðình Diệm thăng
quân hàm cho danh thủ lên cấp Thiếu tướng chỉ huy CÐLM thay Thiếu tướng Trịnh
Minh Thế.
14/02/1956 - Ngô Ðình Diệm ra
lịnh cho Trung Tướng Nguyễn Thành Phương bao vây Tòa Thánh Tây Ninh và thanh
trừng nội bộ các Tướng Tá trong quân đội Cao Ðài còn trung thành với Ðạo, như
Thiếu tướng Lê Văn Tất, Ðại úy Vui, Trung úy Khoa, Trung tá Phú, bị thanh trừng
nên các vị tướng lãnh đành phải rời Tòa Thánh, vượt biên lưu vong tại Cao Miên.
Thánh thất Kim Biên, Trấn đạo Tần
Nhơn là nơi cư ngụ tạm thời của quân sĩ lưu vong.
16/02/1956 - Ðức Hộ Pháp không
thể để cho cảnh đồng đạo tương tàn buộc lòng phải rời khỏi Tòa Thánh vào lúc 6
giờ sáng, do Giáo hữu Thượng Của Thanh lái xe đưa đoàn tùy tùng đến Kampuchia.
Ðức Hộ Pháp và đoàn tùy tùng chính thức lưu vong tại Thánh Thất Kim Biên, Trấn
đạo Tần Nhơn thủ đô Phnom Penh.
Thiếu Tướng Lê Văn Tất đón tiếp
Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc về Thánh Thất Kim Biên.
Ðức Hộ Pháp tạm dùng cửa ngõ trung lập Kampuchia để truyền giáo và thi thố đức hạnh cùng thông công với nhân loại theo Thánh ý của Chí Tôn.
Ðức Hộ Pháp tạm dùng cửa ngõ trung lập Kampuchia để truyền giáo và thi thố đức hạnh cùng thông công với nhân loại theo Thánh ý của Chí Tôn.
Ðức Hộ Pháp tuyên bố như sau: “Bần
Ðạo buộc mình phải xuất ngoại đặng bảo thủ tự do cá nhân của Bần Ðạo, hầu đem
ra một giải pháp mới mẻ có thể thống nhứt hoàn đồ và chủng tộc là phương pháp
Hòa Bình chung sống”.
Thánh Thất Kim
Biên tại Phnom Penh, 1937
10/03/1956 - Ðức Hộ Pháp Phạm
Công Tắc ủy nhiệm cho Tòa Thánh Tây Ninh ký thỏa ước Bính Thân (28/01/1956)
cùng với chính phủ Ngô Ðình Diệm nhằm xác nhận chủ quyền của đạo Cao Ðài.
12/3/1956 - Thủ Tướng Ngô Ðình
Diệm truất phế Quốc Trưởng Bảo Ðại, phong tỏa bao vây Tòa Thánh Tây Ninh bắt
Ðức Hộ Pháp và cấm truyền giáo Cao Ðài.
Việt Nam sản sinh cùng lúc hai vị
nhân tài sát phạt toàn dân như Ngô Ðình Diệm thi hành chính sách độc tài gia
đình trị và bội phản nhơn nghĩa miền Nam, Hồ chí Minh thi hành chính sách cộng
sản trị, đấu tố toàn dân đến cửa nghèo đói, thủ tiêu tất cả trí thức và nhân
tài không đồng chính kiến ở khắp hai miền Nam-Bắc .
Việt Nam nội chiến Ngô-Hồ phân
tranh như “Trịnh-Nguyễn”.
15/3/1956 - Tại Nam Vang Ðức Hộ
Pháp Phạm Công Tắc khôi phục lại tinh thần Dân tộc trong lòng Việt kiều và xây
dựng Thánh Thất Kim Biên Trấn Ðạo Tần Nhơn để mở ra chân trời truyền giáo hải
ngoại.
Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc
nhờ những phương tiện của Hội Thánh Ngoại Giáo Cao Ðài Tây phương vận động
chính sách “Hòa Bình Chung Sống” để giải trừ chế độ Ngô-Hồ phi nhân. Người
hướng dẫn tín đồ xuyên suốt qui luật chung sống, xây dựng nhân nghĩa, xã hội
công bình hạnh phúc và cứu khổ .
17/3/1956 - Ðức Hộ Pháp kêu gọi
Tình Thương xóa bỏ hận thù đem Từ Bi Bác Ái Công Bình làm phương châm ngoại
giao danh dự, Ngài gửi đến Liên Hiệp Quốc và các đại cường quốc những thông
điệp và đính kèm Cương Lĩnh có ba phần trọng yếu.
1- Thống nhứt lãnh thổ và khối
dân tộc Việt Nam với phương pháp ôn hòa.
2- Tránh mọi xâm phạm nội quyền
Việt Nam.
3- Xây dựng hòa bình, hạnh phúc
và tự do dân chủ cho toàn dân.
20/03/1956 - Thư gởi Chủ Tịch
Liên Hiệp Quốc và Thủ Tướng Chánh Phủ các Cường Quốc.
“Kính quí Ngài,
Sau 80 năm bị đô hộ dưới quyền
Pháp thuộc, ngày 09.03.1945 toàn cả quốc dân Việt Nam quật cường giải ách nô lệ
việc trọng đại ấy đã có tiếng đồn khắp cả thế giới và các liệt cường quốc đều
hiểu rõ.
Ðã 11 năm tranh đấu không
ngừng để định dựng chủ quyền độc lập cho Tổ Quốc, dân tộc Việt Nam đã phải chịu
bao nhiêu thống khổ, tang tóc về tài sản cũng như sinh mạng, lại thêm bị hai
ngoại quyền Cộng sản và Tư bản xen vào nội bộ, chia quốc dân Việt Nam làm hai
xu hướng.
Kể từ ngày quân đội Pháp thất
trận ở Ðiện Biên Phủ lại thêm một tai hại lớn lao nữa trồng lên đầu dân Việt
Nam. Thật vậy chín nước ở Hội Nghị Genève với hảo ý đem hòa bình lại cho xứ
Việt Nam và chấm dứt chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh đã vô tình mà không
nhận định sự tai hại cho Việt Nam là thế nào, nên đã ký một hiệp định chia đôi
lãnh thổ Việt Nam từ vĩ tuyến 17 rồi lại định cho Việt Nam phải tự tìm phương
thống nhất.
Chúng ta nên nhớ rằng khi ký
Hiệp Ðịnh Genève thì vĩ tuyến 17 đã biến thành một cách thực tế ranh giới chia
hẳn hai miền Nam Bắc, miền Bắc thì do Cụ Hồ Chí Minh với chánh phủ thân Nga và
miền Nam thì Cụ Ngô Ðình Diệm với chánh phủ thân Mỹ.
Là nạn nhân của thời cuộc và
sự tranh chấp của chủ nghĩa Quốc tế, dân tộc vô phúc này, thay vì đặng giúp đỡ
và an ủi lại phải thêm một vết đau thương do chín nước đã vô tình xâm phạm
quyền dân tộc tự quyết của họ.
Tình trạng ấy đã hiển nhiên và
không một ai có thể nào chối cãi. Việc cốt yếu hiện nay là phải tầm một diệu
dược để cứu chữa bệnh trạng ấy.
Bần Ðạo rất hài lòng nhận nơi
đây hảo ý và sự cố gắng dẻo dai của các Cường quốc Trung lập để tìm một giải
pháp hòa bình mong giải quyết vấn đề Việt Nam.
Là giáo chủ một Tôn Giáo tượng
trưng tinh thần của một dân tộc đủ phong tục, đủ văn hiến, do một nền văn minh
tối cổ Khổng Giáo, Bần Ðạo không thể nào ngồi yên đặng nhìn sự thống khổ của họ
vì lẽ bất công của xã hội nhơn quần.
Vì cớ nên Bần Ðạo định góp sức
mọn mình với sự cố gắng của các liệt cường để tìm phương pháp cứu vãn tình thế,
giải nạn cho chủng tộc Việt Nam đặng bảo vệ hòa bình và hạnh phúc cho họ.
Hôm nay Bần Ðạo phải xuất
ngoại cốt yếu để bảo thủ tự do của cá nhân, hầu có đủ phương tiện kêu gọi lòng
nhân đạo của các liệt cường giúp sức cho Bần Ðạo đủ phương hòa giải hầu tránh
nạn cốt nhục tương tàn của sắc dân Việt sắp gây nội chiến và đôi ảnh hưởng.
Nhơn đó Bần Ðạo xin gởi theo đây một chương trình tối thiểu mà đại ý là một đường lối chung sống lập thành tại nước Việt Nam một chánh phủ liên bang hầu có thể thực thi Thống Nhất theo như Hiệp Ðịnh Genève đã đề nghị.
Nhơn đó Bần Ðạo xin gởi theo đây một chương trình tối thiểu mà đại ý là một đường lối chung sống lập thành tại nước Việt Nam một chánh phủ liên bang hầu có thể thực thi Thống Nhất theo như Hiệp Ðịnh Genève đã đề nghị.
Chương trình này Bần Ðạo đã
định rõ trong bức điện văn gởi cho tứ cường trong buổi hội nghị Genève kỳ nhì
vào ngày 21 tháng 7 năm 1955 và đã nhờ Thủ Tướng Edgar Faure chuyển đệ.
Bần Ðạo chỉ xin Liên Hiệp Quốc
và các liệt cường thật tâm ủng hộ và cương quyết bảo đảm cho Bần Ðạo được tự do
tuyên truyền giải pháp này khỏi sự khủng bố của hai Chánh Phủ đương quyền Hồ
Chí Minh và Ngô Ðình Diệm trong khi Bần Ðạo thật hành sứ mạng hòa bình này.
Bần Ðạo quả quyết rằng: Ðồng
bào Việt Nam luôn luôn yêu chuộng hòa bình sẽ hưởng ứng nhiệt liệt phong trào
này nếu họ được tự do phát biểu ý chí của họ.
Bần Ðạo tỏ lòng
tri ân Quí Vị.
Phnom Penh, ngày
20.03.1956
Hộ Pháp
Phạm Công Tắc”
26/03/1956 - Chánh Sách Hòa Bình
Chung Sống Do Dân Phục Vụ Dân Lập Quyền Dân.
Ðề nghị của Ðức Hộ Pháp Phạm Công
Tắc giáo chủ đạo Cao Ðài gởi cho Liên Hiệp Quốc cùng các cường quốc và chánh
phủ hai miền Nam-Bắc Việt Nam.
CUƠNG LĨNH
I – Thống Nhất lãnh thổ và khối
dân tộc Việt Nam với phương pháp ôn hòa
II – Tránh mọi sự xâm phạm vào
nội quyền Việt Nam.
III- Xây dựng Hòa Bình, Hạnh Phúc
và Tự Do Dân chủ cho dân
I- THỐNG NHẤT LÃNH THỔ VÀ KHỐI
DÂN TỘC VIỆT NAM VỚI PHƯƠNG PHÁP HÒA BÌNH
A- GIAI ÐỌAN THỨ NHỨT:
1/ Ðể hai chánh phủ địa phương tạm giữ nguyên
vẹn nền tự trị nội bộ mỗi miền theo ranh giới vĩ tuyến.
2/ Thành lập một “Ủy Ban Hòa Giải Dân Tộc” gồm
các nhân sĩ trung lập và một số đại diện bằng nhau của Chánh Phủ hai miền để
tìm những điểm dung hợp giữa hai miền.
3/ Tổ chức nước Việt Nam thống Nhất thành chế
độ liên bang trung lập gồm hai phần liên kết (Nam và Bắc) theo hình thức Thụy
sĩ với một chánh phủ liên bang lâm thời, để điều hòa nền kinh tế trong nước và
để thay mặt cho nước Việt Nam thống nhất đối với quốc tế và Liên Hiệp Quốc.
4/ Bãi bỏ bức rào vĩ tuyến 17. Dân chúng được
bảo đảm sự lưu thông tự do trên toàn lãnh thổ Việt Nam để so sánh và chọn lựa chế độ sở
thích mà định cư.
Vĩ tuyến 17 chỉ là một ranh giới hành chánh của
hai miền hiện hữu mà thôi, còn dân tộc Việt Nam vẫn là một khối duy nhất trung lập
và tự do.
B- GIAI ÐOẠN THỨ NHÌ
1/ Ðánh thức tinh thần dân tộc đến mức trưởng
thành, đủ sức đảm nhiệm công việc nước theo nhịp tiến triển của thế giới
trong khuôn khổ tự do và dân chủ.
2/ Khi dân tộc đã trưởng thành và khối tinh
thần đã thống nhất thì toàn dân Việt Nam sẽ tự giải quyết thể chế thiệt họ
theo nguyên tắc tự quyết bằng cách mở các cuộc tổng tuyển cử theo hiệp định
Genève tháng 07/1954, để thành lập quốc hội duy nhất cho việt Nam . Cuộc tổng tuyển cử này sẽ tổ chức
dưới sự kiểm soát và trách nhiệm trọn quyền của Liên Hiệp Quốc để ngăn ngừa mọi
điều áp bức dân chúng.
3/ Quốc Hội này sẽ định thể chế thiệt thọ và
thành lập một chánh phủ trung ương nắm trọn quyền trong nước Việt Nam .
II- TRÁNH MỌI XÂM PHẠM NỘI QUYỀN VIỆT NAM
1- Hữu dụng nền độc lập của mỗi miền đã thu hồi
do hai khối đã nhìn nhận (chánh phủ Hồ chí Minh ở miền Bắc và chánh phủ Ngô
Ðình Diệm ở miền Nam ).
2- Nương vào các nước trung lập như Ấn độ, Anh,
Miến Ðiện, A phú Hãn… để mở một đường lối thứ ba gọi là “đường lối dân tộc” căn
cứ trên khối dân tộc để làm trung gian hòa giải hai chế độ.
3- Tránh mọi hướng dẫn ảnh hưởng hoặc can thiệp
của một khối nào trong hai khối đối lập Nga Mỹ, vì đó là nguyên căn một cuộc
tương tàn có thể gây nên trận thế giới chiến tranh thứ ba…
Gia nhập vào một trong hai khối Nga hoặc Mỹ tức
là chịu làm chư hầu cho khối ấy và tự nhiên là thù địch của khối kia.
Như chính sách ” Hòa Bình Chung Sống ” không
thể thực hiện đặng; bằng chứng là tình trạng của Ðức, Áo, Trung
Hoa, Triều Tiên và Việt Nam hiện tại.
III- XÂY DỰNG HÒA BÌNH HẠNH PHÚC VÀ TỰ
DO DÂN CHỦ CHO TOÀN DÂN
1- Kích thích và thúc đẩy cuộc “thi đua Nhơn
Nghĩa” giữa hai miền Bắc và Nam để thực hiện hạnh phúc cho nhân dân trong cảnh
Hòa Bình xây dựng trên nguyên tắc bác ái, công bình và nhơn đạo.
2- Áp dụng và thực hành bản tuyên ngôn nhân
quyền của Liên Hiệp Quốc, thực hiện tự do dân chủ trên toàn lãnh thổ Việt Nam .
3- Thâu thập tất cả mọi ý kiến, phát huy do
tinh thần hiền triết cổ truyền của chủng tộc đưa lên và giao lại cho Liên Hiệp
Quốc hòa giải để thi hành cho dân chúng nhờ.
4- Dùng tất cả biện pháp để thống nhất tinh
thần dân tộc trong việc xây dựng hạnh phúc với điều hay lẽ đẹp trên căn bản hy
sinh và phụng sự.
5- Hai miền phải thành thật bãi bỏ mọi tuyên
truyền ngụy biện xuyên tạc lẫn nhau. Phải để cho nhân dân đứng trước sự thật tế
mà nhận xét sự hành động của đôi bên rồi lần lần sẽ đi đến chỗ thống nhất ý
kiến.
6- Sự thực hiện “Chánh sách Hòa Bình chung
sống” trên đây sẽ đặng thi hành dưới sự ủng hộ và kiểm soát thường trực của
Liên Hiệp Quốc và các phần tử Trung Lập trong nước và ngoài nước, hầu ngăn ngừa
mọi áp bức nhân dân do nơi quyền độc tài của địa phương hay do áp lực của ngoại
quyền xúi giục.
Nam Vang, ngày 26.03.1956
Hộ Pháp
Phạm Công Tắc
“Kính hai Cụ,
Cũng như Bần Ðạo, có lẽ hai cụ hiểu rõ hơn Bần
Ðạo nữa về thế nguy ngập cho Tổ Quốc và giống nòi Việt Nam ta đã trót chịu hơn
11 năm tang tóc vì nạn cốt nhục tương tàn nồi da xáo thịt.
Cái họa ấy do đâu?
Phải chăng vì đồng bào ta vô ý thức mà trở
thành nạn nhân của hai ảnh hưởng ngoại quyền gây loạn ? Tình thế phải chấm dứt
mới thực hiện đặng phương pháp giải ách lệ thuộc ngoại bang và thâu hồi độc lập
thật sự.
Bần đạo đã có dịp viết thơ tỏ nỗi niềm nguy hại
nếu hai chánh phủ chẳng tìm phương thoát khỏi ngoại quyền xúi giục, thì nội
chiến Nam Bắc sẽ phải không tránh khỏi.
Thoảng như tai hại ấy vẫn tiếp tục gây nạn cốt
nhục tương tàn thì năng lực tranh đấu cách mạng giải phóng dân tộc sẽ tiêu hao
mà trở thành bánh vẽ. Vì khi phong trào cách mạng đã kiệt lực thì ách lệ thuộc
sẽ trồng vào đầu cổ dân còn nguy hại hơn Pháp thuộc nữa chớ.
Hội Nghị Genève buổi nọ đã sanh sản ra hiệp
định 20.07.1954, là món độc dược để đầu độc cho quốc dân ta đi đến cảnh chết vô
phương cứu chữa, là giam hãm ta vào giữa cuộc tranh đấu của hai ảnh hưởng quốc
tế. Ta muốn thoát ly tức là ta tìm một giải pháp bảo thủ nội quyền đặng định
vận mệnh tương lai là do nơi tay ta đào tạo, chớ chẳng chịu ngoại quyền nào làm
chủ nội bộ của ta. Muốn đặng như thế, Bần đạo xin gởi theo đây một chương trình
thống nhất tổ quốc giang sơn cho hai cụ để trọn tâm nghiên cứu và tìm thêm
những giải pháp hay, khéo bổ cứu vào mọi mặt khuyết điểm hầu có thể thi hành
đặng theo ước vọng thống nhất và hòa bình của dân tộc.
Bần đạo đã lưu vong nơi nước ngoài chỉ có mục
đích là bảo thủ trọn vẹn tinh thần trung lập của Bần Ðạo đặng kêu gọi tinh thần
ái quốc chân chính và nồng nàn của hai cụ bỏ tị hiềm và thành kiến đặng đủ
phương cứu quốc.
Bần đạo trân trọng gởi lời yêu mến kính phục
của Bần đạo luôn dịp gởi cả vận mạng số kiếp của Tổ Quốc và giống nòi cho hai
Cụ định liệu.
Phnom-Penh ngày 28/03/1956
Hộ Pháp
Phạm Công Tắc”
– Thủ Tướng Anh Quốc ông Sir Winston Churchill,
S.W.7.
– Quốc Trưởng Cao Miên ông Norodom Sihanouk
Upayuvareach du Cambodia.
– Tổng Thống Pháp Quốc ông Guy Mollet .
“Kính hai Cụ.
Từ ngày Bần Ðạo kính gởi đến hai Cụ bức tâm thư
số : 21/HP.HN. đề ngày 28.08.1956 thì Bần Ðạo rất vui mừng nhận thấy hai
Cụ đã tỏ thiện chí muốn xây dựng hòa bình và thống nhứt lãnh thổ nước Việt Nam yêu quí của ta bằng biện pháp ôn
hòa.
Phương ngôn tổ phụ lưu truyền có nói: “Vạn sự
khởi đầu nan” và phương ngôn Pháp có câu: “ chỉ bước đầu là khó” thế mà hai Cụ
hiện nay đã khởi bước đầu tiên rồi. Thật là may mắn cho dân tộc Việt Nam .
Vậy Bần Ðạo ước mong sao cho hai Cụ lần lượt
tiến dần chỗ gặp gỡ và thỏa thuận để tự giải quyết vấn đề nội bộ giữa người Việt
với người Việt khỏi phải gây cảnh lưu huyết đau khổ cho giống nòi và khỏi để
cho ngoại quyền bỉ xử.
Theo Bần Ðạo nhận xét điều hiện tình khó giải
quyết vấn đề tín nhiệm giữa Chánh phủ hai miền.
Ðài Vô tuyến truyền thanh của đôi bên hằng ngày chỉ trích chánh sách độc tài tức là không có tự do Dân chủ ở Miền kia.
Ðài Vô tuyến truyền thanh của đôi bên hằng ngày chỉ trích chánh sách độc tài tức là không có tự do Dân chủ ở Miền kia.
Gần đây Cụ Ngô Tổng Thống và Cụ Ðại sứ Trần Văn
Chương lại còn tuyên bố đòi hỏi cho có tự do dân chủ ở Bắc Việt mới mở cuộc
Tổng tuyển cử được.
Nếu bầu không khí bất hòa ấy không giải quyết
thì khó mà tiến đến bước thứ nhì cho đặng.
Bần Ðạo vẫn biết thiện chí và lòng yêu nước thành thật nồng nàn của hai Cụ nên Bần Ðạo thiết tha yêu cầu hai Cụ long trọng tuyên bố rằng: Hai Cụ bằng lòng tôn trọng và thực hành các quyền tự do Dân chủ nhứt là quyền tự do ngôn luận trong vùng đất dưới chánh quyền cai trị của hai Cụ, cho phép báo chí hai Miền đặng lưu thông toàn quốc, đặng vậy thì hữu phước cho dân tộc Việt Nam biết bao nhiêu !
Bần Ðạo vẫn biết thiện chí và lòng yêu nước thành thật nồng nàn của hai Cụ nên Bần Ðạo thiết tha yêu cầu hai Cụ long trọng tuyên bố rằng: Hai Cụ bằng lòng tôn trọng và thực hành các quyền tự do Dân chủ nhứt là quyền tự do ngôn luận trong vùng đất dưới chánh quyền cai trị của hai Cụ, cho phép báo chí hai Miền đặng lưu thông toàn quốc, đặng vậy thì hữu phước cho dân tộc Việt Nam biết bao nhiêu !
Bần đạo thân ái kính chào hai Cụ và kính cẩn
xin hai Cụ nhận nơi đây lòng tri ân của Bần Ðạo.
Hộ Pháp
Phạm Công Tắc”
“Trót mười năm khi trở về nước, sau 5 năm
hai tháng bị đồ lưu nơi hải ngoại.
Bần Ðạo đã hết sức lực và tâm não đặng nghiên
cứu và thi hành các phương pháp bảo vệ phong trào Cách Mạng và giải ách lệ
thuộc của Tổ Quốc và giống nòi, lại tìm phương hay bảo thủ tinh thần dân tộc
hầu đủ phương Thống Nhất hoàng đồ, tránh nạn Nam Bắc phân tranh, nồi da xáo
thịt.
Rủi thay ! Khi trở về nước Bần Ðạo bị ở trong
một cảnh ngộ khó khăn là sự chia rẽ của hai Miền: Nam thì Quốc Gia, Bắc thì Cộng Sản.
Trong cuộc tranh đấu họ đã gây thù, kết oán với
nhau rất nhiều mà khối quân lực của Cao Ðài là tay mở màn Cách Mạng đã đảo
chánh quyền Pháp Quốc. Bần Ðạo khi ấy không có ý định giữ gìn tồn tại Quân Lực
Cao Ðài, nhưng vì trường hợp tranh đấu đã gây hấn quá kịch liệt giữa khối Quốc
Gia và Cộng Sản, nên cả tín đồ của Ðạo đã bị khủng bố, tàn sát quá thê thảm và
quá nhiều vì hai lằn tên mũi đạn của Pháp và Việt Minh, nên buộc lòng Bần Ðạo
phải chấp thuận cho quân lực ấy còn tồn tại vì nó đã đứng trong hàng ngũ của
khối Quốc Gia và trong phận sự thiêng liêng tranh đấu đặng thực hiện Ðộc Lập.
Sau cuộc hội đàm cùng Ðức Bảo Ðại và định cho
đức Ngài lãnh phận sự làm trung gian hòa giải đặng đem hòa bình và hạnh phúc
lại cho nước nhà trong cuộc hội nghị tại Hồng Kông năm 1949, thì khi đức Ngài
về nước chính mình Bần Ðạo đã giao trọn quyền sử dụng quân đội Cao Ðài cho Ðức
Ngài điều khiển trong hàng ngũ quân lực Quốc Gia. Kịp khi đức Ngài đi Pháp mới
tạm giao Quân Lực ấy cho Bần Ðạo, trong lúc vắng mặt, Ðức Ngài đã ra lệnh hai
chánh Phủ của Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm và Bửu Lộc thi hành hợp pháp Quốc Gia
hóa Quân đội Cao Ðài, nhưng sự thi hành ấy vẫn kéo dài cho tới ngày chánh phủ
Ngô Ðình Diệm thọ phong toàn quyền cũng chưa quyết định. Bần Ðạo buộc phải nhắc
nhở và cầu cho chánh phủ Ngô Ðình Diệm quốc gia hóa Quân đội Cao Ðài một cách
hợp pháp.
Cốt ý Bần Ðạo nói ra đây đặng tỏ cho cả toàn
quốc dân hiểu biết rằng Bần Ðạo không buổi nào muốn giải quyết vận mạng nước
nhà với quân lực, mà chỉ dùng phương pháp đạo đức đặng đem hòa bình hạnh phúc
lại cho giống nòi mà thôi.
Giai đoạn thứ nhất đã qua, đến giai đoạn thứ
nhì này, Bần Ðạo buộc mình phải xuất ngoại đặng bảo thủ tự do cá nhân của Bần
Ðạo hầu đem ra một giải pháp mới mẻ có thể thống nhất Hoàng đồ và chủng tộc là
phương pháp Hòa Bình và chung sống.
Vì cớ cho nên cả quân lực nào ngoài quân lực
Quân đội quốc gia chánh qui chẳng còn hữu ích chi trong cuộc tranh đấu mới mẻ
của Bần Ðạo đã đề xướng là phong trào tranh đấu Chánh trị Quốc tế mà thôi.
Từ đây bất kỳ khối quân lực nào mượn danh Bần
Ðạo đặng tổ chức là giả dối.
Vậy toàn cả tín đồ của Ðạo và toàn quốc dân Việt Nam chú ý cho lắm, kẻo bị kẻ vô tâm mưu mô gạt gẫm. Bần Ðạo cầu nguyện Ðức Chí Tôn ban hồng ân cho toàn Ðạo và toàn Quốc Dân đủ sáng suốt nhận định thời cuộc.
Vậy toàn cả tín đồ của Ðạo và toàn quốc dân Việt Nam chú ý cho lắm, kẻo bị kẻ vô tâm mưu mô gạt gẫm. Bần Ðạo cầu nguyện Ðức Chí Tôn ban hồng ân cho toàn Ðạo và toàn Quốc Dân đủ sáng suốt nhận định thời cuộc.
Bần Ðạo để lời ưu ái nồng nàn cầu hòa bình và
cầu hạnh phúc cho đồng bào và tổ quốc.
Hộ Pháp
Phạm Công Tắc”
03/5/1956 - Ðức Hộ Pháp nhận văn
thư phúc đáp Ðại Sứ Pháp Quốc tại Cao Miên ấn ký “Haut Commissariat
République De France Au Cambodge”, Ủng hộ Chính Sách Hòa Bình Chung
Sống cho Việt Nam.
14/5/1956 - Ðức Hộ Pháp nhận văn
thư phúc đáp của Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc ấn ký, “Division Des
Droits De L’Homme Des Nations Unies” Ủng hộ và đồng tình đề nghị Chính Sách
Hòa Bình Chung Sống cho Việt Nam.
16/5/1956 - Ðức Hộ Pháp nhận văn
thư phúc đáp lần thứ hai của ông Quốc Trưởng Cao Miên ấn ký, “Samdech
Norodom Sihanouk Upayuvareach”. hoàn toàn ủng hộ và đồng tình Chính Sách
Hòa Bình Chung Sống cho Việt Nam.
23/6/1956 - Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc ủy nhiệm
cho ngài Hiến Pháp Trương Hữu Ðức đại diện Tòa Thánh Tây Ninh, yết kiến Thủ
Tướng Ngô Ðình Diệm để tỏ bày lòng tha thiết yêu chuộng Hòa Bình Chung Sống của
dân tộc trên hai miền quê hương.
Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm và Hồ chí Minh không
hài lòng chính sách Hòa Bình Chung Sống, Ðức Hộ Pháp thi thố đạo đức thì trái
lại hai vị nguyên thủ Nam-Bắc, ra sức công phá lẫn nhau, trong bóng tối Nam-Bắc
tranh hùng vị kỷ đánh mất quyền lợi dân tộc.
12/10/1956 - Chính thể Cộng Hòa tạm ổn định
theo kiểu yêu nước của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm như đã cầm tù 3200 và
sát hại trên 2700 Tín đồ Cao Ðài, xem như một thành công đã dẹp hết
các đảng phái Quốc gia đối lập yêu nước và áp chế được các Tôn
giáo, Ngô Ðình Diệm cho ra đời Phong trào Cách mạnh Quốc gia và
đảng Cần Lao do ông Ngô Ðình Nhu lãnh đạo, điều hướng mọi hoạt
động chính trị trên toàn quốc.
"Từ ngày Bần Ðạo ra khỏi nước tới nay,
Bần Ðạo chưa hề gởi thư cho Tổng Thống về mục đích của Bần Ðạo muốn đạt đến chỗ
nào.
Bần Ðạo vì tin nơi lòng đạo đức và trí thức cao
thượng của Ngài nên để Ngài tìm hiểu và suy đoán.
Tổng Thống và Bần Ðạo chẳng phải là người xa lạ
với nhau về tinh thần Ái quốc và vị chúng, Bần Ðạo bỏ công chức hồi pháp thuộc
cũng như Ngài đã bỏ quan trường buổi ấy. Hai tâm đức cũng như nhau bởi đau khổ
thấy giống nòi đã bị lệ thuộc, làm tôi đòi thiên hạ và nước chịu nạn thống trị
của ngoại bang.
Trường hợp tranh đấu của chúng ta dẫu khác
đường lối mà trí ý có lẽ cũng đồng. Vậy tinh thần đôi ta cũng một khuôn khổ,
một ý chí.
Chỉ có một điều Ngài có thể phiền trách Bần Ðạo
đặng, là mọi hành vi của Bần Ðạo đối cùng Ngài từ khi Ngài nắm chánh quyền đến
giờ, đều là âm thầm, kín đáo chớ chẳng như ai kia xưng hô công nghiệp đặng thân
cận cùng Ngài.
Bần Ðạo không muốn chính mình Ngài hiểu biết
nữa mà chớ. Hôm nay Bần đạo viết thư này vì thấy đủ bằng cớ rằng chính phủ Ngài
họa ảnh của Bần Ðạo với một vẻ lầm lạc vụng về, thô kém từ hình trạng lẫn tinh
thần. Dẫu rằng đôi ta đã nhiều dịp gặp nhau, hiểu biết nhau từ buổi hội đàm tay
ba cùng Ðức Bảo Ðại tại Paris, trước khi Ngài về nước đảm nhận trọng quyền.
Thêm nữa chúng ta có nhiều lần mặt nhìn mặt, tay bắt tay hội đàm cùng nhau mật
thiết. Bởi cớ mà Bần Ðạo lầm tưởng Ngài biết rõ tâm tính của Bần Ðạo hơn ai hết
mới thờ ơ như thế.
Ngài cũng nên hồi tưởng lại, nhớ kỹ càng mọi
lẽ, mọi hành vi rồi định thử coi Bần Ðạo là người ơn hay người oán. Vậy Bần Ðạo
xin tiếp tục tưởng rằng hay trạng thái hình dung của Bần Ðạo chẳng phải chính
tay của Ngài, mà là tay của ngoại lai có lẽ Bần Ðạo xin nói rõ và thú thật cùng
ngài rằng Bần Ðạo không thể nào ngồi xem tổ quốc và giống nòi bị ngoại bang lệ
thuộc một phen nữa. Chẳng phải bị quyền lực ngoại bang của một nước như Pháp
buổi nọ mà lại bị hai khối: Ðế Quốc Thực Dân Tư Bản và Cộng Sản Quốc Tế đua
nhau tranh quyền bá chủ hoàn cầu. Bần Ðạo xuất ngoại cốt để đủ quyền tự do của
Bần Ðạo đặng đầu cáo hội nghị Genève đã chủ định chia hai đất nước từ vĩ tuyến
17, Bần Ðạo cho đó là một hành động áp bức, bất công như bức thơ số 20/HP-HN
ngày 26 tháng 3 năm 1956 mà Bần Ðạo đã gởi cho Liên Hiệp Quốc và các Liệt Cường
Quốc Tế.
Nếu Bần Ðạo còn ở trong nước thì chắc rằng Ngài
không cho Bần Ðạo làm việc ấy.
Việc làm này Ngài đã đặng biết trước vì khi hội
nghị Genève dưới quyền Thủ Tướng của Tứ Cường, Bần Ðạo đã đánh một điện văn, mà
bức điện văn ấy, Bần Ðạo đã cầu Ngài cùng ký tên với Bần Ðạo, Ngài cho lịnh nội
bộ chính phủ của Ngài trả lời rằng theo thủ tục tức Ngài không thể ký bức điện
văn ấy chung cùng Bần Ðạo và biểu Bần Ðạo tùy tiện gởi đi. Bức điện văn ấy cốt
để làm ngưng cuộc Tổng Tuyển Cử ngày 20.08.1956 cho đến ngày toàn dân giác ngộ,
biết rõ chủ quyền của họ rồi mới định đoạt. Nếu thi hành liền thì không tránh
khỏi nội loạn.
Nghe ra dường như Ngài đã phiền trách Bần Ðạo
đã làm CHỦ TỊCH ÐOÀN MẶT TRẬN TOÀN LỰC QUỐC GIA, điều ấy là một điều mà
Bần Ðạo vẫn mãi còn ân hận. Khi ở Genève, sau khi Việt Minh đã thắng trận Ðiện
Biên Phủ và Hội Nghị Genève đã định chia đôi đất nước, thì Bần Ðạo đã biết
trước rằng họ đã gieo một tai hại lớn lao cho tương lai đất nước Tổ Quốc, nên
hội diện cùng phái đoàn Việt Minh cốt để hiệp đồng tâm đức đặng thống nhất nước
nhà với phương pháp hòa bình, hầu tránh nạn chiến tranh tàn khốc do ngoại bang
xúi giục. Nhưng Bần Ðạo đã bị thất bại vì sự khinh rẻ khối quốc gia và Việt
Minh, cho rằng chính phủ Quốc Gia vô quyền hành, vô năng lực mà họ gọi là chính
phủ bù nhìn. Thật ra chính quyền buổi nọ không căn bản, không năng lực vì nạn
đảng phái tương tranh, nhơn tâm bất nhứt, nên không thể đương đầu đối diện cùng
họ. Cái khuyết điểm trọng hệ hơn hết là chánh phủ Quốc Gia buổi nọ không hiến
pháp và Quốc Hội làm hậu thuẫn. Không biết bao phen Bần Ðạo đã than thở cùng
linh đệ của Ngài là ông Ngô Ðình Nhu về lẽ ấy, Ngài có thể hỏi chứng nơi ông
thì dư rõ.
Bần Ðạo đã cầu khẩn Quốc Trưởng Bảo Ðại ban cho
ta một khí cụ cần thiết ấy, song Ngài vẫn chần chờ không quyết định, lại ra
lệnh cho chánh phủ Nguyễn văn Tâm lập một Quốc Hội bù nhìn như Ngài đã biết.
Năng lực tranh đấu cùng Việt Minh đã thất thế
cùng mọi mặt về chính trị và quân sự. Khi họ thắng trận Ðiện Biên Phủ, đánh bại
Pháp quân thì họ đã quá hãnh diện, khinh khi chánh phủ Quốc Gia.
Họ quyết định ký hòa ước với chánh phủ Pháp mà
thôi, chớ không kể rằng ta có mặt.
Bởi hổ nhục ấy nên Bần Ðạo mới tầm phương thống nhứt Quân Lực các đảng phái đặng hiệp một cùng Quân lực Việt Quốc Gia thành một lực lượng duy nhất, đủ uy tín, oai quyền hầu ăn nói với họ.
Bởi hổ nhục ấy nên Bần Ðạo mới tầm phương thống nhứt Quân Lực các đảng phái đặng hiệp một cùng Quân lực Việt Quốc Gia thành một lực lượng duy nhất, đủ uy tín, oai quyền hầu ăn nói với họ.
Hại nỗi, trong khi Bần Ðạo cầu nài cho Trung
Tướng Nguyễn văn Hinh buổi nọ là Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Ðội Quốc Gia cùng
Trần Văn Soái, Nguyễn thành Phương, Lê Văn Viễn hội hiệp cùng nhau liệu phương
thống nhất. Bởi tin tưởng rằng sở vọng ấy đắc thành mới xin phép chánh phủ Ngài
đi giao du nơi Ðài Loan, Nhựt Bổn và Triều Tiên đặng hiểu rõ tình hình quốc tế,
khi trở về, thì thấy sự nghiệp ấy đã tan vỡ bởi ngoài tranh chấp uy tín đã chia
đôi họ, trở thành thù địch. Ðiều ấy có lẽ chẳng cần nói mà chính ngài cũng đã
dư hiểu.
Có lẽ Ngài còn nhớ, Bần Ðạo đến Genève làm quan
sát viên với một ủy ban do đức Bảo Ðại chỉ định, khi đã hay biết quả quyết rằng
hội nghị đã quyết chia nước thì Bần Ðạo đã tuyên bố đã làm xáo động cả dư luận
Quốc Tế rằng : Nếu Việt Minh và Pháp tuân lịnh hội nghị chia nước ra làm hai,
không có sự chấp thuận của toàn dân Việt Nam, thì ta sẽ chia đầu cùng cả hai
bên hết thảy.
Lời tuyên bố ấy của một người Ðạo như Bần Ðạo
làm điều ấy đặng. Ðến nay, Bần Ðạo phải nhìn nhận công nghiệp ấy đã về Ngài vì
Ngài đã thắng Pháp với một đường lối chính trị hay khéo. Ước mong rằng Ngài
cũng thắng Việt Minh với một đường lối ấy thì kỳ công của Ngài sẽ đặng hoàn
toàn trọn vẹn.
Bần Ðạo chỉ lo âu có một điều là sau 80 năm bị
pháp thuộc, dân tộc đã quật cường với biết bao xương máu mà ta lại còn phải
chịu cảnh lưu huyết của ta một cách oan uổng, cốt nhục tương tàn, nồi da xáo
thịt thêm nữa. Chủng tộc ta dân số chẳng hơn ai mà trót trên 10 năm tranh đấu,
hy sinh sanh mạng, tài sản đã quá nhiều, Quốc Dân đã quá đau khổ với nạn chiến
tranh, nên trong bức thơ số 21/HP-HN ngày 26.03.1956 của Bần Ðạo gởi cho Ngài
và Hồ Chí Minh, cầu khẩn nơi lòng Ái Quốc nồng nàn đã sẳn có của hai Ngài, đặng
giải diệt vong cho đồng bào và Tổ Quốc.
Kết luận là Bần Ðạo tưởng quả quyết rằng mọi
hành động của Bần Ðạo đều là công khai và hợp pháp, chẳng một điều chi bí mật,
dối gian, vì các hành động ấy đều xuất hiện do nơi lòng Ái Quốc nồng nàn và
lương tâm Bần Ðạo ra lịnh thi thố.
Ngài đừng nghe chi những lời sàm nịnh của kẻ
hầu cận bên Ngài cho rằng Bần Ðạo muốn lập uy tín riêng mình hầu mong mỏi đoạt
thủ chánh quyền, lập thành chánh phủ, thoảng như tình thế biến thiên thế nào đi
nữa thì cũng là tuồng cũ soạn lại mà thôi, chớ không chi khác cùng Bần Ðạo hết,
sự hay khéo của ta là làm thế nào bảo thủ toàn vẹn cả các thắng lợi mà toàn thể
chúng ta thâu hoạch được đặng may múng thành hình, một đường lụa dệt mà mỗi tay
thợ thay đổi mối cắt đứt rồi khởi đầu lại nữa thì đường ấy không thể nên hình,
càng thay tay, càng rối rấm. Bần Ðạo đã hiểu rõ như thế nên định phận mình chỉ
biết giúp đỡ cho mỗi chánh phủ từ trước tới giờ, chớ rất gớm ghê những phen
thay đổi.
Thật ra nếu Bần Ðạo có tham vọng chiếm đoạt
chánh quyền thì đã làm rồi trước khi Ðức Quốc Trưởng và Ngài về nước. Trong đạo
sử của ta chưa từng thấy một vị giáo chủ ra tranh đoạt để giành chủ quyền đời.
Ấy là điều đại kỵ của Bần Ðạo. Bởi vậy nên mới chính mình đi Hương Cảng hội đàm
đặng rước Ðức Bảo Ðại về nước cầm quyền Quốc Trưởng trong buổi nước nhà nguy
biến, chớ Bần Ðạo không chịu ngó vào nội bộ chánh quyền.
Cả đời Bần Ðạo đã nguyện hy sinh đặng làm bạn
và làm tôi tớ cho những tâm hồn đau khổ, cho những kẻ dốt nát nghèo hèn. Ngoài
ra không có một điều chi tham vọng, không công danh, không quyền lợi, mới sanh
một cách bất ngờ, một tâm tình không nịnh hót, không bợ đỡ, không cầu thân,
không sàm nịnh, dường như đã thành kiêu căng, tự tin ? Với tánh đức ấy nên muốn
cho kẻ hèn hạ đặng nên danh, người vinh hoa đặng công chánh. Bằng cớ hiển nhiên
mà cả chủng tộc đều thấy rõ Bần Ðạo dám can đảm nâng đỡ binh vực, dạy dỗ những
hạng cùng dân nghèo hèn, dốt nát ra thi thố cùng đời không hơn không kém, đã hy
sinh nửa kiếp sống tạo nghiệp chung cho nơi cửa Ðạo, cho họ đủ sang trọng, vinh
hiển, chớ chẳng kể chi đến gia nghiệp riêng rẽ của mình.
Bắt chước hạnh Chúa là thương yêu, nuôi dưỡng
kẻ nghèo khó, cơ hàn, nhịn ăn chia áo cho họ. Tuy vào Ðạo Cao Ðài mà trước mặt
kẻ tín đồ, Bần Ðạo chưa hề chối Ðạo Công Giáo. Một điều có thể làm cho kẻ gian
ác, xảo trá, tà tâm oán ghét hơn là theo lời Chúa dạy : chẳng nên đem bánh trẻ
con đặng cho kẻ nghèo khổ bần cùng là con yêu dấu của Chúa dạy:
Một điều đáng buồn cười hơn hết là những hạng
dốt nát thường thường có tinh thần bội phản. Khi nó đã lập được thân danh, coi
mình là trọng, không biết nhân nghĩa là gì bởi thiếu học, nó trở lại phản phúc
là kẻ thường tình không chi làm lạ.
Thường người tu vì Từ Bi mà đã bị làm nạn nhơn
của kẻ gian hùng ấy nhiều hơn hết. Bần Ðạo tiếc rằng Ngài không tìm hiểu rõ Bần
Ðạo, mà đã ra lịnh cho chánh phủ của Ngài làm nhiều điều không hay đối cùng Ðạo
và Bần Ðạo đã làm cho tình thâm cảm giữa đôi ta một phần tiêu giảm quá nhiều
rất nên đáng tiếc.
Bần đạo nhứt quyết ngày trở về nước là ngày
thấy đủ rõ ràng bằng cớ là chánh phủ miền Nam khỏi bị khối Mỹ và chánh Phủ miền
Bắc khỏi bị khối Nga; lệ thuộc với bất cứ với phương pháp nào một cách trực tiếp
hay gián tiếp cũng vậy.
Sự đòi hỏi này chắc Ngài cũng biết rằng Bần Ðạo
chẳng phải xin xỏ cho thân danh cá nhân của Bần Ðạo mà là cho Ngài và cụ Hồ Chí
Minh rõ rệt.
Nếu Bần Ðạo muốn cầu danh lợi cho Ðạo và riêng
Bần Ðạo thì chắc hẳn không phải đường lối như thế, dám đủ can đảm ôm thù thiên
hạ nơi mình đặng cứu vận mạng Tổ quốc giống nòi, cử chỉ như thế không lẽ bị
Ngài ghét bỏ. Trường hợp của Ngài cũng như của Bần Ðạo, thời thế đã gây nên cho
đôi ta cái hại phân chia nhau. Ðiều ấy do đâu mà đến chớ chẳng phải do nơi đôi
ta đào tạo, cổ tục ta có nói : Thời thế tạo anh hùng, mà cũng không nhắc để cái
phản ảnh của nó là: Anh hùng tạo thời thế. Hai điều ấy Ngài đủ sức lực, đủ can
đảm, đủ quyền hành thi thố, thực hiện cả hai. Bần Ðạo mong ước và cầu khẩn nơi Ðức
Chí Tôn và các đấng thiêng liêng phò hộ Ngài, giúp đỡ Ngài thành công trong sứ
mạng cứu nước, cứu giống nòi trong lúc Quốc Gia nguy biến. Ta còn có ngày gặp
gở nhau nữa.
Bần Ðạo gởi lời thân ái chào Ngài.
Hộ Pháp
Phạm Công Tắc”
17/5/1959 - Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc qui Tiên
vào lúc 13 giờ tại bệnh viện Calmette và liên đài quàn tại Thánh Thất Kim Biên
hưởng thọ được 70 tuổi, nhằm ngày rước Thánh lễ Pentecôte.
Hiện di hài còn quàn tại Thánh thất Kim Biên, Trấn đạo Tần Nhơn (Nam Vang).
Hiện di hài còn quàn tại Thánh thất Kim Biên, Trấn đạo Tần Nhơn (Nam Vang).
Ngài đã làm xong sứ mạng Thiêng Liêng tối trọng
của một đấng Hộ Pháp Chưởng Quản Hiệp Thiên Ðài thay Trời độ thế.
20/03/1963 - Ngô Ðình Diệm cô độc nay lập lại
những giải pháp thống nhứt Việt Nam với Cộng sản Hà Nội, trên những giải pháp
căn bản của Ðức Hộ Pháp đã từng đưa ra trước đây, Ngô Ðình Diệm bí mật tiếp xúc
đại diện Bắc Việt và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, bởi trung
gian ông Miezyslav Maneli đại diện của Ba Lan trong Ủy Ban Quốc Tế Kiểm
Soát Ðình Chiến Việt Nam.
Tổng Thống Pháp De Gaulle gặp dịp muốn tìm ảnh
hưởng Ðông Dương cũng tuyên bố ngày 29/08/1963 , "Sẵn sàng giúp Việt Nam cả hai miền Nam-Bắc,
trong việc tìm kiếm hòa bình, độc lập và thống nhứt".
Gia đình trị nhà Ngô bị các tướng lãnh thủ tiêu
tại Chợ Lớn, kết thúc triều đại Cần Lao đảng trị 9 năm và Phong Trào Cách Mạng
Quốc Gia đi theo nền Ðệ nhứt Cộng hòa không còn để lại một vết dầu loang, cả
gia đình nhà Ngô đứng trên sự phán xét của nhãn tiền công chính, ánh sáng mặt trời
chỉ ưu đãi cho những ai vì đồng sinh.
23/12/1963 - Ngày lịch sử binh sĩ
Cao Ðài về nước chấm dứt đời binh nghiệp lưu vong tại đất chùa tháp Cao Miên,
dưới sự hướng dẫn của Thiếu Tướng Lê Văn Tất.
Chế độ nhà Ngô 9 năm trị
vì đã làm khổ biết bao lương dân, Tín ngưỡng miền Nam Việt Nam Nội ngoại
bất hòa và nhà Ngô bội phản dân tộc, triệt tiêu đạo Cao Ðài, tạo ra
nhiều mâu thuẫn xô đẩy vài chi phái Cao Ðài theo Cộng sản sát phạt tình
Huynh-đệ lẫn nhau, chế độ đệ nhứt Cộng Hòa toàn bộ cáo chung để lại cho
đất nước một dáng vấp phân rã bất đồng và nền Ðệ nhị Cộng Hòa Việt Nam
được lập lại.
Biên khảo Huỳnh Tâm
Lời
Giới Thiệu hoangnamgiao: http://hoangnamgiao.blogspot.com/2017/06/cao-ai-duoi-che-o-ngo-inhdiem-huynh-tam.html
Giao Điểm: http://giaodiemonline.com/2017/06/caodai.htm
Về Lại Cội Nguồn