幸遇高臺傳大道
好逢玉帝御塵間
Hạnh ngộ Cao Đài truyền Đại Đạo,
Hạnh ngộ Cao Đài truyền Đại Đạo,
Hảo phùng Ngọc Đế ngự trần gian.
1 - Nguyên
nhân nào phải mượn Từ Lâm Tự?
2 - Dời
về Chùa mới thuộc xã Long Thành.
3 - Địa
thế xây cất Tòa Thánh.
4 - Vùng
Đất Thánh Địa sở rừng 140 hecta.
Sao gọi là Thánh Địa? Và Đền Thánh
phải cất trên phần đất Long Thành, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh. Hẳn có huyền
vi về Đạo Pháp cũng như về địa lý xây cất.
Đạo Cao Đài là Phật Giáo chấn hưng, lấy Nho Tông
làm nền tảng, có Hội Thánh ba Đài “Bát Quái, Hiệp Thiên và Cửu Trùng” tức
Tam Giáo “Phật, Tiên, Thánh” lại thêm Ngũ Chi phục nhứt. Nên
gọi Thánh Đạo Cao Đài. (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Do vậy, Đức Chí Tôn dạy: “Thầy đến độ kẻ vô
Đạo, chớ không phải sửa Đạo!”…
Nền Đạo được khai sáng trong nguyên lý “Qui
Lương Sanh để cứu Quần Sanh”, các bậc Nguyên Nhân Thần, Thánh, Tiên, Phật
đã tình nguyện đến trước, Đức Chí Tôn Thiên Phong trước, rồi mới thiết Đàn Khai
Đạo nhằm ngày 15 tháng 10 năm Bính Dần (DL 19 – 11 – 1926) tại chùa Gò Kén (Từ
Lâm Tự) của Hòa Thượng Giác Hải cho mượn tạm làm lễ Khai Đạo.
Vốn có nhiều mặt về thể pháp lẫn bí pháp. Trước hết Thánh
ý Đức Đại Từ Phụ muốn cho toàn con cái của Ngài hiểu rằng: “Tam Giáo
vốn đồng nguyên”, Phật, Thánh, Tiên tá trần lập giáo đều do Thượng Đế chủ
tể, chiếc Chơn linh phân tánh nên gọi thị ngã, ấy là Đạo; vì vậy một thành ba,
mà ba hiệp lại thành một; ấy là Nhứt sanh vạn vật, Đạo sanh Nhứt.
Về thể pháp, Đức Chí Tôn mượn cửa Thiền Từ Lâm Tự để thâu
phục các Hòa Thượng như: Hòa Thượng Như Nhãn Thiên Phong Thái Chưởng Pháp, Ngọc
và Thượng Chưởng Pháp, nhị vị Đầu Sư Thái Minh Tinh, sau thay Thái Nương Tinh.
(Ông Minh bị Đức Lý trục xuất)…
Còn một ý nhiệm mầu là khi khai Thiên lập Địa, Đức Chí
Tôn khai Phật Giáo trước, rồi sau tới Tiên Giáo và Nho Giáo, vì tôn chỉ Đạo Cao
Đài là Qui Tam Giáo, hiệp Ngũ Chi, nên tượng hình Phật Thích Ca để trước Hiệp
Thiên Đài Chùa Gò Kén biểu tượng Phật Giáo trước.
Bằng chứng cụ thể ngày Khai Đạo tại chùa Gò Kén, người
Miên họ đồn với nhau rằng: Trong cửa Đạo Cao Đài có hình Phật Tổ của họ cưỡi
ngựa trắng, nên rủ nhau đến nhập môn theo Đạo Cao Đài, đúng với Thánh
danh: “Thích Ca Mâu Ni Phật tá danh Cao Đài chuyển Phật Giáo Nam
Phương, hay Chí Tôn Phật Tổ cũng là Thầy”.
Cây Bồ Đề trước Đền Thánh
Buổi phôi thai, chưa có chùa, có đất, nên phải mượn cửa Thiền để khai Đạo, cũng nhằm lúc Chùa này đang kiến tạo mới có ngôi Chánh Điện, chưa có Đông Lang, Tây Lang… Nhơn đó họ cũng muốn cho mượn để nhờ bàn tay Hội Thánh điểm tô sớm hoàn thành khai sáng nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Và cũng cho thấy rằng: “Xuất phát từ nơi cửa Thiền đến khi qui nhứt cũng chính Phật Giáo cầm đầu”, điển hình qua Ngựa Phật Tổ và Cội Bồ Đề trước cửa Tòa Thánh trong sân Đại Đồng Xã”.
Thiên thơ tiền định Hòa Thượng Giác Hải đòi chùa rất
ngặt!
Đức Chí Tôn dạy: “Các con chung hiệp nhau lo cho
hoàn toàn Tòa Thánh, chi chi cũng ở tại Tây Ninh nầy mà thôi” (20 – 1
– Đinh Mão). Đến ngày 2 – 2 – Đinh Mão, Đức Chí Tôn dạy: “Thơ con lo
Thánh Địa, lập Thánh Thất…”
Sau khi mua đất xong dời về Chùa mới cất trong đêm 13 – 2
– Đinh Mão phòng sự cản trở của chánh quyền Pháp tỉnh Tây Ninh.
Nơi Chùa Gò Kén chỉ là bước đầu cho sự phôi thai khai sáng
nền Đạo, rồi Đền Thánh Tổ Đình phải được xây cất trên phần đất “Lục
Long Phò Ấn”, một nơi rừng sâu nước độc. Sở rừng 140 mẫu tây của người Pháp
tên ASPA tọa lạc làng Long Thành nằm dọc theo quốc lộ 13 đường đi Tây Ninh,
Suối Đá, Phan, Chà Là.
Trường hợp đã xẩy ra với hành động của chánh quyền Pháp
tỉnh Tây Ninh thấy người nhập môn theo đạo ngày thêm đông, đa số là người Tần
Quốc, chỉ trong 3 tháng mà hơn 40 vạn người theo đạo; với sự náo nhiệt nầy,
nhứt là về mặt tinh thần Đạo giáo làm cho chính quyền sợ có biến động chống
Pháp. Nên họ bắt buộc Hòa Thượng Giác Hải đòi chùa và đuổi đi cho hết khai đạo.
Lý do đòi chùa là vậy.
3.-Địa thế xây cất Tòa Thánh.
Cái quan trọng của địa thế xây cất, theo Thánh Ngôn
Đức Chí Tôn dạy: “Đền Thánh có thể cất vào ba chỗ:
1. Nếu cất ở Cẩm Giang thì
các con phải chịu khó khăn về phần ăn uống.
2. Bến Kéo thì địa thế hẹp.
3. Suối Vàng núi Phụng thì
đặng, nhưng phương tiện chuyên chở không tiện, song phong thổ tốt”.
Nếu phải xây cất ba nơi kể trên thì chỉ nằm trên đầu
Rồng, không nằm trọn trên mình Rồng. Như Đền Thánh hiện nay đúng địa
huyệt “Lục Long Phò Ân”, trung tim sáu nguồn nước như sáu Rồng
đoanh nhau vậy.
Thánh Giáo ngày 21 – 01 – Đinh Mão (21
– 2 – 1927), Đức Lý Giáo Tông giảng dạy: “Thái Thơ Thanh, Lão cậy Hiền
Hữu một phen nữa, mai nầy đi lên đường trên gọi là đường dây thép, nhắm địa thế
dài theo cho tới ngã ba Ao Hồ coi Hiền Hữu thấy đặng chăng…”
Đến ngày 23 – 01 – Đinh Mão, Đức Lý giáng
dạy: “Lão khen Thái Thơ Thanh phải đó đa ! Tưởng chư Hiền Hữu không
thấy nữa”.
“Lão cắt nghĩa vì sao cuộc đất
ấy gọi là Thánh Địa? Sâu hơn ba trăm thước, như con sông, giữa trung tim đất
giáp lại trúng giữa sáu nguồn làm như sáu con Rồng đoanh nhau”.
“Nguồn nước ấy chảy trúng ngay đỉnh
núi gọi là “Lục Long Phò Ấn”, ngay miếng đất đó được ba đầu: Một đầu ra Giếng
Mạch Ao Hồ, hai đầu nữa bên cụm rừng bên kia…”
“Người Lang Sa chỉ đòi hai mươi ngàn,
Lão dặn trả giá mười bảy, mười tám ngàn thì mua đặng.”
“Còn xin khai khẩn miếng đất
rừng bên kia nữa mới trọn. Đất nay còn rẽ, đất chung quanh Thánh Địa ngày sau
hóa vàng. Chư Hiền Hữu lo lập, ngày sau rất quí báu!”
Vài Nét Đại Cương
Trong Thời Kỳ Phá Rừng Xây Cất Tòa Thánh
1 - Phần
nội ô cất Tòa Thánh.
2 - Vị
trí cất Đền Thánh tạm hiện thời.
3 - Đức
Lý dạy cất Đền Thánh theo kiểu thiên đình.
4 - Tạo
tâm đức hiến thân – thủ trinh
5- Những
bí mật của Đền Thánh.
Châu vi Nội Ô Tòa Thánh có tổng diện tích 96 Ha (chín mươi sáu mẫu Tây), gồm
có Đền Thánh, Báo Ân Từ và các dinh thự như: Giáo Tông Đường, Hộ Pháp Đường,
Đầu Sư Đường nam, nữ; kiến thiết theo kiểu Đạo đồ, cùng các cơ sở của các cơ
quan ban bộ. Đường sá thẳng tấp: Đại lộ Phạm Hộ Pháp, Cao Thượng Phẩm, Cao
Thượng Sanh, chạy dài theo chiều dọc có hình chữ càn º, các lộ ngang như:
Thượng Trung Nhựt, Oai Linh Tiên, Thái Gấm Thanh ráp thành chữ VƯƠNG (chánh).
Hàng rào tường bao quanh có 12 cửa. Riêng cổng Chánh Môn
cao 36m, ngang 60m, cổ kính Tam quan, trên nóc là 3 Cổ Pháp: “Xuân Thu,
Phất Chủ, Bát Vu” có bản đồ theo sự chỉ dẫn trước của Đức Hộ Pháp.
Cửa Chánh Môn hiện nay, do chi Thế Ngài Bảo Thế Lê Thiện
Phước lúc nắm quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài kiêm Thống Quản Hội Thánh Phước
Thiện phối hợp với tỉnh trưởng Tây Ninh Thiếu Tướng Lê văn Tất xây dựng theo
bản đồ Ty Kiến Thiết Tây Ninh, nên có 2 Rồng tranh Cổ Pháp. Tại sao nói tranh
Cổ Pháp? Vì bản tánh của Rồng là “Long năng biến hóa”, hình Rồng hả
miệng, mình uốn khúc là Rồng tranh Châu thời Phong Kiến Xuân Thu; nay đem tranh
Cổ Pháp, đó là việc làm của Thời Quân Chi Thế.
Đức Lý Giáo Tông dạy: “Thánh Thất tạm cất
trên miếng đất trống. Ngay trung tim rừng cách miếng đất trống chừng 3,50m đóng
một cây nộc, đo Hiệp Thiên Đài như vầy: ngoài Bàu Cà Na đo vô chừng 50m đóng
một cây nộc, ấy là khuôn viên Tòa Thánh.
Lão dặn: Từ cây nộc phía bên miếng đất
đo vô Bàu Cà Na 27m tây. Nghe à!”
Từ vuông 27 thước, mỗi góc của Bát
Quái Đài, nghĩa là hình nhà tròn có tám nóc, cao từ dưới đất lên thêm 9m, phân làm
tám nóc.
Trên Điện Bát Quái Đài bề cao 9m, hình
nóc tròn mô lên có tám nóc phân minh, trên đầu phải để một cây đèn màu xanh, kế
nữa là Chánh Điện bề dài 81m, ngang 27m (81x27 ).
Hai bên Hiệp Thiên Đài mặt tiền có Lôi
Âm Cổ Đài, bên trái có Bạch Ngọc Chung Đài.
Lão phải vẽ mới đặng…”. (Gò Kén ngày 27 tháng 1 Đinh
Mão. DL 28 – 2 – 1927).
Thánh Giáo ngày 7 – 2 – Đinh Mão, Đức Chí Tôn dạy Ngài
Phối Sư Thái Thơ Thanh lo lập Thánh Thất. Ngài bạch: “Xin đúc nền Tòa
Thánh bề cao 9m theo kiểu của Đức Lý Đại Tiên “.
Đức Chí Tôn dạy: “Tốn kém nhiều
lắm con! Bính, con đo từ mé rừng dưới vào cho tới 50m, bỏ miếng trãng vào tới
50m, rồi 81m, rồi kế 27m; làm như vậy Thánh Thất nằm trọn vào rừng mà thành ra
như bao quanh một vườn thiên nhiên rất đẹp…
Khi cất, con nhắm thế nào cho nộc Bát
Quái Đài và Hiệp Thiên Đài cho ngang mặt trời phía Tây thì trúng, con nhớ
nghe!”
Đức Lý Giáo Tông dạy:…
“Cười… Họa đồ của Lão, Chí Tôn chê và
trách rằng: hao tốn vô nền uổng lắm. Chí Tôn sửa lại mỗi cấp ba tấc tây mà
thôi. Dưới đất năm tấc, chín cấp ba tấc là 2,70m cộng 5 tấc là 3,20m. Còn 10m
thì chỉ đầu trong nền Bát Quái Đài. Trên đầu song chí nóc 13m mới khỏi đọng
nước mưa phải mục.
Nóc Đại Điện và Hiệp Thiên Đài
cũng y như vậy. Phải làm plafond hai Đài Chuông, Trống cao hơn nóc Hiệp Thiên
Đài 6 thước”.
1. Đèn vàng ngay nóc Điện Bát Quái.
2. Đèn xanh ngay giữa Đại Điện làm hình Long Mã Phụ Hà
Đồ.
3. Đèn đỏ để Hiệp Thiên Đài.
Do vậy mà Đền Thánh hiện nay xây dựng bằng bê tông cốt sắt
nằm trên Lục Long Phò Ấn, trung tâm Thánh Địa, vẫn còn là tạm; vì Chí Tôn dạy
cất ngôi Tổ Đình trong sân Đại Đồng Xã.
Đền Thánh được khởi công xây cất vào ngày 23 tháng 10 Tân
Mùi (1931), phải trải qua thời gian bốn lần kiến tạo mới hoàn thành vào năm Đinh
Hợi (đầu năm 1948).
1. Lần thứ nhất đào hầm Bát Quái, đổ bê–tông do Ngài Thái
Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh lãnh đạo, rồi bị ngưng trệ vì cuộc nội phản.
(1931).
2. Lần thứ hai do Đức Quyền Giáo Tông và Bà nữ Đầu Sư Lâm
Hương Thanh đảm nhiệm. (1932).
3. Lần thứ ba do Ngài Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh lãnh vận động,
mướn Bác Vật Phan Hiếu Kinh khởi làm Lầu Hiệp Thiên Đài, đúc cột được phần ít
rồi cũng phải ngưng… (1933).
4. Lần thứ tư do Đức Hộ Pháp lãnh đạo khởi công vào ngày
01 – 11 – Bính Tý (1936), tiếp tục kiến tạo đến ngày 30 – 12 – Đinh Hợi (DL 24
– 01 – 1948) mới hoàn thành trọn vẹn.
Phương pháp nào đạt kết quả qua ba lần thất bại
không hoàn thành Thánh Tòa được? – Do Đức Hộ Pháp khéo léo tạo tâm đức cho con
cái Chí Tôn, người Phạm Môn, Phước Thiện đảm nhận tình nguyện trường trai và
thủ trinh hiến thân làm công quả cho đến ngày làm xong Đền Thánh. Nhờ vào đức
tin mãnh liệt đó mới sớm hoàn thành hiện tượng Bạch Ngọc Kinh tại thế.
Trong giai đoạn nầy đến năm Tân Tỵ (1941) nhằm ngày
25–5 phải tạm ngưng vì Pháp bắt Đức Hộ Pháp lưu đày sang đảo Madagascar. Mãi
đến 30– 8–Bính Tuất (1946) Đức Ngài được trở về nước nhà điểm tô thêm bốn tháng
nữa, thợ hồ mới làm lễ bàn giao Tòa Thánh cho Hội Thánh. (03–01–ĐH).
Đức Hộ Pháp cho tổ chức cuộc lễ Khánh Thành Tòa
Thánh trong vòng 10 ngày, kể từ ngày 6 đến 16 tháng giêng năm Ất Mùi (DL. 29–01
đến 8–2–1955), Đức Ngài cho diễn ba vở tuồng cổ: San Hậu, Tiêu Anh Phụng, Hoàng
Phi Hổ Tây Châu.
Đền Thánh là hình trạng Bạch Ngọc Kinh tại thế, kiến trúc
theo Thiên Đình thể hiện cổ kim tổng hợp, đúc kết tinh hoa hai nền văn minh Âu
Á về khoa học lẫn Đạo học.
Từ xa nhìn vào nhận diện nó là con Tu vật: một con LONG
MÃ QUÌ đem nguồn sống vĩnh sanh cho loài người, bởi bên trong nó Pháp giới gồm
có Bát Quái Đài thể hiện Bạch Ngọc Kinh, Cửu Trùng Đài thể hiện Cửu Thiên Khai
Hóa, Hiệp Thiên Đài là hình trạng Cung Hiệp Thiên Hành Hóa trên Diêu Trì Cung
một cảnh giới.
Muốn vào Bát Quái Đài, trước phải vào Hiệp Thiên Đài là cửa
Trời – Người hiệp nhứt, rồi qua Cửu Trùng Đài phải chịu sự khảo dượt của cửu
phẩm Thần Tiên, chịu nổi rồi mới vào Bát Quái Đài được, bằng chẳng phải thối
bước…
Đền Thánh uy nghi như thế, vẫn còn tạm. Sau đây phải xây
cất Tổ Đình theo Thánh Giáo của Đức Chí Tôn mà nền móng Bát Quái Đài đã xây
xong vào năm Canh Ngọ (1930) tại trụ phướng.
Trong Đền Thánh Tượng Hình
Những Gì?
1. Tịnh
Tâm Đài
2.
Khoản giữa từ Hiệp Thiên Đài đến Cửu Trùng Đài.
3. Phần
bên trên nóc.
4. Bát
Quái Đài.
5. Cung
Đạo
Trước hết là Hiệp Thiên Đài, mặt tiền Tòa Thánh có hai
lầu Chuông Trống (Bạch Ngọc Chung Đài và Lôi Âm Cổ Đài) biểu tượng tiếng
nổ “ầm” của hai lằn ngươn khí, Phật gọi tiếng ấy là “úm
ma ni bát rị hồng”, tiếng nổ có âm thanh là tiếng trống, còn tiếng ngân vang
ra là tiếng chuông ngân. Vì thế Đạo giáo Á Đông có đủ trống và chuông do Đạo
xuất ư Đông. Còn Đạo bên Thái Tây chỉ có chuông, không có trống, bởi tiếp thu
Đạo phương Đông truyền qua như tiếng chuông vang vậy.
Hay nói: Đền Thánh tượng trưng hình thể Đức Chí Tôn.
Trước hết là Hiệp Thiên Đài mặt tiền Đền Thánh, gồm có một cửa chánh và 2 lầu
cao gọi Lầu Chuông, Lầu Trống. Cửa Chánh gọi là Chánh Điện, trên Chánh Điện có
bao lơn, có sáu chữ ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ. Trên sáu chữ nầy có Thiên Nhãn. Trên
Thiên Nhãn có mái ngói cửa Chánh Điện, trên nóc có hình Đức Di Lạc cỡi cọp.
Tất cả hình tượng trước mặt tiền Hiệp Thiên Đài là những
biểu tượng ẩn hiện giáo lý bí truyền của Chí Tôn.
Cập hai bên tấm bảng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có hai câu
liễng, với hai chữ “Nhơn” – “Nghĩa”. Câu liễng
bằng chữ Nho:
Bên chữ Nhơn: Hiệp Nhập Cao Đài Bá Tánh Thập Phương Qui
Chánh Quả.
Bên chữ Nghĩa: Thiên Khai Huỳnh Đạo Ngũ Chi Tam Giáo Hội
Long Hoa.
Hai câu liễng dạy chúng sanh làm tròn Nhơn Đạo, tức thực
thi Nhơn Nghĩa, làm xong Nhơn Đạo mới bước qua Thiên Đạo.
- Hai ông THIỆN – ÁC: là con vua Tỳ Kheo: Tỳ Văn và Tỳ
Vũ, do cảnh giác mà đạt vị “Thiện Thần và Ác Thần” soi gương
cho Đạo Giáo hễ biết tu là đắc Đạo.
- Bên trên nóc Phi Tưởng Đài là pho tượng Đức Di Lạc
Chưởng Giáo Tam Hội Long Hoa Bạch Dương Đại hội, Ngài vâng lịnh Đức Chí Tôn
ngồi trên để quan sát chấm công định vị (điểm Đạo).
- Vào Bao lơn Đài, trước cửa có 4 cột: 2 cột Rồng và
2 cột Bông Sen, đó là tượng trưng ý nghĩa 2 chữ LONG HOA. Vậy bước
chân vào Đền Thánh là vào Long Hoa Đại Hội, tức Ngũ Chi Tam Giáo Hội Long Hoa
sau nầy.
- Cây cân Công Bình, có một cánh tay mặt đưa xuống biểu
tượng quyền Thiêng Liêng phán định, nơi cảnh Hư Vô chỉ có Đức Chí Tôn cầm cân
Công Bình mà thôi.
Trên plafond vòm lên thấy một Bát Huệ Huyền Quang, tức
một vòng chuỗi có tám chia hào quang, trên có chùm Sao Bắc Đẩu.
Kết thúc phần ngoại tâm cửa Chánh, năm cấp ngoài bước lên
tượng trưng Thế Giới Ngũ Châu… hay năm phần hành: Nhơn, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Trên plafond có Bát Huệ Dương Quang tại Tịnh Tâm Đài, có
ý nghĩa muốn đạt pháp phải nắm được ba chìa khóa mở cửa Huyền Quang mới qua
được vô hình.
(1) Thứ nhất mở huyệt Vi Hộ gọi Thiên Điều Huyệt (Ấn
Tý).
(2) Thứ hai mở 12 cánh sen tròn của Tâm Điền Huyệt
(Cung Dần).
(3) Thứ ba là Bát Huệ Dương Quang ngay chót lưỡi.
Phương pháp Thần học nầy phải có minh sư hướng dẫn thuần
thục mới đạt kết quả, tự mình không tôi luyện được. (Nguy hiểm).
Có nghĩa vào Đài Tịnh Tâm phải phủi sạch những tạp niệm
phàm tục, giữ lòng trong sạch, thanh thản để vào Nội Điện chầu lễ Chí Tôn và
các Đấng…
Ba Đấng Tam Thánh lãnh sứ mạng Thiêng Liêng truyền Giáo
cho các sắc dân nghe theo tiếng gọi của các Ngài mà nương cơ siêu thoát. Đức
Tôn Trung Sơn (Tôn Dật Tiên) cầm nghiên mực để hai cây bút cùng chấm vào mà
viết nên chữ; đó là tượng trưng cho sự dung hòa giữa Đông và Tây để cùng ký Đệ
Tam Hòa Ước.
Cả ba vị Thánh đều mặc cổ phục đại diện của Hội Thánh
Ngoại Giáo, cho nên để tượng ảnh tại Hiệp Thiên Đài day mặt ra ngoài cho thiên
hạ đều thấy mà hưởng ứng theo tiếng gọi Thiêng Liêng của các Ngài. Kể từ ngày
10–7–Mậu Tý (1948), tượng ảnh Tam Thánh đã đặt lên khuôn vách Hiệp Thiên Đài là
biểu hiện cho chủ nghĩa Đại Đồng của Cao Đài Giáo, mở đầu giai đoạn tiếp dẫn
Chúng Sanh Vạn Quốc vào cửa Đạo…
- Chữ KHÍ là khí Sanh Quang tức
là Trời.
- Mười tám cột Rồng hai bên
tượng trưng các Đấng Chơn Linh chầu Chí Tôn nơi Bạch Ngọc. Khoản giữa có lối đi
từ Hiệp Thiên Đài đến Bát Quái Đài có viền gạch phân rõ ba màu, ấy là tượng
trưng Tam Giáo, chín cấp bậc của mỗi bên Nam phái và Nữ phái. (Đường Tam Giáo ở
giữa từ bậc thứ ba đổ lên).
· Hai cửa
hông nơi Hiệp Thiên Đài là Sanh Môn Quan.
· Tại cửa
hông của Đền Thánh, phía trên là Nghinh Phong Đài, có tượng hình Long Mã chạy
về hướng Tây, ngoái đầu về Đông; Tượng trưng Đạo xuất ư Đông là chuyển Đạo Nam
phương rồi truyền ra Tây Phương (Á Châu và Âu Châu).
Ngay dưới Nghinh Phong Đài là Tử Môn Quan có lót 24 tấm
gạch đen cũng gọi là Quỉ Môn Quan đường về Thanh Tịnh Đại Hải Chúng. Kim Mao
Hẩu là vật giữ cửa Bạch Ngọc Kinh, muốn vào được Bạch Ngọc Kinh phải qua Kim
Mao Hẩu. Ý nghĩa về phần hữu hình là muốn vào được Đền Thánh phải diệt thất
tình.
Đoạn đường Tam Giáo có những rắc rối như:
“Con đã đứng vào chín phẩm Thần Tiên,
nhưng không giữ giới răn pháp luật chơn truyền, không vào Bát Quái được, phải
chạy xuống gặp Tử Môn Quan có Khổn Thiên Thằng sợ bị trói buộc, rồi chạy xuống
Sanh Môn Quan cửa bị đóng. Nghẹt lối, hết đường đi, buộc phải trở lại Tử Môn
Quan, chạy tuốt ra ngoài dậm cẳng kêu Trời, Trời chẳng ngó, kêu Đất, Đất làm
thinh. Giận quá, tức mình đầu thai một lần nữa, ấy là đường Quỉ Môn Quan”.
Hiệp Thiên Đài có 36 Cổ Pháp: Thiên
Nhãn phía trước ngó ra có 36 chia. Nhưng Đức Hộ Pháp dạy đắp 35 chia, có ý nghĩa;
Tam Thập Ngũ Môn Sanh Thiên Căn, để làm chứng cho 36 chữ lời thề của Tín Đồ Cao
Đài, tức đóng cửa Phong Đô do quyền năng của Hộ Pháp “Ném thử Giáng Ma
đóng Cửu Tuyền” kể từ ngày 10–4–Kỷ Hợi (DL. 17–5–1959), theo Đại ân Xá
của Đức Chí Tôn.
Ba mươi sáu chữ trong câu lập thệ: “Thề rằng từ
đây biết một Đạo Cao Đài Ngọc Đế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư môn đệ
gìn luật lệ Cao Đài, như sau có lòng hai thì Thiên tru Địa lục”. (Bên trong
phi Tưởng Đài là nơi Giáo Tông và Hộ Pháp thông công cùng Đức Chí Tôn).
Cửu Trùng Đài: Hai mái ngói khoảng giữa Nghinh
Phong Đài, mái ngói phân ba thành chữ Bát Quái là Càn tam liên
º (Dương) có 360 cù lá dằn đầu mái trên nóc Đền Thánh “Đầu
dằn xuống ló đuôi” có nghĩa muốn tu phải: “Đừng nói, đừng
nghe, đừng thấy, tức tam tịnh mới được yên bình…”
Tám rồng đen bị dằn dưới trái đất (địa
cầu).
Nhờ thời kỳ ân xá mới có tám Rồng Đen ló đầu lên, vì
trước kia chỉ có một Rồng Đen quậy làm cho Châu Ắt–lăng–tíc (Atlantis) chìm sâu
xuống Đại Tây Dương. (Nhiệm vụ Hắc Long là thủ Thiên Cung, mưa phun nước, nắng
ngậm lại, tuân luật Thiên Đình nghinh tiếp các Chơn Hồn qui Thiên. (Bên trên là
Nghinh Phong Đài, dưới là Địa Tịch Đài).
Trên nóc Bát Quái có tượng hình Tam Thế Phật: “Brama
Phật day mặt về hướng Tây, cỡi Thiên Nga trị đời Thượng Nguơn Thánh Đức. Civa
Phật day mặt hướng Bắc đứng trên thất đầu xà trị đời thời kỳ Trung Nguơn, thổi
ống sáo diệt thất tình, thức tỉnh Nhơn sanh. Christna Phật day mặt hướng Nam,
cỡi con Giao Long đi cùng khắp chơn Trời góc bể rước các Chơn Hồn. (Khai Nguơn
chuyển thế ba lần, Đức Chí Tôn có ba xác thân gọi là Tam Thể Chí Tôn.) Nay Hạ
Nguơn, Đức Chí Tôn đến chuyển Đạo vô vi để hiệp nhứt Đạo Giáo, nên Tam Thể
tượng hình trên nóc Bát Quái Đài để độ rước các Chơn Hồn, vì chủ của Bát Quái Đài
là Đức Chí Tôn.
Phần dưới của Bát Quái Đài có
tám Rồng Bạch chầu Bát Quái nhằm thời kỳ Bạch Dương Đại Hội, và Càn Khôn trên
Bát Quái Đài, tức Bát Quái Đài biến sanh ra Càn Khôn Thế Giái và vạn vật…”
Từ Cửu Trùng Đài vào Bát Quái Đài, phải đi qua Cung Đạo.
Trên plafond có hình Đức Hồng Quân Lão Tổ là Đấng phân định âm dương do Thượng
Đế hóa thân làm Thầy Tam Giáo: Nho–Thích–Đạo. Biểu hiện của Tam Giáo là: (Nho)
Xuân Thu, (Đạo) Phất Chủ, (Thích) Bát Vu, Cơ Xâm của Tiên, trái tim của Thánh Giáo.
Từ trước loài người miệt mài tầm
Đạo, ngày nay Đức Chí Tôn để Đạo trước mắt cho nhơn sanh thức tỉnh tu hành lập
nghiệp Thiêng Liêng là quê hương thật của linh hồn. (Hình tại Cung Đạo
là Hồng Quân Lão Tổ, chớ không phải hình của Thượng Phẩm).
PHẦN TƯ
Bên Ngoài Đền Thánh
1 - Tổ
đình trong sân Đại Đồng Xã.
2 - Cội
Bồ Đề
3 - Tìm
hiểu ngựa Phật Tổ trong sân Đại Đồng
Xã.
4 - Ba
ngôi tháp “Thượng Sanh – Hộ Pháp – Thượng Phẩm”
5 -
Cổng Chánh Môn
6 -
Tháp Tiếp Đạo xây trong nội ô là phạm pháp.
7 - Mặt
tiền Đền Thánh day hướng Tây
8 -
Hình thể Đền Thánh: một con Long Mã quì
1 - Tổ đình trong sân Đại Đồng Xã.
Vâng lịnh Đức Chí Tôn dạy cất Tổ Đình tại sân Đại Đồng
Xã, giữa hai cụm rừng Thiên Nhiên, nên Đức Cao Thượng Phẩm lo phá rừng cho tới
Bàu Cà Na, vì có Thánh Giáo Đức Lý Giáo Tông dạy xây Động Đình Hồ tại Bàu Cà
Na.
Đức Chí Tôn dạy đổ nền Phật Tổ trước và đào móng xây Hiệp
Thiên Đài, Cửu Trùng Đài, Bát Quái Đài. Nền Bát Quái Đài hao tốn
nhiều vật liệu, nên Hội Thánh cho cắm nọc lấy ranh nền HTĐ, CTĐ vô tới Bát Quái
Đài đào hầm Bát Quái Đài trước, cho công quả đi đào sạn ở các nơi đem về đổ hai
bên mé rừng Thiên Nhiên, phía tay mặt có cất nhà lá để rửa sạn dựa mé rừng.
Khi Hội Thánh cho xây hầm Bát Quái Đài thì tất cả nhân
viên công quả đều ra gánh đất đem về đổ vào rừng Thiên Nhiên (chỗ thơ viện bây
giờ).
Buổi Đạo mới phôi thai, Hội Thánh còn nghèo, không
thể tạo tác Tổ Đình nổi, nên Đức Chí Tôn dạy cất Tòa Thánh tạm hiện thời, ngày
sau con cái Đức Chí Tôn đến xây Tổ Đình thiệt thọ, đó là Hội Thánh tương lai
đời Giáo Tông tịch Đạo “ĐẠO TÂM”. Nền móng hầm Bát Quái Đài đã xây xong vào năm
Canh Ngọ (1930) đã lấp lại, địa điểm trong sân Đại Đồng Xã từ nền trụ phướng
đến Cội Bồ Đề.
Trong lúc đào Hầm Bát Quái, kích thước thế nào đó
mà làm “lát” hết một mình Rồng, Đức Hộ Pháp có đến xem và nói
rằng: “Đến năm Dần, Rồng phục sinh”. Quả nhiên đúng vào ngày
22–4–Nhâm Dần (1962) sân gạch tàu nơi nền trụ phướng ở phía ngoài tự nhiên gạch
nổi dòng mô lên như máng xối lật úp, hai tấm gạch dựng lên mà đường ron hồ xi
măng ba mặt vẫn còn nguyên không bể gãy. Đường gạch nổi một cách diệu kỳ, quanh
co uốn khúc như Rồng lượn trên sân gạch. Hội Thánh để nhân sanh xem việc lạ có
cả tuần nhựt, đó là ngày Rồng bị lát phục sinh, cũng là phép nhiệm “Long
năng biến hóa”.
Nguyên nhân nào Đức Hộ Pháp cho trồng cây Bồ Đề trong sân
Đại Đồng Xã trước mặt tiền Đền Thánh và sau ngựa Phật Tổ, có ý nghĩa gì?
Bồ Đề, Xá lợi Phật là hai báu vật của Phật Giáo Tây Thiên
Trước, do vị Đại Đức NARADA THERA Phó Giáo Tông Phật Giáo Tích Lan hiến cho Đạo
Cao Đài vào ngày 15–5–Quí Tỵ (1953), được Hội Thánh tiếp nhận long trọng và Đức
Hộ Pháp thuyết minh ý nghĩa của Ngọc Xá Lợi Phật và cây Bồ Đề tại Đền Thánh…
Đến năm Ất Mùi (1955), sau lễ vía Đức Quan Thánh Đế Quân
nhằm ngày 24–6–Ất Mùi, Đức Hộ Pháp cùng Chức Sắc Hội Thánh ra sân Đại Đồng Xã
trước trụ phướng để trồng cây Bồ Đề.
Cách trồng: Đức Ngài ra lịnh Công Viện cho thợ đào hầm
sâu xuống đụng đá, rồi xây bầu tròn như hiện nay, cho đổ vào hầm hơn 20 xe phân
bò đề bón phân cho cây, điều đó chứng tỏ cho sự lâu dài… Khi khởi sự trồng, Đức
Ngài dạy vị Lễ Sanh Thái Thu Thanh đương thủ lãnh Bảo Thể, bưng chậu cây Bồ Đề
đặt xuống hầm trồng; kế Đức Hộ Pháp lấy dá xúc ba dá đất lấp vào gốc cây Bồ Đề,
duy có lấy cái Mão của Đức Ngài xuống trước khi trồng cây quí. Lúc đó có số
Chức Sắc Hội Thánh cũng định góp phần trồng cây Bồ Đề, nhưng Đức Hộ Pháp chỉ để
cho vị Lễ Sanh đặt chậu cây vào bồn trồng mà thôi.
Điều nầy có lẽ Đức Hộ Pháp đã tiên liệu để cho Nhơn sanh
trồng, tức Nhơn sanh phải gìn giữ đúng như pháp định thời gian qui nhứt, còn để
cho Chức Sắc Hội Thánh Trồng thì cây Bồ Đề bị chuyển hệ! (Lễ
Sanh là Đại diện Nhơn sanh).
Nên tìm hiểu nguyên nhân nào ngày khai Đạo tại chùa
Gò Kén (Từ Lâm Tự), Đức Chí Tôn dạy Ngài Thái Thơ Thanh đúc tượng Phật Thích Ca
để trước Hiệp Thiên Đài tại Từ Lâm Tự, có ý nghĩa gì?
Để trước Hiệp Thiên Đài là cửa Trời Người hiệp nhứt
trong mối Đạo Trời khai gồm có Tam Giáo Phật – Thánh – Tiên, mà Phật là trước,
nên tượng hình Phật Thích Ca cũng vốn là Thầy. Thầy mượn cửa Thiền để thâu phục
các Hòa Thượng Thích Giáo và giống dân Tần Quốc. Tượng ảnh nầy là Phật Thích
Ca, chớ không phải Thái Tử Sĩ Đạt Ta cỡi ngựa, vì Ngài đã thành Phật Tổ gần ba
ngàn năm. Hay nói cách khác Thái Tử Sĩ Đạt Ta là hóa thân của Phật Tổ.
Thánh Giáo tại chùa Gò Kén ngày 27–1–Đinh Mão (DL.
28–2–1927). Đức Lý Giáo Tông dạy: “Hình Phật Thích Ca trước Hiệp Thiên
Đài đó phải làm thế nào đừng cho hư gãy, vì Chí Tôn đã trấn Thần chính nơi tay
Người nghe! Dặn khi đến Thánh Thất mới, phải cầu Chí Tôn trấn Thần lại nữa”.
Đức Chí Tôn nói với Hòa Thượng Như Nhãn:
“Như Nhãn Hiền Đồ, Thầy không muốn nói
với con bằng tiếng Hớn ngôn, vì tiếng An Nam từ đây Thầy cho là chánh tự đặng
lập Đạo của Thầy. Nên buộc phải nói rõ với con! Con đã giúp Thầy gìn giữ Thích
Đạo nguyên luật từ thử mới còn đặng như vầy, không thì ra Bàn Môn Tả Đạo rồi…”
Thánh Ngôn ngày 9–3–Kỷ Tỵ (DL. 18–4–1929), Đức Chí Tôn
dạy về việc xây Tháp cho Đức Cao Thượng Phẩm như vầy: “Các con…Cười…
Ấy! Cũng tại Thầy mà các con lộn xộn cùng nhau… Cười… Thơ! Con cũng phải, mà
Bính cũng phải! Lỗi ấy nơi Thầy. Bính! Chớ chi con lấy năm lần chín (5 x 9 =
45) thì con đã trúng rồi đó, con lại sợ thằng… Sang đứng cận đường, song cũng
còn xa đó con, không hề gì.
Hai con muốn đem vào cây ba nhánh một
chút nữa càng tốt, nhưng đã lỡ rồi, cứ để y.”
Theo Thánh Ngôn dạy trên, thì ba ngôi Tháp cách nhau 45
thước, lấy tháp Hộ Pháp làm trung tâm và Tháp của Thời Quân không có trước mặt
tiền Tòa Thánh, vì sao vậy? (Xem thêm nơi“Phần đất xây Tháp Thời Quân”.)
Để rõ hơn, ngày 7–3–Kỷ Tỵ, Đức Chí Tôn dạy:
“Thơ! Con xây Tháp Cao Thượng Phẩm trước cây ba
nhánh, day về hướng Đông, giống như ngó vào Điện hầu Thầy vậy… Đừng làm như
Tháp Bảo Đạo, vì phẩm vị khác nhau…”. (Không dạy rõ khoản cách, nên nói lỗi
tại Thầy là vậy).
Cổng Chánh Môn theo họa đồ của Đức Hộ Pháp chỉ dẫn: “Cao
36 (ba mươi sáu) thước – cổng giữa ngang 60 m , cổ kín tam quan, trên nóc để
Cổ Pháp”. Họa
đồ nầy có Đức Thượng Sanh xác nhận bằng Huấn thị đọc trong ngày đặt viên gạch
đầu tiên xây cổng theo kiểu của Ngài Bảo Thế, là: “Đã từ lâu Hội Thánh
có ý định xây cửa Chánh Môn theo bản đồ của Đức Hộ Pháp, mãi đến hôm nay mới có
cơ hội”.
Huấn từ của bậc kế thừa đọc như vậy, mà cửa vẫn xây dựng
theo bản đồ của Ty Kiến Thiết Tây Ninh, tức của Quan Tỉnh Trưởng Thiếu Tướng Lê
Văn Tất. (Xem bài tường thuật diễn tiến ở phần sau).
Thế nên, sau 14 năm lãnh đạo Giáo Hội, Đức Thượng Sanh không
nghĩ đến việc Khánh Thành Cổng Chánh Môn, vì có hai Rồng tranh Cổ Pháp.
(Xem ảnh Cổng Chánh Môn ở phần cuối trang này)
Từ ngày 15–4–Đinh Dậu (1957), Đức Thượng Sanh về Tòa
Thánh cầm giềng mối Đạo, Ngài chỉ huy chi Thế, nên không có nắm Pháp.
Khi Ông Tiếp Đạo Cao Đức Trọng qui liễu, lại an táng
trước mặt tiền Tòa Thánh, bên cạnh cửa chánh, phía tay trái, bên trong ngó ra.
Thánh Thơ số 17, ngày 6–6–Mậu Tuất (DL. 22–7–1958) của
Đức Hộ Pháp nơi Hải Ngoại (Nam Vang) truyền phán như sau: “Vụ đám Ông
Cao Tiếp Đạo, Qua nghe tin, Qua rất mừng, nhưng mà xây Tháp chỗ ấy phạm mạng
lịnh của Đức Chí Tôn đã dạy trước là: “Trước Đền Thánh chỉ có ba cái Tháp mà
thôi: Tháp Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh. Còn Thập Nhị Thời Quân không có ở
đó. Vì sự quyết ấy mà chính mình Qua phải mua đất tư đặng chia cho mỗi người
nửa mẫu tây (0 Ha 50), để cho họ lập nghiệp và
xây Tháp, cho con cái của họ ở đặng gìn giữ hương hỏa, luôn cả các môn đệ của
họ có thể làm ăn và làm nơi hội hiệp”.
Sự thể là như vậy, Thánh Giáo Đức Chí Tôn dạy trước Đền
Thánh chỉ có ba ngôi Tháp Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh đúng vào ngôi vị
trong Đền Thánh, còn Thời Quân không được xây Tháp nơi đó.
Khi Thánh Thơ nầy đến Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang, Đức
Ngài ra lịnh dời liền. Điều nầy chắc không còn gì lạm bàn thêm nữa, nếu có là
sai.
Đạo xuất ư Đông, nên Đạo Cao Đài được Đức Chí Tôn khai
lập trong Miền Nam Việt Nam thuộc tỉnh Tây Ninh cũng hướng Đông. Khi truyền Đạo
cũng khởi đầu các Tỉnh phía Đông, rồi lần lượt truyền ra các tỉnh Miền Tây Nam
Phần.
Nước Việt Nam có ba phần: Nam – Trung – Bắc. Ngày nào
miền Bắc Việt Nam Đạo thạnh hành như Miền Nam, chừng đó Đạo mới xuất dương
hoằng hóa khắp ngũ Châu, tức từ phương Đông ra phương Tây theo bài Thi tứ tuyệt
của Đức Chí Tôn đã dạy như sau:
“Từ thử nước Nam chẳng Đạo nhà,
Nay ta gầy dựng lập nên ra…”
Để hiểu rõ ba Miền và Đạo xuất dương theo bài thi:
“Từ đây nòi giống chẳng chia ba,
Thầy hiệp các con lại một nhà.
Nam Bắc cùng rồi ra ngoại quốc,
Chủ quyền Chơn Đạo một mình ta.”
Đến ngày ấy là Đại Đồng Tôn Giáo, Vạn loại sẽ là một khối
do Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế chủ quản, Tam Giáo Ngũ chi không còn riêng biệt
nữa. Biểu tượng hình Long Mã Phụ Hà Đồ trên nóc Nghinh Phong Đài Đền Thánh, từ
Đông chạy qua Tây; ấy là Đạo khai phương Đông rồi truyền ra phương Tây. Long Mã
ngoái đầu cũng có nghĩa buổi Đạo khai tại Đông Phương là nước Việt Nam cũng vào
thời kỳ Hạ nguơn.
Về mặt Bí Pháp, nước có Đạo sẽ được vi chủ hoàn cầu như
hai nước trước đây Ấn Độ và Trung Hoa vậy. Riêng Việt Nam ứng vào câu:
“Một nước nhỏ nhoi trong vạn quốc,
Mà sau làm chủ mới lạ kỳ”.
Đó là Hồng Ân Chí Tôn ban cho nước có Đạo nhà.
Hướng Tây là cung Đoài tức cung Đạo, nên tượng hình Long
Mã là đem Đạo cho đời.
Đền Thánh có hình thể con Long Mã quì mang hai chữ “Nhơn–Nghĩa” là
đạo Trung Dung của Đức Khổng Tử, vì có nhơn nghĩa mới có thương yêu, thực hiện
đạo lý nhơn nghĩa ấy là chìa khóa mở cửa Bạch Ngọc Kinh. Đạo khai kỳ nầy để tận
độ toàn thể nhơn loại, nên Đức Chí Tôn buộc phải thương yêu làm phương cứu cánh
tự giác và giác tha, nếu không đủ sức thương yêu thì không đặng quyền ghét.
Đền Thánh là nguồn cội Đạo, là bóng mát từ bi, là nguồn
suối vĩnh sanh tắm mát linh hồn, là phướng siêu sanh của Vạn linh sanh chúng.
8.1 - Một chữ Sơn
Sự tổng hợp ngoại thể ngôi Đền Thánh từ Đông Lang, Tây
Lang thành một chữ “SƠN”, bên trong nơi Bát Quái Đài là chữ “CHỦ”,
khoảng giữa Cửu Trùng Đài là chữ “TRUNG”, nơi Hiệp Thiên Đài là
chữ “NHỨT”. Chung kết là qui nhứt Đạo Giáo do Chí Tôn làm chủ, theo
tôn chỉ Đạo Cao Đài khi vào Đền Thánh là vào Long Hoa Đại Hội.
8.2- Mặt tiền hai bên là chữ Lâm
Thời gian sau đây, Hội Thánh tương lai sẽ cất ngôi tổ
Đình trong sân Đại Đồng Xã thì tượng chữ “Lâm” rất rõ ràng,
chữ Sơn ở giữa hai cánh rừng Thiên Nhiên là chữ Lâm.
Đó là tất cả dịch lý cũng là dấu hiệu Chúa tái lâm đến
nơi Đền Thờ Cha Ta có hai chữ “Sơn Lâm”.
Thánh địa Tây Ninh cũng là nơi Chư Phật, Tiên, Thánh
xuống trần để dự Đại Hội Long Hoa vào năm Tý… Ngày ấy là ngày Đại Từ Phụ sẽ
giáng lâm mừng con cái của Ngài đắc quả đạt vị theo “Bộ Công Di Lạc Tam
Kỳ Độ Sanh”, thì vàn vàn Thần, Thánh, Tiên, Phật chầu hầu, hộ giá hào quang
chiếu khắp Thánh Địa là Cực Lạc tại trần gian.
Điều nầy cũng chẳng lạ, vì Đức Chí Tôn đã đến Đền thờ Tây
Tạng vào năm 1917, để an ủi, giáo hóa con cái yêu dấu của Ngài và hứa rằng cứ
50 năm Chí Tôn sẽ đến…
Trên thế giới có ba ngôi Đền Thờ Ngài: Một La Mã, hai
Jerusalem, hai nơi nầy Đức Chí Tôn đã đến bằng hình ảnh Thiêng Liêng. Vậy thì
Đền Thánh là ngôi thứ ba Đức Đại Từ Phụ sẽ đến vào ngày Long Hoa Đại Hội, vì
chính Đạo Cao Đài do Đức Chí Tôn giáng linh lập thành, thì chắc chắn rằng ân
huệ sẽ đủ đầy…
Trấn Pháp Đền Thánh
(Báu Vật Lấy Từ Núi Bà là Ngũ Thạch).
1.
Chuyến đi núi lần thứ hai của Đức Hộ Pháp.
2. Một
chuyện lạ hai tháng sau tại Đền Thánh.
3. Lễ an vị quả Càn Khôn.
4. Tòa
Nội Chánh Cửu Trùng Đài (1933).
5. Sự
biến hóa của Tòa Nội Chánh.
6. Báo
Ân Từ Tòa Thánh.
7. Sao
gọi là Oai Linh Tiên lộ?
Trước ngày Lễ Trấn Thần Đền Thánh 6–1–Đinh Hợi (1947),
Đức Hộ Pháp dạy số người Phạm Môn vô chân núi, phía Suối Đá ngó qua để tìm
miệng hang.
Vâng lịnh Đức Thầy, bốn người Phạm Môn đi tìm suốt ba
ngày mà không gặp, phải về báo trình lên Đức Tôn Sư Hộ Pháp hay sự việc.
Đức Thầy chấp bút, được các Đấng mách bảo Đức Hộ Pháp cứ
đi, có Sơn Thần hướng dẫn.
Tiếp nhận lịnh trên, Đức Thầy chọn 5 vị Phạm Môn cùng đi.
Quả thật đúng như lời Thiêng Liêng hướng dẫn đến một lùm cây, dây mây phủ kín,
đứng ngoài trông lên nhận diện được miệng hang, Đức Thầy dạy phải dọn đường cho
trống, chặt gai, ruồng cành cây vô tận miệng hang cho tiện đường đi.
Sau khi dọn lùm dây mây phủ kín, quả thật có miệng hang,
đường vào hang sâu, phải nhờ đèn dầu chai cháy sáng rọi lối đi…
Đi như thế rất lâu, đến một nơi có ánh sáng bên ngoài
chói vào làm sáng lối đi; đường trong hang chỗ rộng, chỗ hẹp, có chỗ phải
nghiêng người mới qua lọt, lại có chỗ khom lưng đi qua.v…v…
Sáu Thầy trò lần bước đi lần theo vách đá chập chồng ngổn
ngang dưới chân. Đi mãi như thế rất lâu mới tới một cái sân rộng có đủ các loại
thú rừng như: chim, rắn, cọp, beo, voi. Đến đây số người đi trước thấy thế
hoảng sợ phải thối lui lại.
Trường hợp bị thú rừng cản đường xẩy ra, có lẽ số thú nầy
có phận sự canh giữ đường hang huyền bí. Lúc bấy giờ Đức Thầy Phạm Hộ Pháp tiến
lên đi trước, ngộ nghĩnh thay! Khi Đức Thầy vừa đi đến thì các loài thú vẹt ra
tránh đường, đầu cúi mạp xuống dường như cung kính chào mừng.
Đến khoảng đường nầy dường như lên dốc cao. Đi độ hai giờ
nữa lại gặp một ao sen, hoa lá rất to, lá sen lớn cỡ cái nia. Qua khỏi ao sen
một khoảng thật xa mà hương thơm vẫn còn bát ngát. Mùi thơm của hoa sen làm cho
sảng khoái tâm thần, đi lâu mà không thấy mệt mỏi gì cả.
Đi như thế rất lâu, đến một nơi có ánh sáng chói lòa, mắt
thường không nhìn thẳng vào được, một điều rất lạ là không còn đi nữa được! Có
lẽ nơi phải đến đã đến! Làm cho số người đi phải dừng lại, kẻ đứng, người ngồi;
duy có một mình Đức Thầy đi đến chỗ có ánh sáng ấy… Không biết Đức Thầy làm gì,
thời gian là bao lâu, vì tất cả năm người đều bị ngủ mê…
Cho đến khi Đức Thầy trở ra đánh thức dậy nhìn vào chỗ có
ánh sáng lúc ban đầu thấy dịu bớt, không còn chói lòa như trước nữa.
Kỳ diệu thay! Song không biết là báu vật gì. Kế Đức Thầy
ra lịnh trở lên miệng hang, khi trở về đi nhanh hơn vì đã quen đường cũ. Sáu
Thầy trò thông thả ra tới miệng hang, nhìn mặt trời lên cao độ 9–10 giờ sáng;
tính ra đường đi vào hang sâu mất một ngày, đêm (có hơn 24 giờ).
Lạ một điều, không ai thấy đói, khát và mệt mõi chi hết.
Lúc khởi đầu đi chỉ uống một lần nước thạch nhũ mát lạnh, có hương vị ngọt làm
cho khỏe mạnh lạ thường.
Khi vào hang huyền bí nầy với hai tay không, lúc
trở về Đức Thầy cầm trên tay một cái hộp gói vải điều…
Qua hai tháng sau, vào một buổi chiều gần giờ tan sở, Đức
Thầy dạy mấy em thợ hồ trộn sẵn cho Đức Thầy một thùng hồ để sẵn sàng đó, Đức
Thầy có chỗ dùng… Dạy xong, Đức Thầy về Hộ Pháp Đường, thay Đạo Phục, qua Báo
Ân Từ cầu nguyện Đức Chí Tôn. (Quả Càn Khôn lúc Bấy giờ tạm thờ tại Báo Ân Từ
để làm Tòa Thánh từ năm 1931 đến năm 1947).
Lễ cầu nguyện vừa xong, Đức Thầy cùng đi với ba vị Phạm
Môn: Trung, Mậu, Út đồng bách bộ đến Đền Thánh (chỗ Giáo Hữu ngồi cúng), đều
đứng lại tại đây; rồi Đức Thầy tự tay xách thùng hồ đi thẳng vào Bát Quái Đài,
một lúc khá lâu… Khi Đức Thầy trở ra với cái thùng “không”, không
còn hồ xi–măng nữa. Lúc nầy ba anh em chúng tôi không biết Đức Thầy làm gì và ở
đâu.
Vì tách tọc mạch, muốn khám phá sự bí mật, sau khi ra về,
hai ông: Lê văn Trung và Trần Thạnh Mậu trở lại vô Đền Thánh, vào thẳng Bát
Quái Đài tìm kiếm dấu vết hồ mới rất lâu và rất kỹ mà vẫn không thấy dấu hồ
mới. Thật là kỳ bí…
Ngày 6 tháng giêng Đinh Hợi (1947) lễ rước Quả Càn Khôn
tạm thờ nơi Báo Ân Từ về Đền Thánh. Đức Hộ Pháp hành pháp trấn Thần An Vị. Khi
đến Ngai Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh, Đức Ngài thuyết minh tiên tri ngày
về của người đứng đầu chi Thế:
“E sau nầy Hộ Pháp xuất ngoại, Thượng
Sanh về ngự nơi đuôi (ngôi Thượng Sanh trên đuôi thất đầu xà), thì thất tình
lục dục tự do dấy động, cái loạn không phương kềm chế…”
“Ngày Hộ Pháp trấn lại trên Ngai, mới
êm tịnh Đạo Đời, lập lại tháng Thuấn, ngày Nghiêu, hưởng thuần phong mỹ tục”.
Trong Nội Ô Tòa Thánh có điều đáng lưu ý nhứt là Tòa Nội
Chánh Cửu Trùng Đài, cất phía Bắc Đền Thánh, cập Quốc lộ 13, con đường số 13
nầy phân ranh giữa Nội Ô và Ngoại Ô Đền Thánh. Nói rõ hơn, Tòa Nội Chánh nằm
bìa trong Nội Ô về hướng Bắc, tức là từ hướng Bắc đi vào thì gặp ngay Tòa Nội
Chánh.
Cho nên khi cất Tòa Thánh, Đức Hộ Pháp cũng cho xây
Tòa Nội Chánh và Đức Ngài nói; “Bần Đạo cất Tòa Nội Chánh để áng hơi
thở của con Cù, vì mỗi lần nó thở, nền Đạo chinh nghiêng …”
Năm Quí Mão (1963) có cuộc thay đổi, chế độ độc tài Ngô
Đình Diệm, buộc Đạo phải sửa đổi các danh từ dinh thự, như: “Pháp Chánh
HTĐ đổi lại Pháp viện, Tòa Nội Chánh đổi lại Cửu Trùng Đường” phù hợp
với câu:
“Đài phương phúc địa giáng linh,
Cửu Trùng thụy ứng Long Thành ngũ vân”.
Ngũ tường vân là một hội Rồng Mây… Ấy là một trấn pháp,
che mặt hông Đền Thánh.
Từ cửa Hòa Viện số I chánh Bắc (Thủy) đi vào Nội Ô trung
tâm Thánh Địa, trước thấy văn phòng Nội Chánh CTĐ, nơi làm việc của Cửu viện và
ba Chánh Phối Sư.
Qua vườn hoa kiểng (mới làm sau), rồi tới Đền Thánh, đoạn
đường nầy nằm bên ngoài bao lơn HTĐ, tức áng lỗ tai con Long Mã (bên Nữ phái)
bảo vệ Sanh Môn Quan cho phái yếu…
Trái lại, bên Nam phái, từ phía Nam đi vào Bạch Ngọc Kinh
tại thế, thì Hiệp Thiên Đài nằm nơi Đại lộ Phạm Hộ Pháp, tức là Đạo Pháp để
trước mắt nhơn sanh tự tri, tự giác vào cửa Sanh Môn Quan để đến Cung Đạo trình
diện Đức Chí Tôn, gọi là Pháp Luân Thường Chuyển (Lễ Hoán Đàn khi cúng Đại Lễ).
Trước cuộc biến thiên, Chức Sắc bị thâu quyền chức, lúc
đó có con Mễnh chạy vào Tòa Nội Chánh, đụng đầu vô cột chảy máu, rồi chạy ra
Quốc Lộ số 13, bị bắt làm thịt trong năm Đinh Dậu (1957).
Đức Hộ Pháp phê dạy như sau:
“Con Mang đem tin tại Nội Chánh đã tỏ
ra rằng: Cơ khảo đảo do căn nguyên nơi Nội Chánh. Nếu ta tin nơi quyền năng
Thiêng Liêng thì ta có thể nói rằng: Nếu không có quyền năng vô đối của Đức Chí
Tôn thì cả Chức Sắc Cửu Trùng Đài nơi Nội Chánh bị nạn tiêu diệt mà chớ, chẳng
phải như thế mà thôi!”
Vậy Bần Đạo nói: Cơ khảo đảo ngưng cả
quyền tước của Chức Sắc Thiên Phong là cốt trừ cái nạn diệt vong của Nội Chánh.
Vậy Bần Đạo khuyên họ ráng chịu cho tới ngày Bần Đạo trở về nước”.
Ngày 01–01–Đinh Dậu.
Quả nhiên đến năm Giáp Thìn (1964), 10 vị Đại Thiên Phong
từ Phối Sư đến Giáo Hữu: 5 ông hồi hưu dưỡng lão, 5 ông bị ngưng quyền chức
15–4– Đinh Dậu (26–5–1964). Theo câu chót thì lời phê nầy vẫn còn hiệu lực cho
đến ngày Đức Hộ Pháp trở về nước nhà, các tai nạn mới được chấm dứt.
Còn hai trường hợp nữa cũng do con Mễnh mang tin chẳng
lành: Năm Mậu Tuất (1959), một con Mễnh chạy vào Nội Ô bị té giếng. Sau đó Ông
Ngọc Hoài Thanh bị Gián Ma Xử chết. Một con Mễnh khác chạy vào nội Ô năm Ất Mùi
bị què chân, được Đức Hộ Pháp giải nạn đưa xuống Trí Huệ bảo dưỡng, chờ đi được
rồi phóng sanh, nên nạn tai được nhẹ.
Mang, Mễnh là con vật đem điềm bất thường.
Báo Ân Từ là Văn Đài của Đức Chí Tôn, nơi phụng tự các
bậc tiền Thánh hữu công cùng Đạo gọi là Điện Báo Ân. Nơi Chánh Điện hiện nay
tạm thờ Phật Mẫu, Vì Đền thờ chánh thức Đức Phật Mẫu chưa cất, chờ ngày nào
toàn con cái của Mẹ biết thương yêu nhau thật sự thì Đức Đại Từ Mẫu cho cất Đền
Thờ Bát Cảnh Cung có hình Nam Bình Vương Phật mặc áo cà sa.
Còn đây là Báo Ân Từ, bản đồ thiết kế do Đức Hộ Pháp phác
họa, có tám cung cảnh, trên plafond có một hình Rồng, đầu ở cung thứ tám, đuôi
ở căn giữa và căn đầu. Thế là một Rồng thể Dương. Phần dưới thì có ba gian song
song thể cung Càn, gồm 2 âm, 1 dương (nữ 2, nam 1). Trên nghi thờ thì 2 dương,
1 âm. Thể hiện Đạo Pháp trong dương có âm, trong âm có dương. Âm Dương tương
hiệp hóa sanh vạn vật. Âm Dương phát tán là đạo lý của Dịch.
Khái quát Nội Ô, qua lộ Oai Linh Tiên để ra ngoài ngoại ô
gồm có Châu Thành hạ và Châu Thành thượng theo cung cảnh tứ phương Đông, Tây,
Nam, Bắc.
Trong cửa Đạo có Lộ Oai Linh Tiên là việc làm nhớ ơn của
Đức Hộ Pháp về việc cho Hoa Hạnh Nhơn.
Nơi cung Huyền Đô Đại Pháp Sư có sai vị Tiên Thánh Danh “Oai
Linh Tiên” đem hoa Hạnh Nhơn dâng cho Đức Hộ Pháp để gắn nơi Đền
Thánh, hoa Hạnh Nhơn có dây lá.
Do đó, để ghi nhớ, Đức Hộ Pháp đặt tên đường OAI LINH
TIÊN cho sử ghi tạc đời đời công ơn và biết rõ sự tích hoa Tiên. (Đường Oai
Linh Tiên nằm từ ngã tư Đại Lộ Phạm Hộ Pháp đến cửa số 4).
Cổng
Chánh Môn theo họa đồ của Đức Hộ Pháp chỉ dẫn
Ngoại ô Châu Thành Thánh Địa.
1 - Nguyên
nhân nào lập Đạo Cao Đài tại Tây Ninh.
2 - Châu
Thành Thánh Địa:
3 - Hướng
Bắc Châu Thành Thánh Địa
4 - Chợ
Vườn Điều.
5 - Vạn
Pháp Cung (Linh Sơn Động)
6 - Cực
Lạc Thế Giới (trên Núi Bà)
7 - Tìm
hiểu ông Giáo Thiện Võ văn
Đợi.
8 - Làm
sao biết được ông Võ Văn Đợi Ở Đại Hải
Chúng?
9 - Đức
quyền Giáo Tông nói gì với Phạm môn tại Tòa Thánh
10 - Núi
Điện Bà – Chùa Linh Sơn.
11 - Huệ
Mạng Kim Tiên đắc Đạo: (Linh Sơn Động).
12 - Sự
tích suối Vàng
13 - Đại
lộ sáu mươi thước: kỳ quan Cực Lạc Cảnh
14 - Kết
luận phía Bắc.
15 - Bản
đồ Châu Thành Thượng.
16 - Hướng
nam Châu Thành Thánh Địa:
17 - Đường, lề
lộ.
18 - Long Hoa thị
chuyển
19 - Hồ tắm, Bịnh viện, Bến xe.
20 - Trích đoạn: sớ chung niên (Ất
mùi 1955) nước sông Giang Tân sẽ thành Cam Lồ Thủy
21 - Hướng Đông Châu Thành Thánh
Địa.
22 - Nguyên nhân nào Địa Linh Động
có Đền Thờ Phật Mẫu
23 - Nam Bình Vương
Phật
24 - Tổng kết Qui
Thiện
25 - Đền thờ và Lễ Hội
Yến
26 - Hồ Bảo Đạo thống quản Tam
Cung
27 - Khổ nạn của ông Giáo Thiện
Đinh Công Trứ
28 - Địa Linh Động Minh Thiện Đàn
liên hệ với Long Tuyền
Kiếm
29 - Sân bay đường Cổ Phong
Lộ.
30 - Trí Huệ Cung – Thiên Hỉ
Động
31- Chợ Thiên Dương (thầy trò
Tân Dân Tử cỡi hạc)
32 - Hướng Tây Châu Thành
Thánh Địa:
33 - Thiết kế đô thị tôn giáo:
Thánh Địa Tây Ninh.
34 - Phân lô – chia đất –
phóng đường.
35 - Do đâu phân biệt màu
sắc:
36 - Cai quản phận
Đạo:
37 - Quyền hạn của Hội Thánh
Em:
Châu Thành Thánh Địa gồm có 40 cây số vuông. Châu Thành
Hạ và Châu Thành Thượng. Để tìm tàng thấu đáo nêu diễn kiến qua các nội dung
cho tường tận, hầu không nhầm lẫn chánh trị Đạo khác chánh trị Đời.
a. Nguồn gốc nước Việt Nam có: Nam-Trung-Bắc.
b. Liên hệ tỉnh Tây Ninh là Thánh Địa.
c. Địa lý, nhân văn, sắc tộc ( Tàu, Việt).
Nhìn vào lịch sử Việt Nam không loại trừ huyền sử và cận
đại sử để thấu triệt lý do chính đáng về địa thế ba miền: Nam, Trung, Bắc có sự
liên quan mật thiết cùng nhau từng thời kỳ Vương vị. Đế đô của mỗi thời đại.
Dựa vào huyền sử, kể từ Lạc Long Quân phối hợp với Bà Âu
Cơ sanh ra Vua Hùng dựng nước và giữ nước trải qua 18 đời Vương Đế trị vì, đó
là dòng giống Rồng Tiên.
Nước ta xét về phương diện địa lý, được chia 3 vùng:
1. Vùng cực Nam tên nước là Phù Nam, sau đổi thành Chân
Lạp (Thủy Chân Lạp), sau cùng sát nhập vào AN NAM QUỐC.
2. Vùng giữa nước là Lâm Ấp, sau đổi tên Chiêm Thành, rồi
đồng hóa vào AN NAM QUỐC.
3. Vùng phía Bắc, tên nước đổi thay nhiều lần, ban đầu
tên là Xích Quỷ, qua đời Hồng Bàng gọi là Văn Lang, đến đời Thục gọi là Âu Lạc,
qua đời Triệu gọi là Nam Việt.
Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất, bị Tàu chia 3 quận: Giao
Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Đến Bắc thuộc nhà Đường đặt lại An Nam Đô Hộ Phủ.
Đến đời nhà Đinh dẹp loạn Sứ Quân, rồi đổi lại Đại Cồ
Việt, đến đời Vua Lý Thánh Tông đổi tên Đại Việt. Vua Lý Anh Tông đổi lại An
Nam Quốc. Đến Hồ Quí Ly đổi Đại Ngu. Nhà Lê đổi lại Đại Việt.
Khi Vua Quang Trung băng hà, Vua Gia Long thống nhất đất
nước và cầu phong với Tàu lấy hiệu nước là Nam Việt. Vua nhà Thanh bên Tàu cho
rằng: Đất Nam Việt đời nhà Triệu ngày trước gồm: Lưỡng Quãng, Vân Nam, Phúc
Kiến; nếu nhận cái tên Nam Việt là mặc nhiên nhận chủ quyền của Việt Nam trên 4
tỉnh của Tàu. Vì vậy Vua nhà Thanh đổi hiệu nước là Việt Nam.
Đến đời Vua Minh Mạng cho rằng cái tên Việt Nam có mang ý
nghĩa thần phục nhà Thanh bên Tàu, nên cải tên nước lại là Đại Nam cho đến nhà
Nguyễn chấm dứt.
Năm 1945 tên nước Việt Nam được nêu lại. Sau ngày hiệp
định Geneve chia đôi lãnh thổ do Pháp và Việt Minh chia hai miền Nam Bắc, lấy
vĩ tuyến 17 phân ranh (Nam: VNCH – Bắc: VNDCCH).
Nhìn tổng quát lịch sử Việt Nam thì tên Việt Nam do nhà
Thanh áp đặt cho Vua Gia Long phải ép bụng mà nhận do sự cầu phong…
Sử gia Trần Trọng Kim cho rằng hai chữ An Nam có ý nghĩa
thần phục người Tàu, nên lấy tên Việt Nam, lại không kể rõ việc cầu phong của
Vua Gia Long từ cái tên Nam Việt đổi thành Việt Nam.
Đó là cận đại sử để thấy rõ sự liên hệ Tàu Việt, tại sao
nước ta xưa kia đặt tên nước là Xích Quỷ? Do chỗ con Rồng Cháu Tiên nên gọi
mình là Xích Quỷ là lửa đỏ, do câu: “Hỏa Sơn Lữ”(lửa đỏ trên núi),
vào thời 50 con theo Mẹ Tiên lên núi làm ruộng rẫy gọi là Đào Canh Hỏa Nậu; đó
là giai đoạn đi với “vật biểu” như: Núi, Chim, Lửa… đúng vào
huyền sử 100 con, 50 con theo Cha Rồng xuống biển.
Nếu cứ định hai chữ Nam Việt làm tên xứ gồm có: Vân Nam,
Lưỡng Quảng, Phúc Kiến: thế thì cái tên Việt Nam chỉ có nghĩa về địa lý mà
thôi.
Về địa lý: Lịch sử cận đại nước ta có Tonkin là Bắc phần,
thủ đô Thăng Long Thành trải qua nhiều thời đại được chấm dứt… tức trải qua
nhiều cuộc biến thiên tuần hoàn, nên vượng khí địa lý được thạnh hành nơi Trung
Phần Cố Đô Huế… Rồi cũng nằm trong chu kỳ định luật, rồi sang địa lý vượng khí
Sài Gòn, Gia Định. Đến đây cuộc tuần hoàn dường phản bổn hoàn nguyên châu nhi
phục thỉ trở lại Thăng Long, nên vương vị nơi Sài Gòn rất ngắn hạn, cao lắm
chín năm trở lại, nên được chấm dứt vào ngày 30–4–1975, đúng vào dự đoán biến
thiên của thế kỷ, cứ 25 năm gần mãn thế kỷ cũ sang thế kỷ mới thì trải qua cuộc
bể dâu của thế kỷ 20 vào năm 1975 là quá đúng.
Cuộc tuần hoàn chuyển xây hết loạn tới bình, vận mạng máu
xương dân Việt đến hồi kết thúc. Nước Việt Nam được thống nhất theo CNXH thủ đô
trở lại Hà Nội. Đúng là qui luật!
Đến đây ta thấy nước Việt Nam đã trải qua nhiều giai
đoạn: hùng hồn, uy liệt làm cho ngoại bang khủng khiếp kinh hồn cũng có, mà tủi
hổ thần phục cũng có…
Đó là phần đời khi nước Việt Nam chưa có Đạo, tín ngưỡng
đạo giáo do nước ngoài du nhập mà thôi.
Dân tộc Việt Thường dù phải chịu lệ thuộc hai nước đại
bang Tàu đô hộ ngót ngàn năm, Pháp gần trăm năm, nhưng với ý chí quật cường bất
khuất nên vẫn đứng vững giữa năm châu.
May thay cũng nhờ đức tin tín ngưỡng của dân tộc nói
chung mà được Hồng Ân Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế khai sáng nền Đại Đạo trong
nước, nên gọi là Quốc Đạo lấy danh “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ” và
cho biết rằng:
“Từ thử nước Nam chẳng Đạo nhà,
Nay ta gầy dựng lập nên ra.
Ví bằng ai hỏi sao bao nả,
Rằng trẻ noi sau biến hóa già”.
Chọn đất Tây Ninh làm Thánh Địa là nguồn cội Đạo Trời, để
bao bọc, chở che cho toàn nhơn loại vì đạo đức thương yêu nhau, không sát hại
lẫn nhau hầu tránh nạn chiến tranh hạt nhân nguyên tử; cũng tiền định làm nơi
thay thế cho ba thành Sài Gòn, Chợ lớn, Gia Định về mặt tôn giáo…
Chiến tranh là gì?
Do quyền lợi vật chất lẫn tinh thần mà gây hấn chiến
tranh, tức là trát đòi của Tòa Tam Giáo Thiêng Liêng, đều do quả kiếp nghiệp
duyên của nhơn loại phải chịu nạn vay trả…
Vì địa thế và sanh khí, nên Đạo Cao Đào tiền định chọn
đất Tây Ninh làm Thánh Địa.
Đức Chí Tôn dạy: “Chi chi cũng tại Tây Ninh nầy
mà thôi”
Muốn thấu đáo chân lý nầy, cần tư duy Đạo học lẫn khoa
học về địa thế và máy nhiệm cơ mầu của Đấng Hóa Công đã đào tạo sắp bày nơi
vùng Thánh Địa Tây Ninh.
Về địa thế: Huyệt Rồng, một vùng đất Lục Long Phò Ấn theo
Thánh Giáo sau đây:
“Sâu hơn ba trăm thước, như con sông,
giữa trung tim đất giáp lại trúng giữa sáu nguồn làm như sáu Rồng đoanh nhau.
Nguồn nước ấy chảy trúng đảnh núi Bà Đen, nên gọi Lục Long Phò Ấn”.
Về huyền vi cơ tạo: Theo luật tiến hóa phải có thối hóa
để đào thải, đó là qui luật biển hóa cồn dâu, cồn dâu hóa biển.
Đức Lý Giáo Tông đã phán: “Nước Việt Nam đã được
danh Thánh Địa, mà Lão xin tội cho sáu thành… không được… Thảm! Thảm! Thảm!”.
Sau khi sáu thành chịu quả nghiệp, thì Tây Ninh thật sự
là vùng Thánh Địa để qui tụ lương sanh không phân sắc tộc, màu da, vì tất cả là
con chung của Thượng Đế.
Vùng Thánh Địa Tòa Thánh Tây Ninh gồm có 40 cây số vuông,
do Chánh Phủ Bửu Lộc đã công nhận, diện tích có 20.382 hecta gồm đất thổ cư và
đất ruộng.
Nhưng đến Chánh Phủ Đệ I Cộng Hòa Việt Nam thì Thủ Tướng
Ngô Đình Diệm không thừa nhận lại còn đem quân lực Quốc Gia xâm chiếm vùng
Thánh Địa Cao Đài do trung Tướng Nguyễn Thành Phương chỉ huy bạo động vào ngày
20–8–Ất Mùi (1955).
Lịch sử vàng son xen lẫn đen tối cách nhau từ 1945 đến
1955. Ấy vậy, mọi việc ở đời biến động theo quan điểm thời gian và không tồn
tại trong không gian, cũng không phải là lạ!.
Được phân ra:
· Châu
Thành hạ: lấy Tòa Thánh làm trung tâm.
· Châu
Thành thượng: lấy Núi Bà Đen làm trung tâm.
Hai Châu Thành hiệp nhứt mới đủ 40 cây số vuông:
· Bề ngang
từ Nam đến Bắc: 24km + 16km = 40km
· Bề dài
từ Tây đến Đông: 28km + 12km = 40km.
(Giếng Mạch đến Núi Cậu).
Ngoại ô Châu Thành Hạ thuộc hướng Bắc lập thành như sau:
lấy Tòa Thánh làm trung tâm, phân ra bốn mặt: Đông, Tây, Nam, Bắc.
· Phía
Đông: Từ Tòa Thánh đo về hướng Đông 21km.
· Phía
Tây: đo từ Tòa Thánh đến Mít Một 3km.
· Phía
Nam: đo từ Tòa Thánh đến Cẩm Giang 12km.
· Phía
Bắc: đo từ Tòa Thánh đến Núi Bà 12km.
Từ hàng rào Tòa Thánh đi về hướng Bắc đến chân Núi Bà, có
các Đền, Điện, Dinh Thự, Chợ hiện tại và tương lai như sau: tại xóm Tà Mum hiện
nay là Phận Đạo Thập Thất, cập Đại lộ Bình Dương có 4 mẫu đất mà Đức Hộ Pháp
dành để sau nầy cất Đền Thờ Phật Mẫu chánh thức, có đắp hình Nam Bình Vương
Phật, theo lời Đức Hộ Pháp dạy:
“Phải đợi ngày nào tạo được Đền Thờ
Phật Mẫu mới đắp hình Nam Bình Vương Phật, cũng như ở Đền Thánh có hình Hộ Pháp
trên Ngai ngó vô Bát Quái Đài vậy.
Đền Thánh tượng trưng Bạch Ngọc Kinh
tại thế có hình Hộ Pháp mặc Thiên Phục khôi giáp, thì nơi Đền Thờ Phật Mẫu thay
vì tượng trưng cho Lôi Âm Tự, lẽ dĩ nhiên phải đắp hình Ngài, nhưng không mặc
Thiên Phục, chỉ mặc áo cà sa nhà Phật mà thôi.
Nơi Trí Giác Cung Qui Thiện, Thầy có
dạy thờ Nam Bình Vương Phật trong Đền Thờ Phật Mẫu phía ngoài ngó về Chánh
Điện. Cũng như hồi ban sơ Phật Mẫu giáng cơ tại Khổ Hiền Trang, Ngài cho biết
nơi đây là:
…Phước Địa ngộ tùng hoa.
Lục ức dư niên vũ trụ hòa (600.000
năm)”.
Phật Mẫu dạy tạm lập nhà thờ Phật Mẫu tại Thảo Đường và
cho biết sau nầy Tổ đình Tòa Thánh hoàn thành rồi mới khởi tạo Đền Thờ Phật Mẫu
lớn lao cũng như Đền Thánh vậy. Nhưng nợ vay trả quả kiếp tiền khiên của dân
tộc Việt Nam chưa dứt, khiến nạn biến cố mãi đến không tạo đặng Đền Thờ Phật
Mẫu nơi Thảo Đường Khổ Hiền Trang (Mỹ Tho).
Hiện giờ đây, Thầy có dành bốn mẫu đất trước cửa Hòa Viện
Tòa Thánh để tạo Đền Thờ; nhưng lòng từ bi của Phật Mẫu thấy con cái của Ngài
đang chịu loạn lạc cùng khổ và trong cửa Đạo, con cái của Ngài cùng Hội Thánh
chưa được thống nhất. Nên Ngài dạy tạm thờ Ngài nơi Báo Ân Từ là nhà thờ công
nghiệp con cái của Ngài đặng thấy lòng thương yêu của Mẹ cưng con đáo để dường
nào…
Cho đến khi cởi bỏ xác trần, cũng đem vô tế lễ trình diện
trước mắt bà Mẹ, dầu cho sang trọng, công hầu, khanh tướng nơi nào, đến khi
chung qui cũng về với Mẹ mà thôi.
“Qua nói thiệt! Chừng nào cả con cái
Phật Mẫu xúm nhau sùng bái để gọi chút hiếu thảo đền ơn Đức Mẹ, thì ngày ấy sẽ
có Đền Thờ Phật Mẫu chánh thức theo lòng từ bi của Đức Mẹ đã định”.
Đôi Liễng trong tượng ảnh Nam Bình Vương Phật:
“Hữu tế hóa nhân hữu tế hóa vật,
Thì vị kỳ trấn tá hữu ngã Phật,”
“Phật kỳ hữu linh kháng hương bái
khất”.
Theo Đại lộ Bình Dương qua cầu vào Phận Đạo Thập Tam có
chợ Vườn Điều, đây là chợ nhỏ nằm trong Phận Đạo.
Sau đây, khi Châu Thành Thượng mở rộng, có lộ 60 thước
bao quanh kho tàng, thì tại khu Suối Vàng có ngôi chợ Ninh Sơn rất phồn thịnh
như chợ Long Hoa vậy.
Ngày 28 tháng 10 Giáp Ngọ (DL. 23–11–1954), Đức Hộ Pháp
lên núi Bà Đen, chỉ chỗ xây nền Vạn Pháp Cung tại Chơn đá Ông Văn, cho hiệu
là “Linh Sơn Động Vạn Pháp Cung”.
Đồ án xây dựng Vạn Pháp Cung Tịnh Thất Nam Phái chưa được
Đức Hộ Pháp dạy thế nào, duy Đức Ngài đã dạy: “Bần Đạo lập Trí Huệ Cung
trước cho nữ phái, sau nam phái phân bì mà lo cất Vạn Pháp Cung trên núi”.
Qua Thánh ý nầy, có lẽ Vạn Pháp Cung do bản đồ Thiên Hỉ
Động mà làm theo. Còn sơ đồ do Phòng họa đồ (Lễ Sanh Ngọc Ba Thanh) vẽ theo sự
phỏng định của Công Viện Phước Thiện (Đạo Nhơn Phạm văn Út), không có sự phê
chuẩn của Đức Hộ Pháp, coi như chưa chánh thức, vì Tịnh Thất phải được cất theo
họa đồ đặc biệt phê duyệt. (Bản vẽ ngày 18–8–Ất Mùi (1955), Đức Hộ Pháp còn ở
Tòa Thánh).
5.1-Phương hướng tạo tác.
Vâng lịnh Đức Hộ Pháp, Hội Thánh Phước Thiện ra Thông tri
tuyển mộ công quả tình nguyện tạo tác Vạn Pháp Cung theo số định ba ngàn… rồi
dâng thỉnh giáo, được Đức Thầy phê dạy: “Trừ ra số mấy đứa Đạo Núi, còn
lại bao nhiêu là số tuyển mộ; phải lựa cho kỹ người đủ khỏe mạnh đặng tạo tác
Tịnh Thất.
Sau còn một ngàn nữa sẽ tới các vị lão
thành”.
Ngày 16–2–Ất Mùi.
5.2- Phần điều hành.
Sắp khởi công xây dựng trong tháng 2 năm Ất Mùi, Hội
Thánh giao cho Thượng Thống Công Viện Phước Thiện Đạo Nhơn Phạm Văn Út đương
quyền Trưởng Tộc Phạm Môn công cử Ban Chưởng Quản Vạn Pháp Cung, Ông Đạo Nhơn
Nguyễn văn Gia đảm nhiệm Chưởng Quản Ban Tạo tác.
Về nhân số và công thợ đã tuyển mộ xong, sắp khởi công
động thổ, kế gặp ngày Đạo Hận 20–8–Ất Mùi (1955), Đức Hộ Pháp xuất ngoại Tần
Quốc thuộc Kiêm Biên Tông Đạo vào đêm 4 rạng 5–1–Bính Thân (1956), làm cho mọi
việc Đạo sự bị gián đoạn, từ đó công cuộc tạo dựng Vạn Pháp Cung phải đình hoãn
lại mãi cho đến ngày nay.
Muốn biết cực Lạc Thế Giới ở đâu, đất liền hay trên Núi
Bà nên đọc bài tường thuật chuyến đi núi của Đức Hộ Pháp lần thứ nhứt ngày
12–6–Mậu Dần (9–7–1938) như sau:
“Đêm 12 tháng 6 năm Mậu Dần, Đức Hộ
Pháp thức dậy sớm khoảng 4 giờ sáng, mặc đồ bà ba trắng dẫn xe đạp ra cổng Hộ
Pháp Đường mà Bảo thể giữ cổng không hay biết. Đức Thầy lên xe đạp chạy ra cửa
Hòa Viện, dẫn xe qua cổng; bên ngoài có quí ông: Nguyễn văn Gia, Nguyễn văn Lư
và Võ văn Đợi (Đại) đứng chờ sẵn, Ông Võ văn Đợi ở họ đạo Mỹ Tho về Tòa Thánh
thăm Đức Thầy, nghe Đức Thầy định đi núi nên ông xin theo hầu Thầy.
Lúc lên đường, trời sắp sáng, Thầy trò
cỡi xe đạp đi ra mé Tây Ninh, rồi tẻ qua ngả năm để đi thẳng lên núi. Đến sáng ra
trong Tòa Thánh mới phát giác không biết Đức Thầy đi đâu…
Khi Thầy trò đến chân núi, tới láng
rừng có đóng bảng cấm, Đức Thầy bảo đem xe đạp bỏ trong đó, rồi Đức Thầy dẫn
anh em băng qua vườn chuối. Đến chân núi, Đức Thầy leo theo triền núi, anh em
cũng đi theo. Khi lên được một đổi, gặp một tảng đá lớn, dưới tảng đá có một
cái hang kêu là hang Gạo (chứa gạo).
Đức Thầy chun qua hang đá rồi leo lên
một tảng đá khác, nơi đây mát mẻ, Đức Thầy ngồi nghỉ mát, lúc đó Ông Võ văn Đợi
đạo hiệu Linh Đoán, đem võng ra gắn cho Đức Thầy nằm nghỉ, rồi ông chạy xuống
Cầu Đá chỗ bến xe gần chùa Trung mua nước dừa đem lên cho Đức Thầy uống”.
Đức Thầy nói: “Nơi đây sau nầy anh em bây về ở
trên ba ngàn người, mà cũng có thể hơn nữa. (Đức Thầy nói dưới chân đá chắc có
mạch nước).
Nơi đây chắc có mạch nước, đâu mấy con
xuống coi thử”.
Anh em leo xuống dưới vạch cát lên, quả nhiên có mạch
nước. Khi anh em trở lên báo trình có mạch nước y như Đức Thầy nói. (Mạch nước
đó hiện giờ là Sở số I). Lúc đó Đức Thầy kể chuyện Ông Đầu Sư Thái Thơ Thanh
tạo Cực Lạc ở dưới đó là sái Thiên Thơ, cho nên Ảnh làm không thành, mà Cực Lạc
Cảnh ở trên núi nầy…
“Cực Lạc Thế Giới có Lôi Âm Tự là nơi
tu hành của các bậc Chơn tu, là con đường giải thoát. Giữa đỉnh cất Kim Tự Tháp
tượng trưng cho Lôi Âm Tự tại thế, còn dưới chân núi là dinh thự Vạn Pháp Cung…
Sau nầy mấy em có xin việc gì thì cầu
nguyện Đức Diệu Võ Tiên Ông, Ngài đắc lịnh trấn nhậm núi nầy cai quản các vị
Sơn Thần, thay cho Bà Lê Sơn Thánh Mẫu đến trấn nhậm vùng thổ địa…”
Đến 16 giờ, Đức Thầy ra lịnh trở về Tòa Thánh. Thật là
dịp may hay có định trước duyên hạnh ngộ đối với Ông Võ Linh Đoán, trước kia
được nghe Đức Thầy nói: “không biết có đứa Phạm môn quèn nào lên núi
lập cho bần đạo một vườn nho”.
Khi nghe câu nói nầy trong dịp lễ khánh thành Nhà Bảo Cô,
Ông đảm nhận Đầu Họ Đạo từ Rạch Giá về Tòa Thánh tham dự. Nay lại được nghe
nói: “Cực Lạc Thế Giới ở trên núi, có đủ Am Vân, Tịnh Cốc”, tất cả
những điều đó được khắc sâu vào tâm não và chính đó là điểm hành trình lên núi
sau nầy của Ông.
Sau ba năm đi Đầu Họ Đạo, rồi làm gì?
Trong số 72 Môn Đệ Phạm Môn được thọ giáo với Ân Sư Hộ
Pháp, có Ông Giáo Thiện Võ Văn Đợi đáng quan tâm lưu ý về gương Đạo hạnh của
ông. Sau ba năm hành đạo theo lịnh Đức Tôn Sư lo tạo tác cơ sở lương thực nuôi
công quả làm Đền Thánh, Ông liền từ chức về cửa Tu Chơn. Song sự từ chức nầy
chưa được thượng quyền chấp thuận, bởi vì từ bỏ chức tước phẩm vị Thập Nhị Đẳng
Cấp Thiêng Liêng là từ bỏ Thiên Vị mình, thay vì đi về nơi Cửu Thiên
Khai Hóa, lại phải an trú nơi Thanh Tịnh Đại Hải Chúng.
Để bảo tồn ý định mình, Ông Giáo Thiện Võ Văn Đợi tự treo
ấn từ Quan Đạo, lên núi tự lập cơ sở tu hành riêng, không còn tùng Hội Thánh
Phước Thiện nữa, thay áo trắng ra đồ nâu. Mặc dù có hành động mở đường khác,
song Ông Võ văn Đợi vẫn giữ nghĩa Thầy trò luôn trung thành tôn kính Đức Hộ
Pháp. Điều nầy đáng phục, Ông biết giữ ba mươi sáu chữ lời thề, nhứt là tình
nghĩa Thầy trò nơi cửa Phạm.
Hành động nầy, Ông căn cứ vào đâu? Theo sự hiểu
biết từng cá nhân hoặc đúng hoặc sai, có lẽ theo văn thơ ngày 22–1–Kỹ Mão (DL.
12–3–1939) của Ngài Khai Pháp Chưởng Quản Cơ Quan Phước Thiện như vầy:
“Kính cùng Ông Giáo Thiện Võ Văn Đợi,
Tiếp thơ hồi âm của Hiền Hữu theo thơ
số 219 của Bần Tăng đề ngày 17–11–Mậu Dần. Bần Tăng đắc lịnh của Đức Hộ Pháp để
trả lời cho Hiền Hữu rõ về thăng phẩm Chí Thiện của Hiền Hữu và giải rành rẽ vì
cớ nào mà người chưa muốn để cho Hiền Hữu thọ lãnh tân phẩm Chí Thiện?
Vốn Thập Nhị đẳng Cấp Thiêng Liêng là
chơn tướng bí truyền của Đạo, mỗi bậc thăng là một cơ quan giải khổ về phần hữu
vi hình thể của chúng sanh. Kể từ bậc Giáo Thiện đổ xuống trách nhiệm đã nặng
hoằng khó khăn dường nào, thử nghĩ từ bậc Thính Thiện mà họ lần leo đến Giáo
Thiện thì ôi thôi! Thật là tân khổ trăm bề.
Hiện thời chúng sanh còn khổ thì lẽ cố
nhiên Hiền Hữu phải còn chịu nhọc nhằn, mà cái khổ ấy chúng ta đã thấy trước
mắt dẫy đầy không còn ai chối cãi cho đặng.
Hiền Hữu chẳng lẽ ngơ tai nhắm mắt mà
đi ngang qua cái khổ cảnh của chúng sanh cho đặng. Huống chi bậc phẩm Chí Thiện
lại còn khó khăn phận sự hơn bội phần; Đức Hộ Pháp vì lòng thương yêu Hiền Hữu,
không nở để chồng chất sự khó khăn thêm cho nặng hoằng hai vai Hiền Hữu, sợ nỗi
nặng gánh đổ nhiều, nên mới duy trì không cho thăng vị Chí Thiện là vậy đó!
Bần tăng mong sao Hiền Hữu hiểu rõ
phận sự mình rồi có lẽ sau nầy sẽ được ánh sáng Huệ Quang soi đường cho Hiền
Hữu lần bước trên con đường Chí Thiện là nơi Đức Hộ Pháp đương mong mỏi thấy
trong học trò mình sẽ có người mon men đến chốn trọn lành, mà đền bồi cái nghĩa
Thầy trò trong muôn một”.
KHAI
PHÁP.
Qua Thánh ý nầy hiểu được rằng: Đức Hộ Pháp đã tiên liệu
về sứ mạng đi đến con đường trọn lành của Ông tức con đường Tu Chơn nên cố ý
duy trì không thăng phẩm Chí Thiện là do đó.
Thế là Ông là người đầu tiên Đức Thầy tuyển chọn đưa vào
con đường Chí Thiện là Tu Chơn, hầu dìu dắt các bạn đồng môn để trả nghĩa Thầy.
Nhưng tiếc thay, Ông đi trúng đường mà lại làm sai Thánh
ý là lập luật tư riêng, thay vì tùng theo kỷ luật Phạm Môn đã có Ân Sư giáo
huấn…
Do đó nên Ông bị Thánh Lịnh số 25/PT ngày 26–2–Kỹ Mão
(DL. 15–4–1939) đương thời gọi là Đạo Nghị Định khép về tội bất tuân luật pháp
của Đạo, hiệp nhau làm nghịch mạng bề trên, tự chuyên phế bỏ phận sự hành Đạo,
nên cho xuất ngoại Phước Thiện kể từ ngày ký tên Thánh Lịnh nầy.
Mặc dù phải thi hành theo luật pháp Đạo, nhưng tình nghĩa
thầy trò đối với Tôn Sư ông vẫn vẹn giữ… Đến năm Đinh Hợi (1947) Ông thọ bịnh
nặng trên chơn núi, Đức Thầy Hộ Pháp hay tin liền ra lịnh đem Ông Võ Văn Đợi về
Nội Ô Tòa Thánh để trị bịnh, Đức Thầy giao cho Chức Sắc Phước Thiện chăm sóc
thuốc thang, vì họ là thệ hữu Phạm Môn trước đây. Đức Thầy thường đến thăm và
chọn thầy thuốc điều trị cho môn đệ đến ngày Ông qui liễu.
Trước ba ngày cởi bỏ xác trần, Ông tự biết mình có tội
với Thầy, với bạn, nên dạy đàn em viết tờ xin tội cho Ông ký tên dâng lên Đức
Thầy, nguyên văn như sau:
“Chùa Cao Đài, ngày 22 tháng 4 năm
Đinh Hợi.
TỜ XIN TỘI
Cúi Bạch Sư Phụ,
Con là Võ văn Đợi, 50 tuổi, cúi đầu
trăm lạy Sư Phụ xá tội giùm con. Kể từ ngày con hiến thân làm Đạo đến nay tính
17 năm có lẽ.
Đến nay con đau nặng, không thể mạnh
được, mà lại gần rốt kiếp sống rồi. Nên nay con cúi đầu trăm lạy Sư Phụ xá tội
cải Thầy, cải bạn của con.
Xin Sư Phụ xá tội cho con.
Cúi Bạch.
(Võ văn Đợi. Ký tên).
Lời Phê Đức Hộ Pháp:
“Làm Thầy như ai thì khác, còn Qua đây
vẫn khác. Với Qua, Thầy chỉ biết thương trò, tha thứ là phận Thầy. Em chẳng vì
đời mà phạm, nếu có phạm là vì Đạo mà chẳng hiểu rõ mầu nhiệm của Thầy.
Em về trước, rồi mấy Qua cũng lục thục
về sau. Chúng ta sẽ hội hiệp vĩnh viễn nơi cõi Hư Linh là quê hương thiệt, Thầy
trò sẽ thiệt, bạn hữu sẽ thiệt. Cảnh nầy chẳng phải của chúng ta, vì nó là giả
cảnh dành để cho kiếp trái oan khiên.
Em yên lòng, Thầy chỉ thầm khen em,
chớ chưa biết em đã có tội gì hết”.
Quí hóa thay, lòng từ bi của Đức Thầy đã không trách
phạt, mà lại còn thầm khen và xác nhận không có tội gì hết. Nhờ lượng khoan
hồng của Đức Phật mà Ông được an trú nơi thanh tịnh Đại Hải Chúng thay vì phải
đầu kiếp tu hành lại.
Ngoài ân huệ khoan dung, Đức Thầy còn cho phục chức Giáo
Thiện do Thánh Lịnh số 581/TL đề ngày 23–4–Đinh Hợi (DL. 11–5–1947):
“Cho phục phẩm Giáo Thiện (Phước
Thiện) kể từ ngày 22–4–Đinh Hợi, vị Đạo hữu Võ Văn Đợi 50 tuổi, khi còn tại thế ở
làng Gia Lộc (Tây Ninh), lễ cất táng người được đứng theo hàng Giáo Thiện và
Linh vị đem vào Báo Ân Từ”.
Phẩm Giáo Thiện được hành lễ tại Báo Ân Từ lần đầu là
Giáo Thiện Võ Văn Đợi vậy.
Căn cứ vào lời phê sau đây của Đức Hộ Pháp:
“Đợi tự phế vị là nó dám từ chối Thập
Nhị Đẳng cấp Thiêng Liêng. Ngày nay theo luật Thiên Điều thì nó phải tái kiếp
mà hành Đạo lại, nếu nó đặng ở nơi Thanh Tịnh Đại Hải Chúng mà tu hành nơi cõi
Hư Linh là may phước cho nó.
Còn Quyền Thiêng Liêng thưởng phạt là
do quyền Ngọc Hư Cung, có phải của Bần Đạo đâu mà xin. Còn dâng công quả cho
Đợi chỉ có vợ con Đợi mới đặng, còn của mấy em ai thèm thâu mà dâng”.
Ý nghĩa nầy liên hệ với lời phê ngày 8–9–Kỷ Sửu (cho Ông
Trần văn Mến ở Châu Đốc xin từ chức Giáo Thiện).
“Phước Thiện cũng có phẩm tước là Thập
Nhị Đẳng cấp Thiêng Liêng, nếu chê bỏ không kể đến phần hồn, thì thay vì đi về
với Cửu Thiên Khai Hóa, lại an trú nơi Đại Hải Chúng”.
Sưu khảo tài liệu nầy để chiêm nghiệm về ý nghĩa ba ngàn
công quả như thế nào.
Nguyên nhân Hội Thánh có dâng tờ lên Đức Hộ Pháp là Thầy
của Phạm Môn Phước Thiện, cầu xin ân xá phục chức Giáo Thiện cho Ông Võ văn
Đợi:
Trước khi ban hành Pháp Lịnh Quyền Chí Tôn hiệp nhứt
(Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài: Hiệp Thiên và Cửu Trùng) đặc xá phục chức Giáo
Thiện cho Ông Võ văn Đợi, Đức Hộ Pháp kêu Ông Chí Thiện Phạm văn Út đến hỏi
rằng: “Đợi nó đủ ba ngàn công quả chưa?” – Gặp câu hỏi
hóc búa nầy thuộc về mặt Pháp giới, Ông Chí Thiện bạch Thầy: “Điều đó
con làm sao biết được”.
Đức Hộ Pháp phán: “Nếu vậy, căn cứ vào tờ xin tội
của Hội Thánh Phước Thiện mà phục phẩm Giáo Thiện lại cho Võ văn Đợi ý nghĩa
gì?” Không rõ Ông Phạm văn Út có thỉnh giáo rõ việc này không?…
Kết luận: “Nhờ Ân Sư tha thứ là phận Thầy, nên Đệ
Tử khỏi đầu kiếp mang xác phàm, mà được lưu trú nơi Đại Hải Chúng ở cõi Hư
Linh”.
ĐẠO NÚI là tên do Đức Thầy đặt cho số Đạo ở trên Núi Bà.
Sau khi Ông Võ văn Đợi qui liễu, khu Núi Bà mất an ninh,
số Đạo Núi không còn được ở trên núi nữa, phải về Tòa Thánh xin làm công quả,
bị Hội Thánh Phước Thiện chiếu y luật buộc phải để tóc, nhuộm đồ già lại màu
thâm mới cho làm công quả với Đạo. Do vậy, Ông Nguyễn văn Thế đại diện Đạo Núi
dâng tờ lên xin Đức Sư Phụ, cầu xin được giữ Thiền cách ngày 17–5–Đinh Hợi.
Được Đức Sư Phụ phê: “Tư cho Hội Thánh Phước
Thiện, cứ để tự do cho mấy đứa nhỏ giữ nguyên Thiền Cách, cho làm công quả tạm
đây, chờ ngày Bần Đạo giao việc làm riêng cho chúng nó.”
Ngày 20–01–Giáp Tuất (DL. 5–3–1934) là ngày lịch sử nhóm
Chi Phái Tương, Trang thông báo cho Hội Thánh Tây Ninh biết sẽ về Tòa Thánh
chiếm ngôi Giáo Tông để đuổi Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt khỏi Nội Ô.
Nhóm Chi Phái nầy được cường quyền Pháp hỗ trợ để phá
Đạo, nên họ có thế lực, nên quyền thống nhất Giáo Tông + Hộ Pháp giao cho người
Phạm Môn giữ cửa chùa bảo vệ Đạo.
Sau khi trấn áp được số Chi Phái cướp giựt nầy, nền Đạo
được yên bình, ngôi vị Quyền Giáo Tông bất khả xâm phạm, nên Đức Quyền Giáo
Tông thiết tiệc đãi người Phạm Môn.
Đức Ngài nói:
“Đức Hộ Pháp lập Phạm Môn mấy năm qua,
các Chức Sắc lớn trong Hội Thánh đánh đỗ, Qua nghe để dạ, chớ thật ra Qua cũng
không biết Đức Hộ Pháp lập Phạm Môn để làm gì? Ngày nay Qua mới hiểu rõ, nhờ có
mấy em dám hy sinh đứng ra “Cứu Đạo”, Đại nghiệp Đạo mà còn tồn tại đây là do
bàn tay của mấy em Phạm Môn cứu sống Đạo đó vậy.
Mấy em xứng đáng vào hàng Thánh vị”.
Đến khi thuyên bổ người Phạm Môn đi khai mở cơ sở lập
Phước Thiện, Đức Ngài mời đến Giáo Tông Đường dạy:
“Nay Qua mời mấy em đến đây, Qua có
mấy lời giao cảm cùng mấy em, không biết tại sao Qua là anh cả mấy em, mà Đức
Hộ Pháp vâng lịnh Đức Chí Tôn mở Phạm Môn cho mấy em học Đạo tu hành thuộc về
cơ giải thoát mà Qua không hay biết.
Nếu Đức Hộ Pháp không nói rõ thì Qua
đây cũng không hiểu đặng! Còn mấy em làm sao biết mà vào, nên Qua để lời khen
mấy em đó; và Qua cho mấy em là Chí Thánh, nhưng Qua có lời khuyên mấy em, dầu
cho mấy em có đặng sáng suốt, tài đức bao nhiêu đi nữa thì mấy em cũng nên
tưởng rằng còn thiếu, đặng cố gắng làm thêm, đặng bước vào con đường Thánh
Đức”.
Sau đó về trình lại với Đức Thầy, Đức Hộ Pháp nói: “Ảnh
là Giáo Tông, hễ nói sao thì có vậy”.
Đức Hộ Pháp nói.
“Thầy mượn chức Lễ Sanh cho mấy em
Giáo Thiện xuất sư trong 21 tỉnh Nam Kỳ để mở mang “Lương Điền, Công Nghệ” hầu
tạo của cải tài sản để xây cất Tổ Đình, sau ba năm trở về từ chức trả áo mão
lại cho Hội Thánh…”
Vậy thì việc đi núi của Ông Võ văn Đợi là đúng về Đạo
Pháp, mà sai về sở hành không lập vườn nho đúng theo Thánh Ý Đức Tôn Sư trên
con đường chí thiện.
Một bài học quá lớn!.
Núi Bà thời Pháp thuộc, Sở Họa Đồ đo chiều cao được 884m,
đến nay độ 1.000m.
Là ngọn núi cao nhất ở Nam phần Việt Nam, cách tỉnh lỵ
Tây Ninh 11 cây số ngàn. Gọi Núi Bà vì trên núi có Bà Linh Sơn Thánh Mẫu rất
linh hiển, được vua Gia Long sắc phong năm 1802.
Đoạn đường dốc núi Điện Bà lên đỉnh: 2.800m.
Đoạn đường dốc núi từ Cầu Đá lên Điện Bà: 1.000m
Phía trái có Am Kim Cang, lên tiếp 50m có Thảo Thử Tạ
Giác Hạnh.
10.1- Hình thể ngọn núi phân ba:
Núi Bà: “Núi Bà một ngọn phô hùng vĩ,
Rừng rậm Bắc phương áng mặt cao
(884m)”.
Núi Heo: “Cận Bắc Bà Đen có Núi Heo,
Sáu trăm thước đứng kết nên đèo
(600m).”
Núi Phụng: “Bốn trăm ba thước là Hòn Phụng
(403m),
Nằm ở hướng Tây rất dễ trèo”.
10.2- Ngọn núi Tây Ninh hình thành:
Vào thế kỷ thứ 11, nơi Phủ Tây An (Tây Ninh) ngọn núi Tây
Ninh hình thành vào đời nhà Lý (1010–1224) Lý Công Quẩn tức là thời nhà Tống
bên Tàu.
Tây Ninh xưa kia dân cư là người Miên có tên gọi Rơm Dum
Ray có nghĩa là Chuồng Voi. Thời Nam Triều gọi Phủ Tây An gồm có hai huyện Tân
Ninh và Quang Hóa. Hai chữ Chuồng Voi đã nói lên trong thế kỷ 16, nơi đây là
rừng thiêng nước độc, hầu hết chỉ là rừng và muôn thú, cho nên sự sanh hoạt của
Thổ dân nầy đầy gian lao khổ cực…
Đến thế kỷ 17 mới có sự di dân từ các vùng Quảng Trị,
Quảng Ngãi, Bình Thuận nam tiến vào Gia Định Thành…
10.3- Di tích lịch sử:
Từ năm 1778 Nguyễn Vương và Tây Sơn đánh nhau, khi thất
thủ Phiên Trấn Thành Gia Định, Nguyễn Vương chạy lên Quang Hóa, Trảng Bàng, Gò
Dầu, núi Tây Ninh, dựa vào thế hiểm trở của rừng núi… Thời gian ẩn trú rừng núi
Tây Ninh, Nguyễn Vương thường họp Quần Thần nơi một sân cỏ hoang vắng để mưu
định cơ đồ phục nghiệp, từ sự tích nầy nhân dân địa phương gọi là Sân Chầu…
Một hôm, nhà Vua đến chân núi ngủ đêm, được nữ Thần bảo
rằng: “Muốn khôi phục giang sơn phải tá binh Xiêm Quốc”. Nhờ sự
linh ứng nên đầu thu năm Đinh Mùi 1787 trở về nước chiếm lại Phiên Trấn Dinh
rồi cải tên Gia Định Tỉnh.
Đến năm 1789, nhờ có viện binh của Pháp dẹp xong Tây Sơn,
lên ngôi Cửu ngũ vào năm 1802, lấy hiệu Gia Long và xưng là Đại Nam Quốc.
Được phục nghiệp, nhớ ơn Nữ Thần núi Tây Ninh hộ trì linh
ứng, nhà vua liền phái Tả Quân Lê Văn Duyệt mang sắc chỉ lên núi phong
tặng “Lê Sơn Thánh Mẫu Tiên Thạch Động cho Nữ Thần Lý Thị Thiên Hương
và dạy Quan địa phương dùng đồng đen đúc tượng Bà tôn thờ để tạ ơn”.
10.4- Sự
tích Bà Đen: Lý Thị Thiên Hương.
Đã qua nhiều thế kỷ, có nhiều sự tích khác nhau, nhưng
trên thực tế sự tích Lý thị Thiên Hương có Sắc Phong là chính xác; tường thuật
lại chuyện của hai thế kỷ về trước, ắt có nhiều sai lầm và thiếu sót… Vào thế
kỷ 17, tỉnh Bình Định gặp thiên tai hạn hán mất mùa, dân tình đói khổ, có bốn
người bạn thâm giao cùng đưa gia đình vào Nam lập nghiệp theo danh tánh:
1. Ông Lý Thiên và vợ là
Đặng ngọc Phụng.
2. Ông Đặng Nhượn.
3. Ông Ba Sánh và Ông Chín
Thép.
Vào cư trú vùng đất Quang Hóa, nay là Huyện Trảng Bàng
thuộc tỉnh Tây Ninh. Quan Huyện đương quyền là Hà Đảnh, một tham quan dâm loạn,
từng hãm hiếp nhiều gái đẹp dù cho đã có chồng con (bà mẹ Lê Sĩ Triệt).
Nay thấy bà Đặng ngọc Phụng trẻ đẹp, muốn chiếm đoạt làm
hầu thiếp, nên tìm cách mưu hại chồng bà là Lý Thiên để bắt ép bà; trong khi đó
bà Đặng ngọc Phụng đã mang thai cùng chồng, phải cố sống qua ngày, chờ giờ sinh
con, hầu sau tìm cách báo thù chồng.
Lần lựa ngày tháng qua nhanh, bà sanh được một gái xinh
đẹp, đặt tên Lý thị Thiên Hương, vừa đẹp nết, đẹp người lại có lòng mộ Đạo,
thường lên non hành hương lễ Phật. Một hôm bị bọn cướp vây bắt bà, may nhờ một
tráng sĩ giải nạn, đó là Lê Sĩ Triệt, môn đồ của nhà sư Trí Tân mà cũng là
dưỡng phụ nhơn chuyến đi hóa trai, về giữa đường gặp hai tử thi và một đứa bé
còn sống (ấy là Lê Sĩ Triệt). Nhà sư cứu mạng đem đứa bé lên núi để nuôi và
truyền kiếm thuật để cứu nhơn độ thế.
10.5- Gia nhập nghĩa quân trả thù cho cha mẹ
Năm 1780, anh em Nguyễn Huệ nổi dậy đánh đuổi Nguyễn Ánh
ở Qui Nhơn Bình Định, Lê sĩ Triệt theo nghĩa quân Tây Sơn giết được quan huyện
Hà Đảnh, trả mối hận thù giết hại cha mẹ chàng, đồng thời cũng trả thù cho thân
phụ Thiên Hương.
Từ ân nghĩa cứu mạng và trả thù cha, sau đó Lê sĩ Triệt
và Thiên Hương kết thành chồng vợ. Nhà sư Trí Tân vốn là ân sư của Lê sĩ Triệt,
nên vợ chồng Lê sĩ Triệt và Thiên Hương tôn kính nhà sư còn hơn cha mẹ sanh
thành và thường lên núi Lễ Phật, thăm viếng ân sư.
10.6 - Bà Lý Thị Thiên Hương hiển Thánh:
Nhân ngày lễ dâng hương kính Phật và thăm viếng Sư Phụ,
Bà Thiên Hương viếng mộ phần cha mẹ chồng do nhà sư chôn vựa triền núi phía
nam; chẳng may gặp bọn cướp, trong đó có Châu Thiện trước kia là bộ hạ của Hà
Đảnh, thấy Thiên Hương đi một mình, thừa dịp định sát hại bà.
Trong thế nhứt nhơn nan dịch quần hồ, bọn Châu
Thiện quá đông, dồn bà vào một khe núi. Thấy khó thoát thân, Bà Thiên Hương
liền nhảy xuống khe núi tử tiết…
Sau đó Bà về báo mộng cho Sư Phụ Trí Tân đến nơi Bà tử
tiết đem xác về hỏa táng. Khi làm lễ hỏa táng cho Bà có số người hại Bà đến xem
bị hộc máu chết liền tại chỗ.
Từ đó oai linh hiển Thánh của Bà được thế nhân tôn sùng là
bậc Nữ Thần Linh Sơn. Vua Gia Long sắc phong là Lê Sơn Thánh Mẫu.
10.7- Sự tích đá nứt hai:
Một tấm lòng thành, viên đá nứt hai.
Ngôi Linh sơn Tự đã được các nhà sư dày công tu tạo từ
thế kỷ 18 và trụ trì như các sư: Thiệt Diệu, Tế Giác, Đại Cơ, Đạo Trung, Tánh
Thiền (Đạo Nhỏ), Hải Hiệp… Đến thế kỷ 19 thời Pháp thuộc từ năm Tân Mùi 1871
đến 1880 có các sư kế thừa: Thanh Thọ, Phước Chi (1872–1875), Trùng Tùng Chơn
Thoại (1880–1930), Tam Tòa Chánh Khâm (1910–1937), Nguyễn Cơ – Giác Phú (11
tháng), Nguyễn Cần – Giác Hạnh (1938–1945).
Trong thế kỷ 18 khai sơn phá thạch có 6 vị thiền Sư, vị
đứng vào hàng thứ năm Pháp danh Tánh Thiền (thường gọi Ông Đạo Nhỏ) thật hiện
hạnh Bồ Tát, muốn dời tảng đá cản đường từ Chùa Bà qua Chùa Hang. Ngày xưa
khách hành hương lên núi Điện Bà, muốn qua chùa Hang phải đi vòng xuống suối
rất cực khổ, khó khăn vì bị một tảng đá lớn chận lối đi. Hòa Thượng Tánh Thiện
lấy làm xốn xang thương cảm cảnh khách hành hương phải chịu vất vả đi vòng như
vậy. Nhà sư muốn rút ngắn đường đi. Ngài phát tâm đại nguyện, đêm đêm đến nơi
tảng đá đó tụng kinh Kim Cang, khấn vái cầu xin một trong hai điều: “Hoặc
có thể dời tảng đá đó đi nơi khác, hoặc là tảng đá nứt ra làm đôi để có lối đi
cho chư Thiện tín du sơn Lễ Phật”.
Ngài là bậc Đại Đức linh căn, nên tụng kinh đến 100 ngày,
thì vào ngày chót, một hiện tượng lạ xảy ra; Tảng đá to lớn ấy nứt làm đôi,
dang ra chừa lối đi bề ngang 1,50m như hiện nay đó.
Sự việc đá nứt hai cách nay hơn hai thế kỷ được lưu
truyền trong nhơn gian, nhất là dân địa phương Tây Ninh mọi người nghe biết.
Nhắc đến tảng đá nứt hai, người người nhớ đến công đức cao dày của nhà sư Tánh
Thiền, đều cúi đầu bái phục trước huyền diệu Đấng Hóa Công.
Đạo Cao Đài Đức Thượng Đế giáng cơ cho biết:
“Buổi Đạo bị bế, tuy chánh pháp ra cũ,
chớ kỳ trung thọ đắc kỳ truyền, luật lệ tuy cũ chớ Đạo vẫn như nhiên, do công
đức mà đắc Đạo. Nhưng có một điều là Ngọc Hư Cung bác Luật, Lôi Âm Tự phá Cổ,
nên tu nhiều mà thành ít.
Vì vậy, các con coi thử lại, từ hai
ngàn năm nay bên Á Đông nầy đã đặng bao nhiêu Tiên Phật? Các con duy biết có
một mình Huệ Mạng Kim Tiên mà thôi”.
Huệ Mạng Kim Tiên hay Huệ Mạng Trường Phan là Ngài vậy.
Ngài tu ở Linh Sơn Động, thường gọi Ông Đạo Nhỏ pháp danh Tánh Thiền, kiếp tu nầy
Ngài được chứng quả vị trở lại cõi vô hình như Thánh Ngôn đã dạy. Năm Ất Sửu
1925 (15–12 Ất Sửu), Ngài giáng cơ cho bài thi:
“Tây Ninh tu luyện Động Linh Sơn,
Chẳng quản mùi trần thiệt với hơn.
Trăm đắng ngàn cay đành một kiếp,
Công hầu vương bá dám đâu hơn.
Trước ước cùng nhau sẽ hiệp vầy,
Nào dè có đặng buổi hôm nay.
Gìn lòng tu niệm cho bền chí,
Bồng Đảo ngày sau đặng hiệp vầy”.
Sao gọi suối Vàng?.
Núi Điện Bà có biết bao nhiêu chuyện linh thiêng huyền bí
được truyền tụng, là nơi Linh Sơn thắng cảnh, non thiêng phước địa nằm trong
bản đồ Châu Thành Thượng Tây Vức Đồ.
Trong các điều lạ ở Núi Bà, có câu chuyện Suối Vàng đáng
cho mọi người quan tâm hơn hết, vì nó là mỏ vàng rất khoa học thực tế. Cách nay
30 năm, có một nhà Bác học người Nhật tìm lên Núi Bà khảo cứu, nghiệm xét chất
nước suối Vàng, Ông vui mừng tuyên bố: “Quả thật có vàng”, nên đặt
tên dòng nước suối Vàng là đúng. Ông nói đây là mỏ vàng còn non. Nước Việt Nam
quả là đất phước địa linh, trong tương lai sẽ có mỏ vàng vô tận…
Hiện nay 1979 các mảng vàng từ khe núi phía Bắc Khai Đon
chảy ra thành miếng vàng óng ánh, vớt lên không còn tan rã như trước nữa, chứng
tỏ mỏ vàng sắp đúng tuổi. Ngày nào đó mỏ vàng được khai thác thì đất nước Việt
Nam giàu mạnh.
Chung quanh núi sau nầy có Đại Lộ 60m, vì cảnh giới Cực
Lạc tại trần nơi Núi Bà nầy: Trên đảnh thượng có kim Tự Tháp thể Lôi Âm Tự, lẽ
dĩ nhiên xung quanh núi có nhiều Am Vân, Tịnh Cốc các đạo giáo Tu Chơn Thiền
Định.
Dưới chân núi phía Nam là dinh thự Tịnh Thất Nam Phái,
Văn Phòng Ban Kỳ Lão Phạm Môn, Trại mát thiếu nhi, Nhà Thờ Tông Đường…
Theo lời Đức Tôn Sư Hộ Pháp dạy Cửa Tu Chơn Nam phái khi
nhà Tịnh Thất đã hoàn thành thì các Nguơn Linh về đây trên ba ngàn người, chưa
kể các nhà Sư khác giáo. Ấy là Kinh Đô Tôn Giáo nơi hội tụ các Linh Căn… (Vùng
nầy sau thay cho Gia Định Thành về kinh tế, tôn giáo).
Cách Tòa Thánh 1.000m có Đền Thờ Phật Mẫu Bát Cảnh Cung,
có thờ Nam Bình Vương Phật. Cách 3.000m có chợ Vườn Điều làm nơi sinh sống cho
bổn đạo. Cách 11km nơi vùng đất Núi Phụng có chợ Linh Sơn, phía Đông Nam tại
chân núi Ông Văn có nhà Tịnh Thất Nam Phái, vị trí Vạn Pháp Cung Nhơn Hòa Động
theo bài thi:
“Phạm Môn cảnh tịnh đón hiền nhân,
Công đức Huệ Cung nhựt
rạng ngần.
Tắc Trí Giác nguyên
linh nguyệt rạng,
Nhơn Hòa Vạn Pháp mở
Tân Dân.”
Văn Phòng Ban Kỳ Lão Phạm Môn sau đặt ở Vạn Pháp Cung
Nhơn Hòa Động sẽ hiệp đủ THIÊN – ĐỊA – NHƠN (Tam Tài) và Tam Động: Nhơn Hòa
Động – Địa Linh Động và Thiên Hỉ Động. Trên đảnh phần trên núi là Cực Lạc Cảnh,
có Kim Tự Tháp thể hiện Lôi Âm Tự tại trần… một cảnh trí Thiêng Liêng an nhàn
tự tại, không không vướng bận lòng phàm tục.
Lấy Núi Bà làm trung tâm:
· Đo từ
chân núi về hướng Đông: 28km
· Đo từ
chân núi về hướng Tây: 12km
· Đo từ
chân núi về hướng Nam: 24km
· Đo từ
chân núi về hướng Bắc: 16km.
Bản đồ lấy trùm Tòa Thánh:
· Đông
Tây: (28+12= 40 )
· Nam Bắc:
(24+16= 40 ).
16.1- Long Hoa thị:
Long Hoa thị hay chợ Long Hoa được khởi công đào móng nền
chợ ngày 12–11–Nhâm Thìn (1952). Cũng trong dịp nầy, Đức Hộ Pháp dẫn khách đến
xem địa cuộc Long Hoa Thị, gồm có:
Bác Vật Lưu Văn Lang,
Ngài Trần Khai Pháp, Cao Tiếp Đạo,
Ông Thừa Sử Phan Hữu Phước, Ông Chơn Nhơn Trịnh Phong
Cương, Ông Trưởng Tộc Phạm Môn Phạm Văn Út, Ông Tổng Giám Võ Văn Khuê Ban Kiến
Trúc, Trần Phong Lưu Ban Nhiếp Ảnh.
Đức Hộ Pháp nói:
“Bần Đạo dời chợ cũ lại chỗ nầy để cất
Long Hoa Thị, nhờ Bác học xem địa cuộc sanh khí thế nào?”
Bác Vật Lưu Văn Lang nói:
“Ngài định chỗ thật tốt, có lẽ Ngài
biết trước nên mới định trúng ngay mạch nước “bát long dẫn thủy” lại
có “tứ hổ phục triều”, địa thế có nhiều nguồn sanh khí, sau nầy
Long Hoa Thị sung túc trở nên một kỳ quan ở đất Thánh, nếu giữa nhà lòng chợ
được lấy nước fontain thì đủ xài vì mạch nước lớn và tốt”.
Đức Hộ Pháp nói;
“Nếu có Bát Long dẫn thủy thì mở thêm
tám con lộ Bát Quái, còn trong nhà lòng xây một bồn nước thật cao, lấy nước
giếng giữa chợ cho các tiệm phố đủ xài. Nhà lòng định cất bốn cánh, có 2 tầng
lầu, tầng dưới cho bán thực phẩm, tầng trên cho bán đồ mỹ trang, hàng len, vải
bô, các món chơi tiêu khiển…
Trên bồn nước giữa chợ cất một nhà nóc
bằng để cho Thánh vệ ở, luân phiên gìn giữ chợ, ăn ở luôn trên nhà gát. Còn bốn
phía chợ đúc cột làm hàng rào bằng sắt bông thật đẹp, để trống cho bốn bên
trông vào chợ thấy thong dong mát mẻ, mỗi phía rào có một cổng, bốn mặt y nhau.
Mỗi cửa đề chữ theo mỗi hướng như:
Đông Môn, Tây Môn, Nam Môn, Bắc Môn. Đừng để mấy quán cốc um tùm che lắp vẻ đẹp
cái chợ. Còn các xép theo góc Bát Quái nữa, cho Ban Kiến trúc cũng đúc cột lên
mấy từng làm như phố vậy để làm nhà hàng hoặc bán các loại máy móc, radio, từng
dưới chừa 2 thước tây vuông để làm Trạm y tế cứu thương hoặc bệnh hoạn sẵn có
thuốc…”
Đức Hộ Pháp cầm dây đo ngang 40m, ở giữa lộ lớn có hai
cái lề, bên trong sát mặt phố có hai con lộ nhỏ xe hơi chạy được. Dài trên lộ
cũng cất 20 cái bar để trọn trên lề đường, bar ấy cất cũng hai tầng, cách 40m
một cái. Phần hành nầy giao cho Trưởng Tộc Phạm Môn và Chưởng Quản Phước Thiện.
17.1- Lễ Trấn Thần:
Vùng đất Long Hoa Thị được Đức Hộ Pháp trấn thần vào ngày
2-5- Tân Mão (1951).
Sau lễ Ban Phép Lành, Đức Hộ Pháp nói: “Chợ
chuyển thế đã đến ngày hiệp nhứt Đạo giáo, nên khiến toàn thể con cái Đức Chí
Tôn lo quay về một mối sống dưới cờ nhơn nghĩa của Đạo. Nhơn sanh qui tụ ngày
càng đông, nên Bần Đạo lập cái chợ nầy để tạo nguồn sống cho Nhơn sanh. Đây là
chợ chuyển thế và huyền diệu Thiêng liêng Đức Chí Tôn đã định, cái chợ không
người”.
Tại sao gọi chợ chuyển thế? Rồi đây Nhơn sanh, con cái
Đức Chí Tôn muốn cái gì nó biến ra cái nấy, Nhơn sanh muốn còn tồn tại hay đi
đến chỗ diệt vong thì cũng do ý muốn của Nhơn sanh.
Đó là Bát Quái Đồ Thiên của Thầy tạo lập mà không thành
thì cơ tận diệt của Nhơn sanh không tránh khỏi! Long Hoa thị biến chuyển, muốn
chánh thì nó chánh, muốn tà thì nó tà, muốn tiêu diệt thì nó cũng đi đến tiêu
diệt, muốn sanh tồn nó cũng đem sự sanh tồn.
Các con lưu ý nhìn cái Long Hoa thị nó biến chuyển ra sao
thì các con biết trước được mọi việc! “Thôi việc Thiên cơ Thầy không
nói nữa, các con tìm hiểu...”.
Long Hoa thị biểu hiện Đạo Cao Đài có Long Hoa Đại Hội
tại thế để điểm Đạo cho các bậc tu hành dày công khổ hạnh trong quả Địa cầu 68
(sáu mươi tám) nầy, tùy theo công quả, tâm đức mà đoạt thủ địa vị từ Hiền vị
đến Phật vị đều do Chưởng Giáo Di Lạc Vương Phật chủ khảo.
Ngày vinh diệu ấy toàn Nhơn loại trên mặt Địa cầu nầy sẽ
được Hồng Ân Đức Chí Tôn giáng lâm mừng cho con cái thương yêu của Ngài đã đạt
vị, có vàn vàn Thần, Thánh, Tiên, Phật chầu hầu hộ giá. Lẽ dĩ nhiên Bát Quái Đồ
Thiên sẽ là Lư Bồng của các Đấng Thiêng Liêng giáng ngự dự Long Hoa Đại Hội, là
nơi hội hiệp các Đạo giáo qui nhứt, ấy là ngày Tam Giáo Ngũ Chi hội Long Hoa
Đại Hội. Đó là huyền diệu của cái chợ không người.
Long Hoa chuyển tức là Bát Quái chuyển, đến một lúc nào
đó thì nơi đây không còn người bán buôn mà là nơi hội hiệp các Ngươn Linh Đạo
giáo để định pháp lập vị. Ấy là chương trình Đại Hội Long Hoa.
17.2- Địa thế Bát Long Dẫn Thủy – Tứ Hổ Phục
Triều
Theo địa thế sanh khí nguồn đất, nơi giữa chợ, Đức Hộ
Pháp cho xây bồn nước vì tại đó có mạch nước lớn đủ cung cấp cho vùng chợ 47 Ha , nên gọi mạch nước ấy là Bát
Long Dẫn Thủy, Tứ Hổ Phục Triều, nghĩa là tám nguồn nước gom lại thành một mạch
lớn.
Nguồn nước nầy là chi nhánh của Lục Long Phò Ấn: “Bởi
trung tim đất giáp lại trúng giữa sáu nguồn nước làm như sáu Rồng đoanh nhau,
nguồn nước ấy chảy trúng đãnh núi nên gọi “Lục Long Phò Ấn, nghĩa là con sông sâu
ba trăm thước gồm sáu nguồn nước.
Mạch nước lớn tại chợ Long Hoa do tám
mạch nhỏ gom lại. Chính Đức Hộ Pháp đã công nhận khoa học nầy, nên mở chợ Long
Hoa trong công thức Tứ Tượng là Tứ Hổ Phục Triều và khai thông tám con lộ Bát
Quái là Bát Long Dẫn Thủy.
Lịch sử của Chợ là Bát Quái Đồ Thiên
có Bát Long Dẫn Thủy – Tứ Hổ Phục Triều trong vòng 470.000m2, ắt uy
liệt gắp trăm ngàn lần hơn Bát Quái Đồ Trận của Khổng Minh giữ chân Lục Tốn
trong thời Tam Quốc phân tranh!”
Đức Hộ Pháp nói: “Cái chợ nầy Đạo lập dùm cho
Đời, sau nầy kiến thiết do Đời làm cho cái chợ tốt đẹp hơn”.
Quả không sai, vào năm Bính Thân (1956), chế độ đệ I Cộng
Hòa họ Ngô buộc Đạo phải bán cái chợ cho Chính Phủ với giá rất cao là một đồng
bạc danh dự (1 đồng) tượng trưng cho việc mua bán bất đắc dĩ. Phần kiến thiết
của Chính Quyền lợp tole xi–măng bốn cánh (sườn mái, Đạo đổ bê–tông xong) hàng
rào kẽm gai bao xung quanh chợ (thỏa ước Bính Thân 1956).
18.1- Đệ II chuyển
Qua chế độ đệ II Cộng Hòa Việt Nam do Ủy Ban Lãnh Đạo
Quốc Gia (Thiệu Kỳ) ban Pháp Nhân cho Đại Đạo sở hữu động sản và bất động sản,
vùng Thánh Địa Tòa Thánh Tây Ninh bất khả xâm phạm, Chợ Long Hoa được hoàn trả
lại cho Đạo làm chủ như trước. (Chế độ độc tài họ Ngô bị tiêu diệt ngày
1–11–1963).
Tứ tượng chuyển: cánh chợ phía Bắc phát hỏa.
Ngày 18–3–Tân Hợi (DL. 13–4–1971) lúc 14 giờ, cánh chợ
phía Bắc (hướng núi) phát hỏa đến 21 giờ đêm mới dập tắt được. Cánh chợ nầy bán
hàng vải, mỹ phẩm. Lúc bấy giờ chiến tranh phía Bắc là một biển lửa bom đạn vô
cùng ác liệt, Mỹ dội bom phải điều chỉnh qua Tivi sợ chạm đê điều.
Đấy cũng là thời kỳ Đệ II chuyển, các bar xung quanh chợ
cũng bị cháy tổng số hao tổn chung tính hơn hai trăm triệu bạc, vào thời điểm
đó số tiền khá lớn.
Trong năm 1966, Ban Quản Trị chợ Long Hoa tự động phá
hàng rào kẽm gai chợ, cất bar bằng vật liệu nhẹ cây + tôn. Sau có sự chống đối,
các bar nầy được giải tỏa, làm hàng rào kẽm gai lại lần nữa.
18.2- Đệ tam chuyển
Ngày 17–2–Đinh Dậu (1957), lúc 8 giờ sáng, một con Mễnh
chạy vào chợ Long Hoa bị đập chết! Sau đó, thương phế binh biểu tình dẹp các
bar cất trái phép và đòi đập phá 2 căn phố của Ông Nguyễn Hữu Lương xây cất
trên chéo đất góc đường Bát Quái khuôn số 6. (Tám xép còn dư theo góc lộ Bát
Quái, Đức Hộ Pháp định dành cho Ban Kiến Trúc có công cất chợ Long Hoa, chớ
không phải cho tư nhân).
Tiếp theo đến ngày 30–4–1975, sau khi đất nước thống nhất
theo CNXH, nhà nước Cách Mạng quản lý chợ thay tên là chợ Hòa Thành, lấy tên
Huyện đặt tên chợ. Phần kiến thiết khang trang hơn trước, xây mặt dựng đá rửa
bốn mặt chợ: Đông – Tây – Nam – Bắc và cho cất 180 cái bar bằng vật liệu nặng
tường gạch hai mặt giáp vòng thay cho hàng rào trông có vẻ thẩm mỹ. Khai thông
12 cửa: 4 cửa chánh Tứ Tượng và 8 cửa phụ Bát Quái. (Cửa Bắc chưa).
Số 12 cộng thành ba chuyển, Đạo quyền giải thể vào ngày
4–2–Kỷ Mùi (DL. 1–3–1979) thành lập HĐCQ nhân số 12 vị.
Phát hỏa kỳ hai. Ngoài tứ tượng bát
quái, cung càn.
Năm Quí Dậu ngày 29–1– (DL. 22–2–1993), lúc 8 giờ 30 phút
các bar ngoài tứ tượng thuộc cánh Đông Bắc phát hỏa thiêu rụi số bar bán hàng
mỹ phẩm, tổn hại giống y kỳ trước của năm Tân Hợi (1973) đúng vào số hai trăm
triệu bạc. Kể cũng lạ thật!.
18.3- Thay bảng Hòa Thành.Đổi lại chợ Long
Hoa.
Ngày 2–10–Quí Dậu (1993) bảng chợ Hòa Thành đổi thay Chợ
Long Hoa, tức Long Hoa Thị được phục hồi. Hội Đồng Chưởng Quản (do Phối sư
Thượng Thơ Thanh làm Chưởng Quản) được tăng số Hội viên lên 36, gọi là cải tổ
tăng nhân số từ 12 lên 36; Ấy là tam thập lục nhơn, do Đạo Lịnh ngày 9–10–Quí
Dậu (DL. 22–11–1993) ghi rằng: Kể từ nay nơi Điều II Đạo Lịnh số 01/ĐL ngày
01–03–1979) của Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ được bổ sung như sau:
“1. HĐCQ của Hội Thánh ĐĐTKPĐ gồm có
12 đến 36 thành viên.
2. Điều III: Các điều khác của Đạo
Lịnh 01/03/1979 vẫn còn hiệu lực”.
Cũng do PS Thượng Thơ Thanh ký tên.
Cách 1.000m từ Chợ Long Hoa xuống Trảng Mây, nằm cập lộ
trung tim giữa đường Báo Quốc Từ và Cao Thượng Phẩm có một hồ nước lớn tại lòng
sâu Trảng Mây. Phía tay mặt đường Ca Bảo Đạo đối diện với hồ tắm có một bệnh viện
cấp Châu Thành và một bến xe tại khu đất nầy. Đây là Thánh ý Đức Hộ Pháp đã
định, có sơ đồ của Đạo.
Xuống Long Hải, Chợ nầy nằm giữa hai lộ trung tim Báo
Quốc Từ và Cao Thượng Phẩm tại đám cao su hiện giờ. Địa đỉểm nầy có Đức Hộ Pháp
xuống chỉ chỗ, cất giữa hai con đường cốt yếu làm cho cái chợ được phồn thịnh…
Còn Chợ Long Hải hiện tại do Quận Trưởng Nguyễn Văn Mới,
vì chủ trương lập Ấp Đời Mới nên đem xuống đất ruộng cất chợ, đó là việc làm
không đúng theo bản đồ của Đạo đã định, nên chợ Long Hải không sung túc.
Xa hơn nữa là Giang Tân Bến Kéo, vùng đất nầy cũng là
Thánh Địa, nhưng địa thế hẹp nên không cất Tòa Thánh theo Thánh Giáo của Ðức
Chí Tôn.
Sông Giang Tân, Cẩm Giang sau nầy thành Thánh Giang như
sông Hằng ở Ấn Độ nơi Đức Phật Thích Ca tẩy trần đạt Đạo. Nhân ngày lễ thiêu
cốt các Thánh Tông Đồ năm Ất Mùi, (1955), Đức Hộ Pháp dâng sớ trình tấu việc
hỏa táng Chư Liệt Thánh, Xá Lợi thờ tại Bát Quái Đài, tro đem đổ xuống dòng
sông Vàm Cỏ Đông; cầu xin Đức Chí Tôn ban Hồng Ân cho dân tộc Việt Nam để sông
Giang Tân biến thành Thánh Giang như sông Hằng (Gange) Ấn Độ.
“Năm Ất Mùi là năm Đại Đạo trải qua
nhiều trạng thái vui buồn lẫn lộn, lắm cảnh tượng hiệp tan pha màu, khiến cho
Hội Thánh phải lắm công nhọc trí xoay trở thuận chiều, hầu trấn an toàn con cái
Đức Chí Tôn luôn giữ vững quyền Đạo cho khỏi lung lay, nghiêng đổ!
Riêng về phần Đệ Tử, nghĩ để cho qua
cơn giông gió bão bùng, đã nhập định một thời gian vô định kể từ ngày 28 tháng
8 năm nay, nhưng tâm não vẫn không lơi mọi hình thức biến chuyển để lách sóng
đưa con thuyền từ nhẹ tách…
Nay nhơn Đại Hội Chư Thần, Thánh,
Tiên, Phật triều Thiên Đệ tử khép nép cúc cung thượng sớ, xin Đại Từ Phụ và Đại
Từ Mẫu đại từ, đại bi tha thứ như Đệ Tử đã thượng trình về sự vui mừng trong
năm.
Vào thượng tuần tháng Giêng, lễ khánh
Thành Đền Thờ Đức Chí Tôn và Đền Thờ Đức Phật Mẫu đã được cực kỳ mỹ mãn, danh
Đạo bay khắp trời Nam, loán cả hoàn cầu; bởi có cả Sứ Thần ngoại quốc hưởng ứng
dự lễ, Nền đạo vững chắc, Thánh Địa hoàn toàn trở thành Thánh Thị vô phòng thủ
võ trang, thì Đại nghiệp Đạo từ đây là Đại nghiệp chung của cả nhơn loại.
Thừa dịp nầy, Đệ Tử có thiết lễ thiêu
phàm thân của Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt (Lê Văn Trung), Đức Cao
Thượng Phẩm (Cao Quỳnh Cư), Đức Nữ Đầu Sư (Lâm Hương Thanh) và Chánh Phối Sư
Ngọc Trang Thanh (Lê Bá Trang), Xá lợi đang thờ nơi Bát Quái Đài, tro tàn đã
rải trên dòng sông Giang Tân tỉnh Tây Ninh.
Nhờ Hồng Ân Đại Từ Phụ và Đại Từ Mẫu,
Đệ Tử khấn nguyện nước sông Giang Tân sẽ là Cam Lồ Thủy tẩy trược cho kẻ hữu
căn, người hữu phước, như dòng sông Hằng bên Ấn Độ Quốc, thì may mắn cho Chúng
sanh có nơi gội rửa bụi trần, giải bớt oan khiêngGG nghiệp chướng hầu khử ám
hồi minh, cải tà qui chánh!…”
Hải cảng Cam Lồ Thủy.
Nơi Thánh Cam Địa Ấn Độ Quốc có dòng sông Hằng để Thái Tử
Sĩ Đạt Ta tẩy trần đạt thành Phật Tổ, thì Thánh Địa Tây Vức sẽ có dòng sông Cam
Lồ Thủy để Chúng Sanh gội rửa bụi trần, giải bớt oan khiêng nghiệp chướng theo
sự cầu xin của Thiên Tôn Hộ Pháp.
Ngày nào đó nhơn loại sẽ được thọ hưởng Hồng Ân Của Đức
Đại Từ Phụ và Đại từ Mẫu ban cho, thì dòng sông Giang Tân trở thành Hải Cảng
Cam Lồ Thủy dành cho các sắc dân con cái Đức Chí Tôn đến tắm mát linh hồn.
Quả là cảnh ồn ào náo nhiệt như du khách đến Suối Tiên ở
Thủ Đức, Thủy Phủ ở Đầm Sen, Linh Sơn Động ở Núi Bà…
Còn đây là Cam Lồ Thủy tẩy trần đạt Đạo có lẽ hấp dẫn
hơn, vì đó là món ăn tinh thần.
Ngoại ô hướng Đông có:
· Trí Giác
Cung (Địa Linh Động).
· Đền Thờ
Phật Mẫu – Nhà Bảo Sanh Thuần Đức.
· Sân Bay
– Trí Huệ Cung (Thiên Hỉ Động).
· Đoạn
Trần Kiều (Thầy trò Tân Dân Tử).
· Ao Thất
Bửu.
· Chợ
Thiên Dương (An Nhàn Lộ).
Từ ngã tư đường Cao Thượng Phẩm Chợ Long Hoa, đường Trung
Hòa Lộ chạy xuống Qui Thiện là vùng Địa Linh Động Trí Giác Cung, có các dinh
thự thể hiện Diêu Trì Cung tại thế qua thể pháp sau đây:
Mặt tiền đường Trung Hòa Lộ có Cung Trí Giác là nhà tịnh
của Thời Quân (Cung Trí Giác trụ tinh thần), nơi đây Ngài Thời Quân Khai Pháp
đã nhập tịnh tháng 11 năm Nhâm Thìn (1952).
Đối diện Cung Trí Giác bên kia đường, có nhà Bảo
Sanh “Thuần Đức”, kể như nằm sau hậu Đền Thờ Phật Mẫu. Cảnh giới
Đức Hộ Pháp tạo Thể Pháp tượng trưng Bí Pháp, vì trên Diêu Trì Cung có: “Kim
Bồn vàn vàn Nguơn chất, tạo hình hài các bậc nguyên nhân, Cung Trí Giác trụ
tinh thần”. Đây là mặt hậu của Trí Giác Cung.
Còn mặt tiền có đường Khải hoàn từ Tòa Thánh chạy xuống,
có Đền Thờ Phật Mẫu, có Hộ Pháp Tịnh Đường, có các cơ sở Tứ Dân là nơi Tu chơn
cho cả nam lẫn nữ giữ phận tín đồ, theo Thánh Lịnh 139/TL.
Đức Hộ Pháp thuyết minh:
“Đức Phật Mẫu vốn là Mẹ của toàn thể
chúng sanh, Người là Mẹ sanh của toàn vạn loại, không có một vật chất nào hữu
sanh sản xuất không do tay Phật Mẫu.
Ngày nay Đạo Cao Đài được cái đặc ân
phi thường, chính Bà Mẹ của chúng sanh đến dìu dắt, độ dẫn cả phần hồn lẫn phần
xác. Tánh đức của Phật Mẫu chẳng khác gì tánh đức của các bà mẹ phàm…
Đền Thờ nầy do tay chơn mấy người tạo
ra, tại quyền Thiêng Liêng Phật Mẫu khiến vậy: Tòa Thánh cách đây ba ngàn
thước, tại sao phải có Đền thờ nầy đây? Tại nó phải có, Đền thờ nầy làm đặng tự
tay chơn mấy người, do lòng mấy bà mẹ muốn, mà muốn tức lãnh phần trách nhiệm thay
cho Mẹ đặng thương yêu nhơn vật. Tại mình gánh vào lãnh trách nhiệm làm chị
thay quyền cho Mẹ, đem sự thương yêu để trong lòng mỗi người Nữ phái em út của
mình…”
Đức Hộ Pháp đã nói rõ tại sao có Đền Thờ và dạy sự thương
yêu của nữ phái Trường Qui Thiện lãnh quyền làm chị thay Đức Mẹ dạy lại đàn em
Nữ phái.
22.1- Trường Qui Thiện do ông Đinh Công Trứ
lập
Năm Tân Tỵ (1941), Đức Hộ Pháp bị lưu đày. Ở nhà Ông Đinh
Công Trứ qui tụ số người Minh Thiện ở Phú Mỹ (Khổ Hiền Trang) Mỹ Tho về ở Tòa
Thánh hiệp nhau lập ra Trường Qui Thiện, gọi là qui lương sanh lo tu hành chờ
ngày Đức Hộ Pháp trở về cố quốc, một lòng giữ Đạo, không tham dự vào chánh trị
đời theo nhóm người Trần Quang Vinh.
Trường Qui Thiện lập thành ngày 26–9–Quí Mùi (1943) tại
vùng đất Bàu Sen, nay thuộc Đệ Bát Phận Đạo, lập ra cơ sở Tứ Dân. Đến ngày
15–10–Ất Dậu (1945) chiếu y luật Phước Thiện thành lập Bàn Cai Quản tùng lịnh
Hội Thánh Phước Thiện. Đến năm Kỷ Sửu, Ông Giáo Thiện Đinh Công Trứ bị tử nạn
(bị ám sát đêm 25/5/ KS).
Qua ba tháng sau (1949), Ông Chí Thiện Lê Văn Trung được
Hội Thánh bổ đến Chưởng Quản Trường Qui Thiện thay thế cho Cố Giáo Thiện Đinh
Công Trứ. Qua năm Giáp Ngọ nhằm ngày 11–11 (DL.05–12–1954) Ông Đạo Nhơn Dương
Văn Khuê vâng lịnh Đức Thầy dạy Đại Hội toàn tín đồ Trường Qui Thiện công cử
Chức Việc Ban Cai Quản lại; khi dâng lên Đức Thầy điều chỉnh lại danh từ “Bàn
trị Sự Địa Linh Động” ban hành kể từ ngày 5–12– Giáp Ngọ (29–12–1954).
22.2- Thành phần Bàn Trị Sự Địa Linh Động:
Tổng Quản Ban Trị Sự do Hội Thánh bổ đến.
1. Đầu Phòng Văn.
2. Quản khố (Thủ Bổn).
3. Cai Quản Giáo Huấn
4. Cai Quản Công nghệ.
5. Cai Quản Canh Nông.
6. Cai Quản Thương Mãi.
7. Quản y (Kiểm soát: 2 vị).
8. Nhiều vị Trưởng Ban, Chủ
Sở dưới quyền vị Cai Quản.
Chức Sắc Hội Thánh bổ đến:
1. Chưởng Quản Qui Thiện:
Chí Thiện Lê văn Trung (18–8–Kỷ Sửu 1949).
2. Tổng Quản Ban Trị Sự: Đạo
nhơn Dương Văn Khuê (11–9–Giáp Ngọ 1954).
3. Tổng Quản Ban Trị Sự: Đạo
Nhơn Văn Tấn Bảo (4–9–Tân Sửu đến 9–2–Giáp Thìn).
4. Tổng Quản Ban Trị Sự: Đạo
Nhơn Trần Văn Lợi (10–4–Tân Sửu).
5. T.Q.B.T.S: Đạo Nhơn Phạm
Duy Hoai (11–4 đến 25–5–Tân Sửu).
6. T.Q.B.T.S: Đạo nhơn
Nguyễn Văn Nhiêu (30–12–Đinh Dậu đến 12–4–Canh Tý).
7. T.Q.B.T.S: Giáo Thiện Lê
Văn Chưởng (29–6–Đinh Dậu, 27–12–Đinh Dậu).
8. T.Q.B.T.S:Đạo nhơn Nguyễn
Thành Lạc (11–9–Nhâm Tý 1972).
9. T.Q.B.T.S: Chơn nhơn
Nguyễn Văn Tấn (6–3–Ất Mão đến 01–6– Bính Thìn).
10. T.Q.B.T.S: Chí Thiện Lê Văn Chấp (2–3–Đinh Tỵ
đến 25–5–Kỷ Mùi)
Mười vị Thánh Nhơn Hội Thánh thuyên bổ đến quản lý Địa
Linh Động Trí Giác Cung cũng đủ thấy cơ quan Tu Chơn nầy để tạo Hiền nhơn là
người hiền, giáo hóa chúng sanh cho tận thiện tận mỹ theo Thánh ý Đức Phật Mẫu
là thương yêu vô tận mới đúng nghĩa của nó là Trường Qui Thiện. Trước mình phải
thiện, chơn thật, sau mới dạy người làm lành lánh dữ được.
22.3- Nghi thức thờ Phật Mẫu tại Đền Thờ Địa
Linh Động
Đền Thờ Phật Mẫu Địa Linh Động thờ đúng theo nghi tiết mà
Đức Hộ Pháp đã dạy: phân ra ba ban:
1. Giữa lập Thiên Bàn thờ
Phật Mẫu bằng Linh Vị chữ Nho “DIÊU TRÌ KIM MẪU” nơi Chánh
Điện. Phía ngoài ngó vô có Bàn Thờ Đức Nam Bình Vương Phật, cũng như ở Đền
Thánh có Bàn thờ Hộ Pháp mặc Thiên Phục ngó vào Bát Quái Đài vậy.
2. Căn bên tả thờ Bạch Vân
Động Chư Thánh.
3. Căn bên hữu nữ phái thờ
Cửu VỊ Tiên Nương.
Theo bài giảng tại Báo Ân Từ Tòa Thánh:
Ngày 6 tháng giêng năm Đinh Hợi (1947) lễ di Quả Càn Khôn
tại Báo Ân Từ về Tòa Thánh an vị, Đức Hộ Pháp dạy Lễ Viện Phước Thiện tạo Long
Vị để thờ Đức Diêu Trì Kim Mẫu tại Điện Báo Ân Từ đề chữ: “Diêu Trì Kim
Mẫu”, bên hữu “Cửu Vị Tiên Nương”, bên tả “Bạch Vân
Động Chư Thánh”.
Khởi đầu thờ Phật Mẫu ngày mùng 9 tháng Giêng Đinh Hợi
(1947), đúng 6 giờ chiều thiết Đại Lễ An Vị Phật Mẫu. Đức Ngài nói: “Nơi
Triều Thiên ở Đền Thánh chầu lễ Đức Chí Tôn là đẳng cấp áo mão, còn về đây nơi
cửa Phật là tình Mẹ với con mà thôi, hễ quan trường chịu luật nghiêm khắc, về
Mẹ không làm oai quyền, như vậy mới thấy bà Mẹ thương yêu con vô ngần, dầu vinh
hiển quyền quới thế nào, chung cuộc cũng về cùng Mẹ mà thôi.”
Đức Ngài sắp Chức Sắc Nữ quì Ban giữa, kế tiếp Đạo muội
quì sau chót. Bên ban hữu toàn là Nữ phái quì cúng. Ban tả Chức Sắc Nam Phái
quì trước, kế tiếp Đạo hữu.
Ngoại nghi có Bàn Hội Đồng, cũng hương, hoa, trà, quả để
mời chư vị Hiệp Thiên Đài quá vãng cũng như Đại Thiên Phong Cửu Trùng Đài như
Đức Quyền Giáo Tông… dự lễ bái Phật Mẫu. Sau ngoại nghi Đức Hộ Pháp cùng chư vị
Thời Quân quì cúng, Chức Sắc, Chức việc Hiệp Thiên Đài quì tiếp theo.
Khi Lễ thành, Đức Hộ Pháp cho gọi Lễ Viện Phước Thiện và
mấy em Giáo Nhi, Đồng Nhi đến đứng xung quanh Bàn Hội Đồng để nghe dạy:
“Khi cúng rồi phải day ra ngoài xá một
xá cũng như ở Đền Thánh vậy, nên hiểu không xá Hộ Pháp mà là xá để kỉnh chào
Khí Sanh Quang tức nguồn cội của Pháp biến sanh vạn vật, trước là Phật, Pháp,
Tăng gọi là Tam Qui, trong Pháp ấy xuất hiện Phật Mẫu, kế tiếp Vạn Linh, vạn
vật… Bởi cái Bí Pháp Diêu Trì Cung có liên quan mật thiết Hiệp Thiên Đài, một
căn cội Pháp. Vận hành Nguơn khí nơi nào có Hiệp Thiên Đài thì có Tam Qui,
Thượng Hạ Pháp Giới; mặc dầu nơi đây không có thờ chữ Khí, mà buộc mình phải xá
ra, đó là lòng tin tưởng biết ơn và chào sanh mạng của chúng ta đó vậy.
Mấy em Lễ Sĩ nhớ: Khi cúng Phật Mẫu
phải xướng câu: Nam Nữ Nhập Đàn, về với Mẹ ai cũng là con, không ai dám xưng
Chức Sắc, dầu Hộ Pháp cũng là con. Lễ Sĩ mặc áo Vàng phái Thái, được phép đi
giày hay vớ trắng.
Mấy em Giáo Nhi khi cúng Đàn nơi Đền
Thờ Phật Mẫu, đọc bài Kinh Tạo Hóa Thiên Huyền Vi Thiên Hậu, rồi kế điện
hoa…Khi cúng Tứ Thời mới đọc Bài Xưng Tụng Công Đức…, đến câu: “Cùng chung giáo
hóa, chung cùng lo âu” sửa lại đọc: “Cùng chung giáo hóa ân cần lo âu”. Để rồi
Qua cho lịnh Tiếp Lễ sửa lại chữ “Kinh trùng tự”.
Bài dâng hoa: đến câu “Cúi mong Thượng
Đế…” phải thài: “Cúi mong Phật Mẫu rưới Ân Thiên”.
Kỳ Lễ nầy theo lẽ cúng giờ Ngọ ngày
rằm, nhưng Qua định cúng thời Dậu cốt yếu thuộc Âm, lại là ngày Vía đức Chí
Tôn. Buổi đầu Qua biết thế nào cũng bợ ngợ sơ sót, nên cúng để chỉ dạy đặng tới
kỳ Sóc Vọng tới đây phải chấn chỉnh cho trang hoàng. Từ đây Lễ Viện Phước Thiện,
Hành Chánh phải tuân y lịnh, đừng sửa đổi: Cúng Lễ Chí Tôn thời Tý, còn Phật
Mẫu cúng thời Ngọ.
Từ đây về sau, nơi nào muốn lập Điện
Thờ Phật Mẫu, phải đợi có Thánh Thất rồi mới lập Điện Thờ sau. Phải coi theo
cách thức hành lễ ở Tòa Thánh và Báo Ân Từ, phải làm y một khuôn mẫu, chẳng nên
canh cải sửa đổi là trái Pháp”.
Nơi Điện Thờ Phật Mẫu tại Địa Linh Động có thờ Nam Bình
Phật Tổ hay Nam Bình Vương Phật cũng là Ngài. Nhơn chuyến đi Đài Loan của Đức
Hộ Pháp có đem về hai tượng ảnh Nam Bình Vương Phật, dạy nơi Đền Thờ Địa Linh
Động, thờ phía ngoài ngôi thờ ngó vào Chánh Điện Phật Mẫu, cũng như ở Đền Thánh
có hình Hộ Pháp ngự trên Ngai ngó vào Bát Quái Đài vậy.
Đây là việc làm của Phật Hộ Pháp, nào ai hiểu được… mà
luận thuyết thế nầy thế nọ… Duy chỉ biết rằng: Khi Đức Hộ Pháp cầm hai tấm
Tượng Phật xuống Trí Giác Cung Địa Linh Động, xổ thẳng xuống mà bảo rằng: “Đây
là Nam Bình Vương Phật, thờ ở đây là Phật Việt Nam, vì Ngài có công khai Đạo…”.
Còn lại một tấm giao cho vị Đầu Phòng Trần Thái Lang để thờ tại Hộ Pháp Tịnh
Đường Địa Linh Động…
Trong tượng hình có hai hàng chữ:
1. Hữu tế hóa nhân hữu tế hóa vật.
2. Thì vị kỳ trấn tả hữu ngã Phật.
Phật kỳ hữu linh kháng hương bái khất.
Nghĩa:
“Đức Nam Bình Vương Phật là Đấng Phật
huyền linh thường lo tế độ loài người và loài vật,
Nếu thành tâm nguyện cầu sẽ được linh
ứng”.
Để hiểu rõ cách thờ Nam Bình Phật Tổ, theo lời phê của
Đức Hộ Pháp giải đáp tờ thỉnh giáo của Thợ Hồ về hình tượng Nam Bình Vương
Phật. Đức Ngài nói:
“Chừng nào có Đền Thờ Phật Mẫu chính
thức, thì Thầy cho biết không gì lạ! Đền Thánh tượng trưng Bạch Ngọc Kinh tại
thế, có hình Hộ Pháp mặc Thiên Phục Khôi Giáp, thì nơi Đền Thờ Phật Mẫu tượng
trưng cho Lôi Âm Tự, lẽ dĩ nhiên đắp hình của Ngài, nhưng không mặc Thiên Phục,
chỉ mặc áo Cà Sa nhà Phật mà thôi.
Nơi Trí Giác Cung Qui Thiện nầy, Thầy
có dạy thờ Nam Bình Vương Phật trong Đền Thờ Phật Mẫu, cũng như hồi ban sơ Phật
Mẫu giáng cơ tại Thánh Thất Khổ Hiền Trang, Ngài cho biết nơi đây là “Phước Địa
Ngộ Tòng Hoa, Lục ức dư niên vũ trụ hòa” (Đất Phú Mỹ 600.000 năm, kém Thánh Địa
Tây Ninh 100.000 năm”.
Đức Phật Mẫu dạy tạm lập Nhà Thờ Phật
Mẫu tại Thảo Đường và cho biết sau nầy Tổ Đình Tòa Thánh hoàn thành rồi mới
khởi tạo Đền Thờ Phật Mẫu lớn lao cũng như Đền Thánh vậy. Nhưng nạn vay trả quả
nghiệp tiền khiên của dân tộc Việt Nam chưa dứt, khiến nạn biến cố mãi đến nên
không tạo đặng Đền Thờ nơi Thảo Đường Khổ Hiền Trang (Mỹ Tho).
Hiện giờ đây, Thầy có dành 4 mẫu đất (4 Ha ) trước cửa Hòa Viện Tòa Thánh
để tạo Đền Thờ (Xóm Tà Mun cũ). Nhưng lòng từ bi của Phật Mẫu thấy con cái của
Ngài đang chịu loạn lạc đồ khổ, và trong cửa Đạo con cái của Ngài cùng Hội
Thánh chưa thống nhất, nên Ngài dạy tạm thờ Ngài nơi Báo Ân Từ là Nhà Thờ công
nghiệp của con cái Ngài đặng thấy lòng thương yêu của Mẹ cưng con đáo để dường
nào…
Chừng nào cả con cái Phật Mẫu xúm nhau
sùng bái để gọi chút “Hiếu để” đền ơn với Đức Mẹ, thì ngày ấy sẽ có Đền Thờ
Phật Mẫu chánh thức…”
Vì chiến tranh, khiến cho số người Minh Thiện Đàn về Tóa
Thánh ở, không còn ở Phú Mỹ được nữa; do đó mà số người nầy hợp nhau cất Đền
Thờ Phật Mẫu nơi Địa Linh Động thờ Đức Mẹ thay vì Thảo Đường Khổ Hiền Trang (Mỹ
Tho), nên Đức Hộ Pháp gọi danh Đền Thờ Phật Mẫu và cho Cúng Lễ Hội Yến Diêu Trì
Cung hằng năm vào đêm 14, đặng đêm 15 về Đền Thờ Trung Ương dự lễ, Hội Thánh
HTĐ cúng Lễ Hội Yến.
· Trường
Qui Thiện lập ngày 26–9–Quí mùi (1943).
· Đức Hộ
Pháp từ Madagascar về, dạy Ông Trứ lần đầu vào ngày 12–8–Đinh Hợi (1947).
· Đến ngày
16–7–Mậu Tý (1948), dạy lần chót trước Hội Thánh CTĐ và Phước Thiện với đại ý:
Nếu sau nầy Trường Qui Thiện không tùng theo luật pháp Đạo thì hai đài có quyền
giải tán. (Đức Hộ Pháp dạy trong cuộc lễ khánh thành Đền Thờ Phật Mẫu Địa Linh
Động.)
· Ông Chí
Thiện Lê Văn Trung thay Ông Đinh Công Trứ ngày 18–8 năm Tân Sửu (1949), kế tiếp
9 vị Tổng Quản do Hội Thánh bổ nhiệm. Điều đáng quan tâm là Lễ Hội Yến Diêu Trì
Cung từ năm 1948 đến năm 1972 tại Đền Thờ Phật Mẫu Địa Linh Động.
Theo Đạo Pháp, Đền thờ chánh thức thì Cúng Lễ Hội Yến.
Đền Thờ nầy thay vì ở Khổ Hiền Trang, Phú Mỹ (Mỹ Tho), nơi mà Đức Phật Mẫu dạy
tạm thờ nơi Thảo Đường được tồn tại sáu trăm ngàn năm (Lục ức dư niên vũ trụ
hòa), nhưng vì chiến tranh không thực hiện được phải dời về Thánh Địa Tây Ninh.
Ông Đinh Công Trứ phối hợp Minh Thiện Đàn cất Đền Thờ Phật Mẫu tại Trường Qui
Thiện, đúng câu Đức Lý Giáo Tông đã dạy: “Minh Thiện sau là Qui Thiện”.
Minh chứng Đền Thờ Địa Linh Động cúng
Hội Yến.
Lần đầu tiên Đức Hộ Pháp bổ vị
Nhạc Sư bộ Nhạc Trung Ương Ông Trần Văn Sai và Giáo Nhi ở Tòa Thánh đến dạy
Đồng nhi ở Đền Thờ Địa Linh Động thài cúng Lể Hội Yến Diêu Trì Cung vào đêm
14–8 năm Mậu Tý. Ông Giám Đốc Trường là người ngoan Đạo, biết rằng Lễ Hội Yến
là Lễ đặc biệt của Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, nên quì bạch thỉnh giáo:
“Bạch Đức Thầy, chúng con biết lễ Hội
Yến do Chức Sắc Hiệp Thiên Đài bồi tửu. Nay Đức Thầy cho Đền Thờ Phật Mẫu Địa
Linh Động được cúng Lễ Hội Yến, vậy ai được phép bồi tửu? – Cầu xin Đức Thầy
chỉ giáo”.
Đức Hộ Pháp dạy: “Mấy con…”.
Kế tiếp năm sau, Đền Thờ nầy cũng vẫn được phép cúng Hội
Yến. Khi Đức Hộ Pháp đến Hộ Pháp Tịnh Đường Địa Linh Động, Ông Đinh Công Trứ
quì bạch: “Bạch Thầy, mấy con được cúng Lễ Hội Yến năm nay nũa là hai
lần, vậy đến chừng nào mới thôi cúng, cầu xin Đức Thầy chỉ giáo?”
Đức Hộ Pháp dạy: “Ngày nào Hiệp Thiên Đài đòi thì
trả”.
Chuyện nầy ai cũng đều nghe biết, nếu Ông Đinh Công Trứ
học trò ngoan của Đức Hộ Pháp còn tại trần thì không việc gì xảy ra. Song mọi
việc đều tiền định. Việc đến nó phải đến thôi!
Câu chuyện ngộ nghĩnh nầy nên nhắc chuyện Tây Du, lúc
Thầy trò Tam Tạng đã thành Phật đang bay trên không đem kinh về Đông Đô Trung
Quốc, bổng nhiên bị rớt xuống dòng sông Thiên Hà, phải phơi Kinh…Tam Tạng ngạc nhiên
hỏi: “đã thành Phật sao còn bị nạn?”. Đấu Chiến Phật đáp: “Việc
gì cũng có định trước”. Đó là cửu cửu qui chơn theo Pháp Phật, đàng nầy bốn
thầy trò mới có thọ 80 nạn, nên phải thọ thêm nạn thứ 81 tại dòng sông để phơi
Kinh đặng Phật thâu lại bí pháp độ sanh trong Kinh.
Ở đây muốn nói cái nạn tiền định của Cung nầy phải chịu
nạn giải thể, giải tán theo dự tri của Đức Thầy Hộ Pháp Di Đà. Đã định tức
nhiên phải đúng nghĩa: “Khi nào Hiệp Thiên Đài đòi thì trả”.
Tại sao?
Theo Thánh Giáo đêm 12–9–Ất Tỵ (6–10–1965), Đức Hộ Pháp
giáng dạy: “…Thầy đã nói với các con lớn nhỏ rằng: Thầy không buộc mỗi
đứa phải ở lại cho đến ngày Thầy về với Liên Đài; chỉ trừ chú Đốc (Bảo Đạo) và
Cao (Sĩ Tải), cùng đứa nào không bận bịu gia đình và hiếu đạo.”
Như thế đã rõ lắm rồi!
Nhưng đến năm Canh Tuất (1970), nước Miên có loạn, Ngài
Hồ Bảo Đạo bỏ cuộc về nước Việt (tháng 5–1970). Thời điểm nầy Ông Nguyễn văn
Thành Tổng Thanh tra đặc nhiệm chánh trị Đạo cho Ông là người chiêu hồi với
Chánh Quyền Saigon…
Đến tháng 10–1970, Ngài được Đức Thượng Sanh giao cho
việc Đạo. Qua năm Nhâm Tý (1972) Ngài được Ngài Hiến Pháp Chưởng Quản Hiệp
Thiên Đài giao quyền Thống Quản Tam Cung (Trí Huệ – Trí Giác – Vạn Pháp).
Đặc biệt là Địa Linh Động có Đền Thờ Phật Mẫu, đến Lễ
Trung Thu tháng 8, nơi Đền Thờ đã tổ chức cúng Lễ Hội Yến Diêu trì Cung tính
đến năm Nhâm Tý (1972) có hơn 20 năm rồi.
Lịnh Thống Quản: cấm Đền Thờ Phật Mẫu Địa Linh
Động cúng Hội Yến.
Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung 14–8–Nhâm Tý (1972), Thống Quản
Tam Cung ra lịnh cấm Bàn Trị Sự Địa Linh Động không được Cúng Hội Yến nữa.
Nghe qua cũng hơi đột ngột, vì nơi nầy đã được cúng Lễ
Hội Yến hơn 20 năm rồi, không thấy có sự cản trở nào. Nay bỗng nhiên nhận lịnh
của Thống Quản Tam Cung: Hồ Bảo Đạo không cho cúng! Ban Trị Sự nầy không tuân
hành, viện cớ rằng: “Lễ nầy do Đức Hộ Pháp cho cúng, vì nơi đây là Đền
Thờ Phật Mẫu, chớ không phải Điện Thờ như các địa phương.” Nghe vậy
thấy cũng có lý về phần của Địa Linh Động.
Khi dùng quyền Thống Quản, không giải quyết được; buộc
phải nhờ quyền Hội Thánh HTĐ, Ngài Hiến Pháp xuống lịnh cấm không cho cúng Hội
Yến. Nơi nầy cũng chống luôn.
Về phía Hội Thánh dùng biện pháp mạnh:
Để củng cố uy quyền, Hội Thánh liền đưa Thánh vệ xuống
canh giữ toàn diện Nội Ô Địa Linh Động, cô lập hẳn “Nội bất xuất, ngoại
bất nhập”.
Đã như thế mà còn sợ bất thành, phòng sự chống đối mạnh
của số người Địa Linh Động, nên phải dùng đến biện pháp mạnh bạo là: Yêu cầu
lực lượng cảnh sát của Quận Phú Khương, luôn cả tỉnh, mở cuộc hành quân ráo
riết, bắt giam 13 người ở Trí Giác Cung gọi là cầm đầu chống Hội Thánh, xuyên
suốt thời hạn gần một tháng, gây náo động xôn xao, dư luận xa gần lên án: “Quyền
Đạo bất thành, mượn quyền Đời trấn áp”.
Hành động như thế là “Diện phục, tâm bất phục”,
nhưng rồi đâu cũng vào đấy, vì trên Hội Thánh dùng số 13 của Thời Quân trấn áp
số 13 người ở Đất Địa Linh.
Sự việc nầy đúng vào dự tri của Đức Hộ Pháp đã nói trong
cuộc Lễ Khánh Thành Đền Thờ Phật Mẫu Địa Linh Động vào năm Mậu Tý (1948): “Nếu
cơ quan không tuân luật lệ Hội Thánh, thì hai Đài có quyền giải tán”. Ở đây
chỉ mới dùng quyền Hiệp Thên Đài đã giải tán, giải nhiệm Ban Trị Sự Địa Linh
Động vì thuộc hệ thống Hội Thánh Phước Thiện dưới quyền Thống Quản của Thời
Quân HTĐ.
Nguyên nhân nào đòi không được:
Nếu như Ngài Hồ Bảo Đạo chịu khó tìm hiểu lý do mà Đức Hộ
Pháp cho Đền Thờ nầy được cúng Lễ Hội Yến. Thứ đến Vị Giám Đốc Trường thỉnh
giáo Đức Hộ Pháp dạy ra sao? Hoặc là… Cổ nhơn có nói: “Biết người, biết
việc, biết mình, trăm trận, trăm thắng”.
Nếu biết rằng: “Ngày nào Hiệp Thiên Đài đòi thì
phải trả” thì hay biết mấy. Dùng pháp lý nầy thì Ban Trị Sự không còn
lý do diện dẫn chống chế được.
Trái lại, chỉ dùng quyền, mượn Thánh Giáo ở Kim Biên làm
lịnh… Nên đi sâu vào sự việc để thấy ánh sáng nhơn tâm và Thiên ý:
Đức Hộ Pháp qui Thiên ngày mùng 10 tháng 4 năm Kỷ Hợi
(DL.17–5–1959), đến 15–8–Kỹ Hợi, chỉ cách 4 tháng sau tới kỳ lễ Hội Yến. Ngài
Hồ Bảo Đạo cầu cơ xin sửa đổi đôi điều về Lễ Hội Yến mà Đức Hộ Pháp cho thi
hành khi còn tại thế.
Đức Hộ Pháp dạy: “Nghi lễ đã có sẵn, cứ do theo
đó mà làm theo không nên sửa đổi mà sanh rắc rối…”
Do đó, mà Đức Hộ Pháp dạy thêm: “khi Bần Đạo còn
tại thế, thì cúng Hội Yến tại nơi đây. Nay Bần Đạo đã về Thiêng Liêng, thì chỉ
cúng năm nầy rồi thôi, nơi đây không được cúng Hội Yến nữa”.
Lời dạy trên đây quả là đúng, vì ở Kim Biên Tông Đạo có
Báo Ân Đường do Ông Bà Đạo Nhơn Võ Hương Nhâm lập, coi như Điện Thờ địa phương,
có Đức Hộ Pháp ngự ở đó nên cúng Lễ Hội Yến. Nay Đức Hộ Pháp đã về Thiêng Liêng
vị, nên không cho cúng Lễ Hội yến nơi đó nữa là đúng Chơn Pháp, nơi
nào có Hộ Pháp mới được cúng Hội Yến, bởi Ngài là chủ quyền của Hội Thánh HTĐ.
Vả lại, chỉ cách bốn tháng sau khi Đức Ngài đã vắng mặt,
thì Ngài Bảo Đạo xin “sửa đổi”, nên Đức Hộ Pháp không cho Báo Ân
Đường Kiêm Biên được cúng Lễ Hội Yến nữa là do nguyên nhân xin sửa đổi.
Còn nơi Địa Linh Động Trí Giác Cung, chính Đức Hộ Pháp
cho biết đây là Đền Thờ Phật Mẫu đã định, nên Đức Ngài cho phép Đền Thờ nầy
cúng Lễ Hội Yến đêm 14–8. Còn Hội Thánh HTĐ Cúng Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung chính
thức vào đêm 15–8 là điều quá rõ; vì nó là gốc từ Thảo Đường Khổ Hiền Trang.
Nên chi khi Hội Thánh tạo Long Vị Phật Mẫu thờ tại Báo Ân Từ, có thiết lễ xuống
Đền Thờ Phật Mẫu Địa Linh Động rước tro Lư Hương về thờ tại Báo Ân Từ. Việc làm
nầy có hai ý nghĩa: một là nhìn nhận công của Ông Đinh Công Trứ, hai là Đền Thờ
tại Địa Linh Động thờ Phật Mẫu theo lịnh dạy tại Thảo Đường Phú Mỹ (Mỹ Tho).
Như vậy, nếu áp dụng lời dạy không được cúng Hội Yến ở
Báo Ân Đường Kiêm Biên khi Đức Hộ Pháp qui thiên rồi, mà đem cấm ở Đền Thờ Phật
Mẫu chánh thức đã được Đức Hộ Pháp công nhận dự lễ Khánh Thành vào năm Mậu Tý
(1948) và đã cho thiết lễ Hội Yến vào đêm 14 tháng 8 hằng năm, là sai Thánh Ý
đó.
Vì rằng: Hai nơi khác nhau cả thái cực ranh giới là: Báo
Ân Đường của Tông Đạo và Đền Thờ Phật Mẫu Địa Linh Động thay vì Khổ Hiền Trang.
Dùng quyền Hội Thánh đủ lẽ thì được, nhưng người hành giả
hành động sai Thiên Ý, từ cái ý định sửa sai ở Kiêm Biên dẫn đến cái sai ở Tòa
Thánh, Đức Phật đã dự tri trạng huống, biết chắc rằng Tín Đồ Địa Linh Động bảo
thủ sẽ phản ứng. Nhưng quyền Hội Thánh Thánh Thể Chí Tôn phải tuyệt đối bảo
trọng, nên Đức Hộ Pháp đã dạy trước: “Hễ chống thì giải tán”. Thật
không lầm vậy!.
Trong lúc nền Đạo chinh nghiêng (1941) không đủ người tài
đức điều khiển con thuyền Đạo vì thực dân Pháp lưu đày Đức Hộ Pháp nơi Hải Đảo
Madagascar…
Khiến nên một Chức Sắc Cửu Trùng Đài qui tụ tại hãng tàu
Nitinan của Nhựt có mưu đồ lập cơ binh. Nhóm người nầy có sự hướng dẫn của các
Đấng Thiêng Liêng kề cận, nhứt là Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt thường
giáng dạy về cơ chuyển thế; nên sau cùng lập Quân Đội Cao Đài do Giáo Sư Đại
Biểu Trần Quang Vinh lãnh đạo, dưới quyền có các Ông Giáo Sư Thượng Tước Thanh,
Giáo Sư Tuy, Giáo Hữu Thái Đến Thanh, Lễ Sanh Ngọc Hoài Thanh, Lễ Sanh Thượng
Tý Thanh.
Nhóm nầy qui tụ được đa số Chức Sắc, nên xưng danh
Hội Thánh Saigon.
Nhóm thứ hai có quí Ông Lễ Sanh Phái Thượng: Trườu – Trứ
– Giải, có quan điểm bất hợp tác với nhóm Saigon.
Do vậy mà xảy ra sự bất đồng, rồi đi đến chống đối nhau,
gây nên sự náo nhiệt không nhỏ, dẫn đến hận thù sâu đậm.
27.1- Hận thù xảy ra
Nhóm người hoạt động ở Saigon dựa vào thế lực quân đội
Nhựt Hoàng, bắt ba vị “Trườu – Trứ – Giải” đem xuống Saigon
khảo tra thậm tệ vào ngày 3–1–Quí Mão (1943), do Hiến binh Nhựt đến Tòa Thánh
bắt ba vị đem về Sở Hiến Binh Nhựt ở đường Chambre de Commerce.
Quyển Lịch sử Trần Quang Vinh ghi rằng: “Căn cứ
số 4 ở ngang đó dòm qua thấy rõ ràng sự khảo tra 3 vị Trườu – Trứ – Giải trong
đêm cho tới sáng… Ông Giáo Sư Đại biểu thấy vậy cứ cầu nguyện…” (thật
là vô lý – bắt đánh chơi rồi cầu nguyện ai?)
“Đó là động lòng từ bi, chớ suy ra cho
kỹ thì cũng đáng tội, tội tình nầy rất đáng, không còn ân hận gì. Bởi Hội Thánh
đã thấy trước, điều đình một cách ổn thỏa không được, ngày nay mới ra nông nổi.
Ông Giáo sư Đại biểu thấy đánh quá, Ông có qua xin giảm bớt đánh, Người có công
dẹp loạn nầy là Đạo hữu Nguyễn Văn Thành”.
Sự việc như thế đó! Thành ra hận thù mâu thuẫn lớn xảy ra
giữa hai nhóm Saigon và Tây Ninh. Sự bất đồng nầy không những có ba vị Trườu –
Trứ – Giải, mà còn có Quí vị Giáo Sư Thái Khí Thanh, hai vị Sĩ Tải Huỳnh Hữu
Lợi và Nguyễn Huợt Hải ở Kiêm Biên Tông Đạo (Nam Vang), còn ngoài Trung có Giáo
Hữu Ngọc Thành Thanh và Bà Lễ Sanh Hương Lộc cũng chống đối cơ quan phục quốc
của Nhóm Saigon do Trần Quang Vinh lãnh đạo.
Nếu tính nhân số, chống lại cơ quan Saigon, thì số người
hai bên gần bằng nhau, song bị phân tán ra nhiều nơi và dựa vào thế lực quân
đội Nhựt bắt giam đối phương.
27.2 - Khi được thả về, ông
Trứ làm gì?
Còn mang phàm thể, nào ai tránh được hận thù đã khắc sâu
trong đêm bị ngoại lai khảo tra tàn nhẫn do Đại biểu Trần Quang Vinh chủ trương
mượn quân lực trấn áp…
Trước trạng huống đau lòng ấy xảy ra, Ông Đinh Công Trứ
nghĩ rằng mình đâu kém gì hơn Trần Quang Vinh, nên có ý đồ lập đại nghiệp (nộ),
cũng có thể lãnh đạo được như ai vậy.
Theo lời dạy sau đây của Đức Tôn Sư Hộ Pháp: Vào ngày
12–8–Đinh Hợi (1947), Đức Hộ Pháp đến Trường Qui Thiện nói chuyện với ông Đinh
Công Trứ:
“Hôm nay, Qua đến nói chuyện để vạch
rõ đường lối cho mấy em trở lại. Đây không phải thuyết Đạo, chỉ nói chuyện với
Trứ và mấy em mà thôi.
Mấy em nên hiểu Đạo duy có một Hội
Thánh, chỉ một, dầu rằng chia ra nhiều cơ quan to tướng, cũng vẫn có một quyền
duy chủ của Hội Thánh là Thánh Thể Đức Chí Tôn mà thôi. Chí Tôn nói: “Hễ còn mê
tín, tức phải chịu dưới phép của tà thần tinh quái”. Qua chỉ lấy tình Thầy trò
mà nói chuyện với mấy em, Qua không biết Trứ nó mê hoặc các em cách lạ lùng.
Trứ, nếu em không nghe Qua, còn mê
hoặc nữa thì đắc tội cùng Ngọc Hư Cung, Qua nói cho cả thảy đều thức tỉnh, việc
hành động của mấy em đã nghịch hành tàng của Qua! Mấy em nên biết rằng nền Đạo
của Chí Tôn là tín ngưỡng chung cho toàn nhơn loại trên mặt địa cầu nầy, chớ
không riêng cho Việt Nam hay cho mấy em.
Ngược lại, hành động của Trứ chủ
trương, hướng dẫn mấy em với một nhóm đi ngoài Thánh Thể Đức Chí Tôn. Trứ! Có
lẽ em muốn làm Giáo Tông?
Ông Trứ bạch Thầy: “Con không dám làm
điều chi nghịch ý Thầy, khi Thầy ở hải ngoại, con như gà lạc mẹ, nên mấy con
qui tụ nơi đây mong Thầy về mà thôi”.
27.3- Treo bạch kỳ
“Qua nói cho mấy em biết cây cờ tang
nó trọng hệ là dường nào! Nhan Hồi buổi nọ có thật hành lý thuyết bình đẳng,
nhơn loại tránh nạn tương tàng, tương sát, chưng chưa làm kế chết! Em biết điều
đó chớ?” (Nghĩa là bắt đầu trương cờ, ông Trứ sẽ chết).
“Qua hỏi mấy em: chủ trương thượng
phướng Bạch Kỳ là ý nghĩa gì? Một điều làm trái Thiên Ý! Em có biết cây cờ Nhan
Uyên dùng nó lúc nào, mà nay đem ra thực hành, điều ấy ai biểu?”
Trứ bạch Thầy: “Vâng Thánh Giáo của anh Ba”.
“Phải, Qua cũng nhờ Thánh Màng nó mét
với Qua, Qua mới biết điều ấy, nó nói luôn sở hành của em đối với Qua, đối với
Hội Thánh CTĐ thế nào khi đã hợp tác với chính phủ Nhựt…
Họ thương Qua, mà đòi Chánh phủ Pháp
trả Qua, Qua không cần nói rõ ra đây, Qua nói rằng: Dầu cho Hộ Pháp cũng phải
chịu dưới mạng lịnh Thánh Thể Chí Tôn, nếu việc chủ trương nào có phẩm vị Giáo
Sư hay Giáo Hữu nhúng tay vào thì Qua cũng đồng ý chịu mạng lịnh… Qua đây còn
phục Hội Thánh mà em chống thì tiêu hủy đa!”
Trứ bạch Thầy: “Khi Thầy về, con
có dâng tờ thú tội rằng: Con không tùng Hội Thánh Saigon, vì lòng con nghi ngờ
không tin…”
Đức Hộ Pháp hỏi: “Em biết cây cờ trắng của ai?
Biểu hiệu ấy để cứu khổ nhơn loại phải không? – Chỉ một, khi Thượng Sanh ra đời
là cây cờ cứu thế, còn Thượng Phẩm là cây cứu khổ… Qua chỉ dìu dắt mấy em trong
đường cứu khổ, Qua thay cho Thượng Phẩm đã gầy dựng, đào tạo, Thầy trò chịu cực
khổ, chung chịu từ khoảng rừng xanh ít người lai vãng, nay trở thành đô thị cho
con cái Đức Chí Tôn chung sống.
Buổi Qua vắng mặt, ở nhà mấy em làm
điều ấy là nghịch lại Thánh Ý của Qua…
Màng là người Qua đã lựa chọn, nhưng
Màng đã thành Thánh vị về cõi Thiêng Liêng gởi Thánh Giáo cho mấy em học. Người
nói: “trong phương pháp cứu khổ chỉ có cầm cờ trắng của Mạnh Tử đặng giải hòa,
phòng duy trì cơ nghiệp nhà Châu nguy biến…”
Trứ! Việc của em làm cho Hội Thánh bất
mãn, nhứt là Chức Sắc Cửu Trùng Đài, chính Qua cũng bất mãn… Qua đã nói: Ngày kia
khi Giáo Tông ra đời, chừng đó Hành Chánh và Phước Thiện mới dung hòa thống
nhứt lại một. Một bên giáo hóa, một bên thực hành cơ cứu khổ, bằng chẳng vậy,
đến tận thế hành tàng cả hai đều phản trắc, nếu không dung hợp được thì Đạo của
Chí Tôn làm sao sớm thành được…
Vậy Qua nói một điều: Em phải
tuân lịnh Hội Thánh, tức là tuân lịnh Qua! Nhớ đa nghe!
Nếu tánh đức, cử chỉ mấy em còn chống,
thì Qua quyết định không nhìn và Qua sẽ cho ra mặt thế. Mấy em tự liệu… Từ đây
phải phúc sự tùng lịnh y theo khuôn khổ của Hội Thánh Phước Thiện”.
27.4- Sự biết Đạo của ông Đinh Công Trứ
Lập trường Qui Thiện là cốt yếu đem lòng lành của toàn
con cái Đức Chí Tôn hiệp nhứt cùng nhau làm một, đặng bảo thủ Chơn Truyền của
Đạo, nên có đôi liễng: “Qui Thánh Đức, trụ Thiên Lương, kỉnh trọng Hiền
nhơn thân cô độc. Thiện tùng tâm Hành chánh Đạo tảo trừ quái giáo giải oan
khiêng”.
Rõ ràng hiện nay nơi Địa Linh Động đã nuôi dưỡng các bậc
hiền nhơn thân cô độc (Dưỡng lão nam nữ Chức Sắc Hội Thánh đã dày công hành
Đạo) đã đúng nghĩa câu thứ nhứt. Còn câu thứ hai: “Tảo trừ quái giáo
giải oan khiên” là gì? Ai làm việc nầy?
Cơ quan nầy buổi đầu xuất hiện nơi Khổ Hiền Trang (Nơi
Ngọc Hư có Cung Khổ Hiền) do Đức Phật Mẫu và Đức Lý Giáo Tông giáng cơ lập
thành Trường Minh Thiện Đàn vào năm Mậu Thìn (1928). Đứng đầu Trường là Ông
Đinh Công Trứ.
Khi Đức Hộ Pháp từ Thủ Đức xuống, Đức Lý Giáo Tông giao
lại cho Đức Ngài và cho biết rằng: “Minh Thiện cũng là Qui Thiện”.
Nhờ Bậc Tôn Sư Hộ Pháp giáo hóa về nghĩa lý tối yếu, tối
trọng của nền Chơn pháp Đức Chí Tôn và giao cho Ông để làm cho thiên hạ hết
thống khổ về tinh thần lẫn vật chất.
“Sự biết Đạo của Ông Trứ là vậy”. (lời của Đức Hộ Pháp).
27.5- Cửa tu chơn, giữ phận tín đồ. Tạo hiền
nhơn
Thánh lịnh số: 139/TL ngày 16–1–Kỷ Sữu (DL. 13–2–1949) của
Đức Hộ Pháp Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài ban cho Trường Qui Thiện như sau:
“Nghĩ vì Trường Qui Thiện là nơi đào tạo Hiền
nhơn để chung lo cùng cơ quan Phước Thiện về phương diện cứu trợ sanh linh khỏi
cơ đồ thán.
Nghĩ vì công quả nầy thiên về phần âm
chất vô vi hơn về mặt chính trị hữu hình”. Nên:
THÁNH LỊNH:
“Chư vị hảo tâm hiến công quả nơi
Trường Qui Thiện, không nhận lảnh Phẩm tước. Cả thảy công quả Nam Phụ Lão Ấu
chỉ giữ phận Tín Đồ tùng lịnh Hội Thánh mà thi hành chủ nghĩa cao khiết trên
đây cho tới ngày về Thiêng Liêng vị mà thôi”.
27.6- Ông Đinh Công Trứ tử nạn
Đàn cơ tại Đền Thờ Phật Mẫu Qui Thiện ngày 26–10–Canh Dần
(DL…12–1950), Ông Đinh Công Trứ giáng cơ tường trình về sự tử nạn của ông:
“Thưa Thân Mẫu,
Con rất đau lòng cảnh măng tàn mà tre
vẫn còn tươi tốt! Nhưng biết sao được, Thiêng Liêng đã định, vậy cũng đừng oán
trách kẻ vô lương. Sanh ly tử biệt cũng không ai thoát khỏi; chỉ khác nhau ở
chỗ “Tử bịnh” hay “Tử nạn” mà thôi! Xin Thân Mẫu chớ vì con mà hao tổn tinh
thần…
Các bạn hãy đặt trọn đức tin nơi Sư
Phụ, thì ngày vẻ vang chẳng xa đâu.
Xin nhắn lời cùng bạn Trung rằng: bạn
hãy gắng lưu tâm mà dìu dắt các bạn cho ra thiệt tướng”.
Do lời nhắn nhủ đó, mà Hội Thánh Phước Thiện thuyên bổ
Ông Chí Thiện Lê văn Trung đến Qui Thiện làm Chưởng Quản thay thế cho cố Giáo
Thiện Đinh Công Trứ tử nạn ngày 25–5–Kỷ Sửu lúc 10 giờ 30 phút tại bờ cá vùng
Bàu Sen.
27.7- Tờ xin đái hiếu cư tang
Đền Thờ Phật Mẫu Địa Linh Động,
Bạch Sư Phụ,
Chúng con khờ đồng khép nép khẩn cầu Đức Sư Phụ ban hồng
ân chỉ giáo cho các con nhờ.
Bạch Sư Phụ, Khi Sư Phụ bị đồ lưu hải ngoại, thì ở nhà
Ông Đốc Trường của các con đã qui tụ anh em các con còn lại, có lập hồng thệ
cho các con cộng chung nam nữ 148 vị dạy dỗ các con trong năm năm khi Sư Phụ
vắng mặt, đầy đủ cảm tình thương yêu mật thiết, trù hoạch đủ phương châm trong
cơn loạn động, đặng nâng đỡ tinh thần các con, nên tạo được cơ nghiệp vĩ đại.
Ngày nay bạc phận vì mũi súng vô lương thành ra người
thiên cổ, vì sự đái hiếu cư tang, các con nhờ lượng khoan hồng Sư Phụ từ bi chỉ
giáo cho các con nhờ phước.
Trường Qui Thiện, ngày 24 tháng 5 Kỹ
Sửu
Chưởng Vụ: VÕ CÔNG BỘ.
27.8- Lời phê Đức Hộ Pháp
“Bần Đạo là thầy, nên muôn điều tha
thứ, mà vẫn biết khi vắng mặt bị đồ lưu, ở nhà mấy em như gà mất mẹ, nên phải
kiếm kế bảo thân. Khi về đã thấy hành vi sái Thiên Điều, phạm Chơn Pháp của Trứ
đã làm, nên lật đật dìu dắt cho nó chỉnh đốn lại cho thuận Thiên Điếu. Ấy là
phương giải kiết cho Trứ. Người muốn việc mà quyền Thiêng Liêng không định vậy,
nên mới phạm pháp Ngũ Lôi.
Mấy em giữ nghĩa là phải. Qua cho phép
mấy em đáp trọn nghĩa cho phải Đạo, nhưng Qua căn dặn đừng lấy làm lạ và đừng
buồn”.
(Hộ Pháp – Ấn ký ).
28.1- Ai lấy Long Tuyền Kiếm?
Có người cho rằng Ông Đinh Công Trứ đã lấy Trấn Kiếm dâng
cho Đức Hộ Pháp. Có phải vậy không? Do tài liệu nào?
Sự thật là Đức Hộ Pháp đã đi lấy Long Tuyền Kiếm, qua dẫn
chứng sự thật sau đây:
Trạng Tàu đã thông Thiên văn thấu triệt địa lý, biết
trước rằng Việt Nam sẽ xuất Trạng, xuất Tướng, nên dùng Kiếm Báu trấn ếm không
cho xuất hiện nhơn tài để chúng dễ dàng đô hộ. Nên họ bí mật đưa thầy địa lý
đột nhập vào Việt Nam để ếm Long Tuyền Kiếm vào năm 1914.
28.2- Sự tích lấy ếm Long Tuyền Kiếm:
Đêm 16–10–Mậu Thìn (DL.27–11–1928), Bát Nương Diêu Trì
Cung giáng cơ mách bảo hướng dẫn Đức Phạm Hộ Pháp biết rõ nguyên nhân Trạng Tàu
đưa thầy địa lý vào Việt Nam để ếm Long Tuyền kiếm:
Vào năm 1914, Trạng Tàu phái thầy địa lý người Triều Châu
mang kiếm báu Long Tuyền bí mật đến địa điểm ngọn Tràm Sập Láng Cát, có ngọn
núi “Lan” sắp thành hình tại làng Phú Mỹ, Quận Châu Thành, Mỹ
Tho, nằm về hướng đông, cách Thánh Thất Khổ Hiền Trang 11 cây số ngàn.
Phép ếm Long Tuyền Kiếm giữa ngọn núi Lan, làm cho nhân
tài Việt Nam không xuất hiện được, mỗi lần có nhơn tài xuất hiện đều bị kiếm
báu vớt dứt, không cho Việt Nam xuất Tướng, xuất Trạng.
May nhờ có Đạo khai trong nước, thì nạn ách sắp mãn, giải
thoát nô lệ ngoại bang. Nên được Hồng Ân Đức Chí Tôn cho hướng dẫn lấy phép ếm
của Trung Quốc.
Vào ngày 27–2–Kỷ Tỵ (14–4–1929), Đức Hộ Pháp hướng dẫn
phái đoàn Chức Sắc Đại Thiên Phong xuống Phú Mỹ viếng thăm Thánh Thất Khổ Hiền
Trang, mới họp toàn Đạo, Chức Sắc, Chức Việc và Minh Thiện Đàn để lập một Phái
Đoàn đi tìm Long Tuyền Kiếm.
Do Hiền Huynh Giáo Hữu Thượng Minh Thanh Cai Quản Thánh
Thất Khổ Hiền Trang mời Toàn Đạo trong các làng: Tân Hòa Thành, Tân Hội Đông,
Hưng Thạnh Mỹ, Phú Mỹ đến dự buổi họp do Đức Hộ Pháp chủ tọa, thành lập một
phái đoàn đi tìm Long Tuyền Kiếm.
Phái Đoàn gồm 36 vị, do 12 vị làm đầu hướng dẫn từng toán
trên 12 chiếc xuồng, có một chiếc ghe để đưa Đức Hộ Pháp và Chức Sắc tùy tùng.
Thành phần phái đoàn có 12 vị hướng dẫn 12 chiếc xuồng sau đây:
1. Hàm Sung Lễ Sanh
2. Lê Văn Trang Minh Thiện
Đàn
3. Nguyễn Văn Chưởng
4. Đỗ Văn Phò
5. Huỳnh Văn Phuông
6. Nguyễn Văn Chánh
7. Lê Văn Tiết
8. Phạm Văn Đương
9. Trần Thạnh Mậu
10. Cao Văn Phúc
11. Triệu Văn Kỳ
12. Lê Văn Phước.
Đúng 6 giờ sáng ngày 28–2–Kỷ Tỵ (5–4–1929,vào thời Ngọ, Đức Hộ Pháp hướng dẫn Chức
Sắc, Chức Việc, bổn Đạo Nam nữ và Phái Đoàn vào Thánh Thất nguyện cầu Đức Chí
Tôn cho việc đi tìm Long Tuyền Kiếm đạt được kết quả.
Phái đoàn xuống 12 chiếc xuồng bơi, còn một ghe chèo chở
Đức Hộ Pháp cùng 2 Chức Sắc hầu cận, trực chỉ dọc theo con sông thẳng đến chợ
Thầy Yến, rồi đi thẳng vào Láng Cát độ 5 cây số thì phái đoàn phải dừng lại một
rạch nhỏ. Lên bờ đi bộ thẳng vào một cánh đồng hoang, toàn là cây sậy, bàng,
năng, đứng mọc cao khỏi đầu. Người hướng dẫn đi trước, tay cầm một sơi dây dài
cho người đi sau nắm lấy dây để không bị lạc đường.
Đi độ 700 thước tới một gò đất cao ráo đúng như ngọn núi
hình thành, Phái đoàn tạm dừng chơn độ 15 phút. Đức Hộ Pháp liền chấp bút, có
Thần Lỗ Bang Sư Trưởng về chỉ dẫn Phái Đoàn: đi thẳng lên gò đất cao
nhất ngọn núi Lan vừa mới hình thành, đào sâu xuống sẽ gặp Long Tuyền Kiếm.
Theo lời hướng dẫn của Thần Lỗ Bang, phái đoàn tiến hành
tận chỗ cao nhất ngọn núi, bề dài độ 700m, ngang 500m vừa nhô lên khỏi mặt đất.
Từ đây Phái đoàn tuân theo sự chỉ dẫn của Đức Hộ Pháp,
đào sâu xuống lòng đất đụng đá cứng, rồi đào xuyên qua lớp đá cứng đó, liền
gặp:
· Một cái
ghè ăn trầu (bình vôi).
· Một lưỡi
dao phai rỉ sét
· 6 con cờ
tướng chạm trổ bằng ngà.
· 6 đồng
tiền kẽm thuộc đời Vua Minh Mạng.
Tiếp đào đất sâu hơn, đụng một cái hộp bao chì, bề dài 9
tấc. Toàn thể đồng reo mừng. Đức Hộ Pháp dạy: “Phải thận trọng đem bao
chì lên cho nguyên vẹn, lau chùi sạch sẽ, Long Tuyền Kiếm ở trong đó”.
Khi lấy lên xong, bao chì dài 9 tấc được gói kỹ lại bằng
vải đỏ mang về Tòa Thánh Tây Ninh. Đến đây, Đức Hộ Pháp dạy thêm:
“Nay là ngày Kỷ niệm nước Việt Nam
dòng giống Lạc Hồng, được hữu phước nhờ Đạo Trời Khai mở, gỡ ách nạn cho nhơn
loại và từ từ gỡ được ách nô lệ cho dân tộc, dòng giỏi Tổ phụ ta sẽ được phục
nghiệp, dân Việt Thường sẽ xuất hiện nhân tài phá tan xiềng xích, chẳng còn bị
lệ thuộc nữa…”
Đức Hộ Pháp liền ra lịnh phải đào một con kinh nhỏ bắt
đầu từ ngọn Tràm Sập băng ngang qua chót mũi Long Tuyền Kiếm cho bứt, hầu trừ
tuyệt sự sát hại của phép ếm.
Như thế, từ sự hướng dẫn của Các Đấng Thiêng Liêng, từ
nhân số 39, từ đường xa phải có dây dắt dẫn, cách thức đào lớp lang thế ấy; hỏi
người phàm xác tục có làm được điều quan trọng nầy chăng?
Chắc hẳn phải là Thiên Mạng, mới làm được việc trọng đại
nầy. Cho đến nay không một ai thấy được Long Tuyền Kiếm ở đâu.
28.3- Sự tích Long Tuyền Kiếm
Lược sử Long Tuyền Kiếm và Thái A Kiếm, tức hai thanh
kiếm báu do vợ chồng Can Tương và Mạc Da người nước Ngô có biệt tài rèn Kiếm
báu.
Sách Ngô Việt Xuân Thu chép rằng: Can Tương và vợ là Mạc
Da muốn thật hiện cho được thanh kiếm báu dâng cho Ngô Vương. Muốn hoàn thành
phải hợp hai quẻ Càn Khôn, Âm Dương hợp nhứt mới rèn được kiếm báu. Âm Dương
hòa hợp là huyền vi mầu nhiệm của cơ Tạo Hóa, nên hai vợ chồng Can Tương và Mạc
Da cố gắng đem hết sức tài rèn cho được kiếm dâng cho Ngô Vương để đền đáp công
ơn ngọn rau tấc đất.
Mạc Da tuyệt đối hy sinh, can đảm cắt tóc, móng tay; rồi
cuối cùng nhảy vào Lò Rèn hy sinh cả thân xác làm cho thép chảy ra, giúp cho
chồng là Can Tương hoàn thành được đôi kiếm báu bằng một hành động phi thường.
Nhờ vào đức tin tuyệt đối của Mạc Da đã giúp cho Can
Tương rèn được thanh kiếm sáng chói như mặt nguyệt, mũi kiếm trong sáng như
băng giá. Ban ngày mang thanh kiếm nầy thì mặt trời mờ ánh sáng, ban đêm đem
cất thì vầng trăng lóe màu vàng, sau chổi vì nó mà phải lùi xa, yêu ma vì nó mà
phải ẩn náu, lưỡi kiếm vô cùng sắc bén, chém đá như chém bùn.
Khi dâng lên Vua biết rõ tấm lòng hy sinh của Mạc Da đã
giúp cho chồng rèn được kiếm báu, nhà Vua vô cùng cảm động; để tưởng thưởng
công lao hy hữu đó, nhà Vua bèn ra lịnh gọi thanh kiếm dương là Can Tương,
thanh kiếm âm gọi là Mạc Da, đồng thời khắc chữ Long Tuyền kiếm vào thanh Dương
Kiếm, chữ Mạc Da vào thanh Âm Kiếm, gọi chung là: “Long Tuyền Kiếm và
Thái A Kiếm” là một cặp song kiếm hay còn gọi là Âm Dương Kiếm.
Về sau, trải qua nhiều thế hệ đổi thay… Mãi đến đời Tấn
Huệ Đế có Quảng Võ Hầu là Trương Hoa nhìn lên trời thấy giữa Sao Ngưu và sao
Đẩu có xung khí màu tím, chói sáng cả góc trời, dân chúng quanh vùng đều thấy
rõ, bàn tán về điềm lành, dữ…
Để trấn an dân chúng, Trương Hoa xuống lịnh cho Quần Thần
đi mời nhà Thiên văn là Lôi Hoán nổi tiếng ở Dự Chương đến xem màu sắc ứng hiện
cả một góc trời ứng về việc chi?
Nhà Thiên văn Lôi Hoán dẫn giải: Đó là ánh sáng của kiếm
báu ở huyện Phong Thành có chôn giấu Kiếm báu, nên màu sắc tím chiếu lên giữa
Sao Ngưu và Sao Đẩu chớ chẳng có chi lạ cả.
Vì ngưỡng mộ kiếm quý, Trương Hoa liền phong chức Huyện
Phong Thành thuộc tỉnh Chiết Giang cho Lôi Hoán đến trấn nhậm tìm cho được Kiếm
báu.
Tân quan huyện Phong Thành liền tuyển chọn một số bổn bộ
tâm phúc, bí mật đến tận chân thềm nhà ngục nơi chôn giấu kiếm báu. Đúng theo
sự chỉ dẫn của Lôi Hoán, đoàn tùy tùng đào trúng cái hòm đá đựng song kiếm báu.
Tìm được song kiếm báu vô giá, Lôi Hoán động lòng tham
của quý, chỉ dâng lên Vũ Hầu Vương một thanh Long Tuyền Kiếm có khắc chữ Can
Tương, còn giữ lại thanh Thái A Kiếm, tức là Âm kiếm của Mạc Da.
Sau con trai của Lôi Hoán mang Thái A Kiếm đi qua
sông “Diên Bình Tân”, thuyền vừa ra khỏi bến bỗng có cơn gió mạnh
ập đến, thuyền lắc lư, cây Thái A Kiếm xuống dòng sông, khi đó có hai con Rồng
hiện lên mặt nước cuộn sóng ầm ầm, thu Thái A Kiếm cuốn theo dòng nước mất
dạng.
Người đương thời cho rằng: Hai con Rồng vừa hiện lên giữa
dòng sông Diên Bình Tân là hiện thân của hai thanh kiếm Can Tương và Mạc Da
thuộc tỉnh Chiết Giang –Trung Quốc.
Từ Qui Thiện qua Giải Khổ Kiều, đến đầu đường Cảm Ứng gặp
Sân Bay, Đức Hộ Pháp khởi tạo từ năm Tân Mão – Nhâm Thìn. Nếu gọi Sân Bay ấy
cũng là chọn địa điểm làm dùm cho đời như việc tạo dựng Chợ Long Hoa vậy. Mô
hình đã sẵn có, ngày nào Đời cần đến thì cho kiến thiết để sử dụng… Về mặt Đạo,
Đức Hộ Pháp tạo chung cho toàn cầu, sau nầy khi tìm Đạo Trời hoặc đi tàu thủy,
xe du lịch hoặc phi cơ, ấy là phương tiện vận chuyển giao thông sẽ được nhanh
chóng dễ dàng hơn.
Đến ngày ấy, Sân Bay vùng Trí Huệ trở thành phi trường
Quốc Tế thương trường mậu dịch kinh doanh rất phồn thịnh, mà cũng là ngày hợp
nhất tín ngưỡng đại đồng thiên hạ…
Theo lộ Thiên Can đi xuống hướng Đông Nam, gặp một cảnh
lạ mắt: đó là ngôi nhà vuông vức cao 12m, ngang 12m, hình dáng như một cái hộp
vuông, bao quanh là 4 mặt đường có tên “Pháp Luân Lộ”.
30.1
- Hình tượng
Trí Huệ Cung:
Cơ mầu nhiệm mang số 12, cao 12m chia làm ba tầng mỗi
tầng 4m, bốn mặt, mỗi mặt 12m vuông vức thể hiện Âm (Trời tròn, đất vuông), ở
giữa trung tâm có một cây cột đội luôn ba tầng lầu đến nóc gọi là “Nhứt
trụ xang Thiên” thể hiện Dương. Số 12 là số riêng của Thượng Đế cũng
thể thập nhị Địa Chi; là nhà Tịnh của Nữ Phái.
Mặt tiền đi vào là An nhàn Lộ, qua Đoạn Trần Kiều lộ phân
hai chiều theo phương hướng sau đây:
30.2- Nghi tiết thờ cúng nơi Thiên
Hỉ Động
Cách thờ cúng vô vi, đúng bốn thời công phu: “Tý,
Ngọ, Mẹo, Dậu” đổ ba hồi chuông, mỗi hồi 36 tiếng, tính chung 108
tiếng gồm đủ dịch lý Âm Dương.
Nơi vùng nầy khi đổ chuông, Tín Hữu đứng dậy thành tâm
tưởng niệm Thánh Danh: “Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” và “Nam
Mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn”.
Bên trong cúng Tứ Thời được đọc bốn bài kinh: Niệm Hương
(Đạo gốc…). Khai Kinh (Biển trần khổ…). Ngọc Hoàng Kinh. Phật Mẫu Chơn Kinh.
Tưởng niệm hai Đấng chủ quyền Tạo Hóa Âm và Dương Quang. Dâng Tam Bửu, kế tiếp
Ngũ Nguyện là chấm dứt. Không đèn nhang. Đạo Vô Vi, thờ cũng Vô Vi.
30.3- Trấn pháp Thiên Hỉ Động 15 – 12 – Canh Dần
(1950)
Đức Hộ Pháp thuyết minh: “Hộ Pháp đến kỳ Long Hoa
Đại Hội nầy, cốt yếu để rước Cửu Nhị Ức Nguyên Nhân là bạn chí thân của Người
đã bị đọa lạc nơi hồng trần không phương giải thoát.
Muốn rước các bạn chí thân của Bần
Đạo, Đức Chí Tôn buộc phải lấy Pháp Giới độ tận chúng sanh. Hôm nay
là ngày mở cửa Thiêng Liêng và đưa nơi tay các Đấng Nguyên Nhân ấy một quyền
năng tự giải thoát lấy mình bằng hai món Bí Pháp: Long Tu Phiến của Đức Cao
Thượng Phẩm để lại và Kim Tiên của Hộ Pháp, hiệp với ba vòng Vô Vi là Diệu
Quang của Tam Giáo hay là hình trạng của Càn Khôn Vũ Trụ, tượng ảnh cho Huệ
Quang Khiếu.
Kim Tiên là gì? – Là tượng ảnh của
điển lực điều khiển Càn Khôn Vũ Trụ, tức là sanh lực vạn vật, nhờ nó mà mở Đệ
Bát Khiếu. (trong thân thể con người có bảy khiếu, còn có một khiếu vô hình là
Huệ Quang Khiếu).
Long Tu Phiến: Là Nguơn khí, đào lộn
vận chuyển Ngươn khí để tăng sinh lực, nhờ nó mà con người mới có thể luyện
Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần được.
Ấy là bí pháp trấn tại Thiên Hỉ Động.
Kể từ ngày Trấn Pháp nầy, bên trong là Quyền Pháp vô biên, vô giới, là bến giải
thoát cho Vạn Linh.”
30.4- Bến giải thoát cho nhơn loại
“Kề từ ngày Trấn Pháp Thiên Hỉ Động là
cửa Thiêng Liêng đã mở rộng. Bần Đạo xin toàn cả con cái Đức Chí Tôn, ai hiểu
biết mình đứng trong hàng Nguyên Nhân hãy tỉnh mộng đặng về với Đức Chí Tôn.
Cửa nầy là cửa các Nguyên Nhân đến đạt Pháp đặng giải thoát lấy mình. Nếu không
tự đến trong lòng Đức Chí Tôn, vì Đức Chí Tôn đã đưa tay ra nâng đỡ, mà chúng
ta không đến, thì sau nầy ắt sẽ bị đọa lạc nơi cõi Phong Đô.
Trí Huệ Cung là cơ quan tận độ chúng
sanh, Cửa Thiên Hỉ Động là cửa Thiêng Liêng Hằng Sống của toàn thể các Đấng
Chơn Linh, nó không chịu thúc phược hay chịu làm nô lệ cho một tư tưởng nào hơn
là tượng trưng cái quyền vô lượng vô đối mà các Đấng Chí Linh hằng tạo dựng Đại
Nghiệp cho toàn thể Nhơn loại đó vậy”.
30.5 - Đoạn Trần Kiều diễn tả:
“ĐOẠN thể hài thất tình lục dục,
TRẦN ai toan lánh tục tầm Tiên.
KIỀU ngân lố dạng Chùa Chiền,
AN tâm để bước cửa Thiền bày khai,
NHÀN tự toại gót giày bạch bích,
LỘ Khải Hoàn xúm xích vầy vui,
THIÊN môn mở cửa bày khai,
HỈ Thần chực rướcThiên đài thuận căn.
ĐỘNG Quân tử Tân Dân tỏ rạng,
TRÍ Hộ Cung sáng lạn chói ngời,
HUỆ thông Đạo Pháp tánh Trời.
CUNG Thần Phật tự độ đời khỏi nguy.”
30.6- Vãng cảnh Trí Huệ Cung.
(nói rõ Cầu Đường Phong Cảnh).
“Hứng cảnh phong quang khởi sắc,
Ngát trời cảnh vật đưa hương
Nọ trước mắt Tòa Lầu Cung Trí
Huệ,
Nhìn Đoạn Trần Kiều dòng suối uốn mình
bao thế hệ,
Trông An Nhàn Lộ vườn
cây lã ngọn mấy tinh sương
Gió nhẹ lâng chào đón khách thập
phương,
Nắng chói rỡ khơi tràn Ao Thất
Bửu.
Động Thiên Hỉ một vùng thế gian danh
hi hữu,
Lộ Pháp Luân bốn mặt Đạo Pháp lý siêu nhiên,
Kỳ hoa hớn hở bốn cửa đượm màu Thiền,
Dị thảo diềm dà ngàn trùng chen cội
đức.
Vào kỉnh lễ, trước một ghế chạm nổi
hình Sen Tây Vức,
Ngửa thành tâm, bên mấy Nghi Thờ soi
dấu Phật Nam Bang.
Nhớ Tôn Sư từ ngày sống lại cõi
Niết Bàn,
Giúp Đệ Tử vững chí chung xây nền Đại
Đạo
Cơ nghiệp đó chính tay Người đào tạo,
Hạnh phúc nầy đỡ bước kẻ tu hành,
Tầng địa lầu dưới đã thấy đành rành,
Tiếng Thần Hạc ngoài như nghe văng
vẳng.
Dạo gót Hiên Lan ngòi sương tay vẫy
thẳng,
Lóng chuông cửa Tịnh hồn bướm giấc mơ
nhành,
Nhác trông ra quang cảnh Đạo yên lành,
Hồi tưởng lại Sơ Đồ Thầy vững chắc
Ngang dọc hình Phi Trường chừng tái
thiết khách trông vui tầm mắt.
Trước sau chòm cổ thụ tiêu dao chim
hót đẹp nguồn thơ.
Viện Bảo Cô kế đó mới khai cơ,
Ban Kỳ Lão bên nầy chưa thượng
bảng.
Đẹp đẽ trời trưa vui cảnh rạng,
Êm đềm gió mát tận lầu cao,
Vòng vô vi treo trước ba cái vẫn ba màu,
Vật kỷ niệm để phía sau hai
xe cùng hai loại
Dãy nhà khách kế nhà lầu lộng lẫy,
Ấp Trường Xuân đưa mắt cảnh khang
trang.
Cửa hậu Trí Huệ Cung, ngay phắc Lộ
Thiên Can,
Mặt tiền Ban Kỳ Lão đẹp thay dường
thanh tịnh.
Giải Oan Kiều nằm mút đường nầy suối
gợi khách trì trai thiền định,
Văn Hiến Lộ mở ngang rẫy đó, người vui câu
kích ngưỡng vui ca
Kìa Ấp Cây Chò Ngũ Luân Lộ xuyên
qua,
Nọ cửa Trường học Tam Cang Lộ chạy
xuống.
Sở cao su mắt nhìn có luống,
Nhà Phái Nữ ngói lợp xây tường.
Lộ Cổ Phong xổ thẳng đến Phi Trường
Cầu Giải Tục nối liền về Trí
Giác
Ngắm cảnh đồ thơ duyên bát ngát,
Cho cành động ngọc sắc long lanh.
THI
Vùng Thiên Hỉ Động đẹp như tranh,
Quang cảnh nơi đây đượm sắc lành,
Bên đoạn Trần Kiều Ao Thất Bửu,
Trước Cung Trí Huệ bóng Tam Thanh,
Vườn hoa nhân ái thêm nhàn nhã,
Cánh cửa từ bi vẫn vận hành,
Trải mấy tang thương còn vững đó,
Làm cơ hoằng –pháp độ nhơn sanh”.
HUỆ PHONG.
30.7- Đoạn Trần Kiều: thầy trò Tân Dân Tử cỡi hạc
vân du.
Ngày 4–10–Giáp Ngọ (20–10–1954), sau khi Đông Du rước tro
của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để Điện Hạ từ Đông Kinh về Tòa Thánh, Đức Hộ Pháp
đến Trí Huệ Cung kêu Tá Lý Trần Văn Lành và anh em thợ hồ về hỏi về con Hạc
đứng trên nóc nhà mát Đoạn Trần Kiều, tại sao đắp sai?
Đức Hộ Pháp nói: “Khi Thầy đi, dặn mấy con ở nhà
đắp con Hạc ngó vô Trí Huệ Cung, trên lưng có hai người cỡi là Tân Dân Tử và
Tôn Võ Tử, ấy là thể pháp tượng trưng rước Phàm nhập Thánh, mấy con lại để day
đầu trở ra, như vậy là cốt yếu chở Thánh Lâm Phàm”.
Tá Lý Lành bạch; “Bạch Thầy, để mấy con sửa lại.
Thầy dạy mà mấy con quên, vì cố lo làm cho rồi.”
Đức Hộ Pháp nói: “Mấy con làm lỡ rồi thôi để y
vậy, dầu có sửa lại cũng không được vì đã làm xong rồi, việc nầy Thiêng Liêng
khiến vậy, cũng là phương pháp tượng trưng cho bậc Tu Chơn, dầu có lâm phàm mà
thắng nổi cái phàm mới là Thánh, bằng chẳng được, phàm vẫn là phàm”.
30.8- Ao Thất Bửu
Ao Thất Bửu để cho khách nhàn du khi đến tắm mát rồi vào
Trí Huệ Cung, hoặc quan khách, dân chúng ai muốn giải trí sẵn có nước tắm cho
mát.
Thuở xưa Tây Bá Hầu lập Linh Đài, Linh Chiểu. Linh Đài để
chiêu mộ Hiền tài, Linh Chiểu là ao chứa nước bố thí cho dân khỏi bị khát. Lúc
đào ao thí nước, gặp đốt xương khô, quân lính hốt liệng lên bờ. Ngài thấy vậy
cởi áo Cẩm Bào mà bọc đốt xương ấy, thể hiện câu: “Trạch cập khố cốt, Tây
Bá như thần nhơn. Hễ nhứt quốc chi vương, mẫu nghi thiên hạ chi dân; Quả nhân
nhứt quốc chi quân, Quả nhân vi chủ”. Một ngày làm vua thì ta là cha mẹ của
dân, một ngày làm chúa chỗ nầy, ta là chủ; thì đốt xương nầy, ta là chủ, vậy
các ngươi thiết lễ mai táng cho trang hoàng”.
Còn phương tiện cứu khổ của Đạo ngày nay là thật hành
nhơn nghĩa với sứ mạng Thiêng Liêng; nên chi hai chữ Nhơn Nghĩa đã nêu trước
Đền Thánh. Mỗi việc chi đều có thể pháp tượng trưng bí pháp, từ vật chất lẫn
tinh thần; lại nữa nhiệm vụ Thiêng Liêng là cơ tận độ siêu thăng cho các Chơn
Hồn, như việc lấy tro Kỳ Ngoại Hầu Cường Để.
Lập chợ Thiên Dương lấy tích
Thầy trò Tân Dân Tử và Tôn Võ Tử tu hành đắc Đạo cỡi Hạc về Tiên. Khi Hạc bay
ngang qua chợ, thầy Tân Dân Tử dặn học trò là Tôn Võ Tử phải giữ lòng không
tưởng mới về Tiên bang động phủ được, bằng còn lòng vọng tưởng chuyện phàm
trần, thì con Hạc bay không nổi, rồi con phải ở lại phàm.
Tuy Tôn Võ Tử đạt phẩm Nhơn Tiên mà tránh không nổi bợn
trần, nên khi con Hạc bay ngang chợ Thiên Dương, Tôn Võ Tử thấy những tàn tích
xưa nên động lòng bùi ngùi, làm cho con Hạc đáp xuống. Tân Dân Tử biết học trò
mình còn nhiễm trần thế, Ngài liền đằng vân về động, còn Tôn Võ Tử ở lại chợ
Thiên Dương.
Buồn lòng đi tìm quê xưa, thì vợ đã già quá 70, còn Ông
thì tuổi trẻ 40, muốn tạo sự nghiệp đời thì đã muộn, muốn tái lập đạo nhơn luân
thì vợ đã già.
Đã theo Thầy học Đạo 30 năm, nếu ở lại đây thì tiếc công
phu tu luyện, muốn về theo Thầy ngặt con Hạc không chịu cất cánh. Thôi đành cam
chịu lỡ Đạo, lỡ Đời.
“Ngày nay các con quên, làm Hạc bay về
chợ Thiên Dương là một duyên cớ nêu gương cho các bậc Tu Chơn phải gắng giữ
lòng thanh bạch, dầu có lẫn lộn nơi phàm thế, mà không nhiễm phàm mới đạt Đạo
được, đó cũng là phương chọn Thánh lọc Phàm”. (Lời Đức Hộ Pháp).
Việc chỉ định là Hạc bay lên Cung Trí Huệ, khiến quên là
duyên cớ thể pháp tượng bí pháp; đắp Hạc bay xuống chợ Thiên Dương là chở Thánh
lâm Phàm, coi chừng gương Thầy Tôn Võ Tử lỡ Đạo, lỡ Đời đó.
Ngoại Ô Thánh Địa có các phần ở Hướng Tây:
· Đại lộ
60m (Lộ Đại Đồng).
· Động
Đình Hồ – Vườn Hoa Kiểng (Bá Huê Viên).
· Cực Lạc
do Ông Thái Thơ Thanh lập.
· Vùng đất
xây Tháp Thời Quân. (6 Ha ).
32.1- Đại lộ 60 thước:
Nền Đại Đạo là của toàn vạn loại khắp Ngũ Châu, nên Đức
Hộ Pháp khai thông Đại lộ từ Đền Thánh nước Việt Nam giáp Đại lộ các nước ngoại
bang, hầu sau đây Đạo xuất dương, dân tộc các nước tầm Đạo được dễ dàng trên
lộ, dưới thuyền qua bài thi của Đức Hộ Pháp diễn tả cảnh trí Thánh Địa Tây Ninh
như sau:
“Đại đồng thiên hạ đó đi đây,
Tiện mối giao thông mở lộ nầy,
Trước mặt Cao Đài xuyên đất Việt,
Sau lưng Tháp ngọc tận trời Tây.
Ngang bằng mặt rộng hai bên rãnh,
Lưng thẳng thân to một lấy ngay
Trên lộ dưới thuyền Du khách ngoạn
Đường về tầm Đạo Động Thiên Thai.”
Trong tương lai, Đạo sẽ qui nhứt về một Tôn Giáo, một tín
ngưỡng, tất cả Quần Linh đều tôn thờ Đấng Cha là Thượng Đế, thì đường về tầm
Đạo nơi Thánh Tòa Tây Vức, đường rộng thênh thang sáng đẹp như đường về Động
Thiên Thai, có Động Đình Hồ phía bên tay phải từ ngoài đi vào, bên trái có Bá
Huê Viên, thật là một Thánh Địa đạo đức, nơi Hội tụ các Đạo giáo, du khách tạm
dừng chân nơi Động Đình Hồ du ngoạn rồi mới vào Thiên Thai Tổ Đình tầm Đạo
Trời.
32.2- Động Đình Hồ:
Thánh Giáo của Đức Lý Giáo Tông dạy lập Động Đình Hồ tại
Bàu Cà Na…
Động Đình Hồ bên Trung Quốc là nơi “thi rượu đong
muôn đấu”, nơi hội tụ của khách tao nhân. Động Đình trước Cổng Chánh Môn
của Đạo Cao Đài là nơi dừng chân tắm mát linh hồn để khách thập phương vào
Thiên Thai Tổ Đình tầm Đạo.
32.3- Cực Lạc Cảnh.
Cách Động Đình Hồ 1.000 thước là Cảnh Giới Cực Lạc do
Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh tạo lập phỏng theo Cực Lạc Thế Giới, gốm có các
Cung, cảnh như: Quan Âm Các – Phổ Đà Sơn – Long Nữ Điện – Cực Lạc Quốc – Bồ Đề
Ốc – Bá Huê Viên – trường Huệ Viên…
Phần hành nầy, Đức Hộ Pháp đã nói: “Anh Thái Thơ Thanh
chỉ về Cực Lạc Thế Giới có một lần, mà Anh muốn đem cả cảnh giới Thiêng Liêng
xuống trần thế, không hoàn thành được.đâu vì sái Thiên Thơ. Cực Lạc Thế Giới nó
ở trên Núi Bà, trên đảnh thượng có Kim Tự Tháp thể hiện Lôi Âm Tự tại thế”.
Đó là việc sau nầy.
Dưới chân núi Ông Văn là Dinh Thự Vạn Pháp Cung, nhà Tịnh
Thất Nam Phái, cơ sở văn phòng Ban Kỳ Lão Phạm Môn…
a) Dự định của Ông Thái Thơ
Thanh:
Ông Đầu Sư Thái Thơ Thanh có một hoài bão rất lớn, song
ngoài Thiên Ý; nào là dự định mở Hội Trường Hương mời các Tôn Giáo về tham dự
Đại hội do Ông tự động tổ chức, rồi tiến hành luôn Hội Long Hoa mà không báo
trình lên Đức Hộ Pháp và Hội Thánh.
Vì cớ, mà sau đó, Đức Hộ Pháp, Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương
Thanh hiệp cùng ba Chánh Phối Sư Nam Phái đến Cực Lạc ngăn chận việc Đại Hội và
giải thích việc Thiên Cơ cho Ông biết… nghĩa là sự việc chưa đúng lúc.
b) Pho tượng không trấn
thần – một hồn hai xác nhập xuất
Một trở ngại lớn về pho tượng của Ngài Quyền Đầu Sư Thái
Thơ Thanh, Ngài đi Đài Loan mướn người đúc pho tượng Ngài bằng cẩm thạch rất
đẹp, tượng có thần như người sống thật vậy.
Thời gian nầy, một hồn hai xác, khi hồn Ngài nhập vào pho
tượng thì xác thân bất định (điên loạn), nguy cơ ấy kéo dài một thời gian ngắn…
c) Biện pháp cứu vãn, chôn
pho tượng
Đức Hộ Pháp thấy tình trạng “một hồn hai xác”,
không để kéo dài được nữa, nên sai người bí mật đến Cực Lạc dời pho tượng cẩm
thạch ấy về Nội Ô Tòa Thánh chôn giấu rất kỹ trong khu đất Giáo Tông Đường hiện
nay.
Nhờ giải quyết như vậy mà giải thoát được sự điên loạn
hồn xác bất định. Cũng may cho Bà Nữ Đầu Sư thấy hình tượng cẩm thạch đẹp, Bà
cũng muốn tạc tượng cho Bà, nhưng nhờ tai nạn xảy ra cho Ngài Thái Đầu Sư,
thành ra việc định mướn làm tượng cho Bà phải ngưng lại. Tai hại thay cho việc
tượng không trấn thần!
d) Từ Nguyên Nhân
Đức Hộ Pháp đã có giải pháp cứu vãn tình thế kể trên,
nhưng việc pho tượng xảy ra làm cho Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh buồn bỏ về
Saigon an dưỡng nơi tư thất, không định về Tòa Thánh nữa. Do đó, Đức Chí Tôn
hành pháp thức tỉnh Ngài qua hình thể Phạm Hộ Pháp như sau:
Một đêm, Ông Nguyễn Ngọc Thơ nằm ngủ, độ nửa đêm nghe
tiếng kêu rất rõ: “Từ nguyên nhân, Từ nguyên nhân!”. Ông thức giấc
dòm thấy Đức Hộ Pháp đứng trên đầu giường, Ngài tưởng Đức Hộ Pháp phá giấc ngủ
của Ngài, nên nhắm mắt lại ngủ nữa.
Nhưng lạ thay! Vừa yên giấc thì tiếng kêu lại vang
lên: “Từ nguyên nhân, Từ nguyên nhân!” Ngài vẫn còn ý tưởng là
Đức Hộ Pháp phá giấc ngủ, nên không chịu thức dậy! Rồi tiếp tục ngủ nữa. Đến
lần thứ ba, khi tiếng kêu phát ra có mãnh lực hấp dẫn, nghe như có luồng điện
chạy vào xương sống làm đau buốc, buộc Ngài phải ngồi dậy, dòm lên cũng thấy
hình Đức Hộ Pháp y như lần đầu vậy. Ngài nghĩ rằng: “Xa vắng lâu ngày,
chắc Đức Hộ Pháp nhớ nhau nên làm vậy”. Thôi để biểu thơ lại đánh dây thép
mời Đức Hộ Pháp xuống gặp mặt.
Nghĩ thế, Ngài kêu vị thơ lại lên bảo: “Sáng nay
ngươi đi đánh dây thép mời Ông Hộ Pháp xuống có việc bàn nghe”. Nói
xong, Ngài không còn ngủ thêm được nữa, Ngài nằm suy nghĩ chuyện lạ vừa xảy
ra…Cánh cửa phòng nửa khép, nửa mở dường như để chờ đón bạn thân.
Đêm nầy, ở Tòa Thánh, Đức Hộ Pháp bỗng nhiên nhớ Ngài
Quyền Đầu Sư Thái Thơ Thanh một cách nồng nhiệt, tâm thần thôi thúc Ngài phải
đi thăm bạn. Nhờ sự thúc giục đó, Đức Hộ Pháp quá giang xe Cam nhông Saigon –
Tây Ninh, lúc nầy chưa có xe chở hành khách lưu thông, nhờ xe hàng chạy sớm nên
đã đến Saigon lúc 5 giờ sáng. Khi đến phòng nghỉ, thấy cửa không đóng, Đức Hộ
Pháp liền bước vào và nhìn thấy Ông Thái Thơ Thanh đang trầm ngâm suy nghĩ…
Gặp nhau, Ngài Thái Thơ Thanh quá vui mừng và hỏi
rằng: “Được dây thép hồi nào mà đến sớm quá vậy?” Đức Hộ Pháp
đáp: “Đâu có được dây thép gì, tôi nhớ anh quá, nên theo xe cam nhông
chở hàng xuống thăm anh, bây giờ mới 5 giờ sáng thôi”.
Nghe nói vậy, Ngài Thái Thơ Thanh kêu thơ lại đến hỏi có
đi đánh điện tín chưa? Người thơ lại đáp: “Thưa chưa đi vì 7 giờ nhà
dây thép mới làm việc”.
Đức Hộ Pháp hỏi: “Có việc gì quan trọng hay sao
mà anh sai đi đánh điện tín”. Ngài Thái Thơ Thanh đáp: “Đêm nay có
chuyện lạ xảy ra”. Rồi Ngài tường thuật câu chuyện với tiếng kêu: “Từ
nguyên nhân” và hình ảnh Hộ Pháp mặc Thiên Phục…
Nghe thuật xong, Đức Hộ Pháp nói: “Không phải tôi
làm vậy, mà tự nhiên khiến tôi nhớ anh nên vội vã đến đây. Việc nầy chắc có ý
nhiệm chi đây, vậy sáng nay cúng thời Ngọ xong, cầu Đức Chí Tôn để thỉnh giáo”.
Khi cầu cơ, Đức Chí Tôn giáng dạy: “Đó là Thầy.
Các con biết “Từ nguyên nhân” là “Từ Hàng Đạo Nhơn” xuống trần là con đó Thơ,
vì đã biết nguyên căn ráng lo tròn bổn phận để trở về ngôi xưa vị cũ”.
e) Tại sao Đức Chí Tôn
không hiện pháp thân, mà hiện hình Hộ Pháp.
Lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn định đến để qui
Tam Giáo, hiệp Ngũ chi. Nhưng Ngự Mã Quân của Ngài sợ thọ khổ khi lâm phàm; nên
tình nguyện Hộ Pháp xuống trần mượn xác thể Phạm Công Tắc lập Đạo thay cho Đức
Chí Tôn.
Vì cớ mà Đức Chí Tôn buộc phải lập Hội Thánh đặng Ngài có
hình thể trong Tam Kỳ Phổ Độ, nên gọi Thánh Thể. Lãnh sứ mạng trọng đại đó, Hộ
Pháp phải đi mời Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật xuống trần làm Thánh thể hữu hình.
Ngài Đầu sư Thái Thơ Thanh nguyên là Từ Hàng Đạo Nhơn cũng ở trong số Thiên
Mạng đến tiếp tay giúp cho Hộ Pháp lập Đạo, lập Hội Thánh, nên có sự thân thiết
nhau.
Có lẽ Đức Chí Tôn hiện hình Hộ Pháp vì lý do đó, thay
Trời lập giáo tức là Trời. Đức Lý Giáo Tông cũng nói: “Từ đây Hiền Hữu
là Thiên Điều, Thiên Điều là Hiền Hữu, nếu Hiền Hữu không trị, Thiên Điều mới
trị”.
32.4 - Tháp Thời Quân ở đâu? (Hàm Rồng hay Hầm Thạch
Quang).
Đây là thể pháp biến bí pháp. Tìm xem ngôi vị nơi Đền
Thánh thấy bảy Ngai: Giáo Tông, Chưởng Pháp, Đầu Sư lập vị thế ngôi giáo chủ
Nhơn loại (Giáo Tông). Sau khi liễu Đạo, những vị nầy đều được xây tháp sau hậu
Bát Quái Đài (Giáo Tông) và hai bên Đông – Tây Lang (Đầu Sư)… Hình thức lập vị
cũng như lúc sanh tiền; đó là Cửu Trùng Đài.
Còn Hiệp Thiên Đài, là Chơn Thần Đoàn Ngự Mã Quân của Đức
Chí Tôn, vâng lịnh Chí Tôn xuống thế ba ngôi “Pháp Đạo Thế”. Hộ
Pháp có Liên Đài trước chữ Khí, Liên Đài Thượng Phẩm trên mình rắn Thất Đầu Xà,
Liên Đài Thượng Sanh trên đuôi Thất Đầu Xà.
Ba phẩm vị: nhứt Phật, nhị Tiên nơi Hiệp Thiên Đài tọa vị
khi chầu Lễ Chí Tôn, lúc qui Thiên có xây Tháp nơi mặt tiền Đền Thánh ngó vô
cũng y như ngôi vị ở Đền Thánh trước chữ Khí, đó là Tháp: Thượng Phẩm, Hộ Pháp,
Thượng Sanh.
Còn Thời Quân không được xây Tháp trong nội ô, tại sao lạ
vậy?– Điều nầy ngoài sức hiểu biết của con người. Theo Thánh Giáo thì ngôi vị
Hiệp Thiên Đài có ba ngôi Tháp: Thượng Phẩm – Hộ Pháp – Thượng Sanh mà thôi;
thế thì ăn khớp y theo bảy cái Ngai của Cửu Trùng Đài như Giáo Tông, Đầu Sư đều
có xây Tháp (Riêng Tháp Chưởng Pháp chưa có?).
Vậy Tháp Thời Quân ở đâu?
Điều nầy Đức Hộ Pháp đã thuyết minh:
“Bần Đạo đã nói: Thập Nhị Thời Quân,
Thượng Phẩm, Thượng Sanh và Hộ Pháp gọi là Ngự Mã Quân của Đức Chí Tôn.
Phật Mẫu sợ Chí Tôn tạo Đạo không xong
phải tái kiếp, nên Bà cho theo xuống “Thập Nhị Thời Quân” phẩm tước cao trọng
thay, nhưng không có gì trước mắt Phật Mẫu.
Cả con cái Người vinh hiển sang trọng
đến đâu, Người càng rầu, càng lo, e rằng sang trọng ắt tự kiêu, biết đâu không
hại cho tương lai vô biên của họ vì quyền tước? Do vậy mà Đức Chí Tôn nói trọng
quyền ắt trọng phạt.
Phật Mẫu vì lo sợ cho Hộ Pháp một mình
cô thế nên xin Đức Chí Tôn cho 12 Thời Quân xuống tiếp tay lập thành nền Đạo;
đó là một danh dự lớn lao của Đức Chí Tôn đối với Thiên Điều, bằng chẳng Chí
Tôn phải tái kiếp lập Đạo, phải mang xác thân phàm tục. Điều quan trọng đó
chính Ngự Mã Quân của Ngài đã làm thay”.
Để xác minh Thánh ý đó qua bài Thánh Giáo của Đức Phật
Mẫu giáng cơ ngày 20–1–1929 (Kỷ Tỵ):
“…Diêu Trì Cung đã dâng sớ cho Chí Tôn
và Bảo Đạo Chơn Quân đã kiện nơi Ngọc Hư Cung. Thiếp còn nhớ khi đến dìu dắt
chư Đạo Hữu vào đường Đạo phải mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, thì Thiếp đã nói: Bởi
vì tình riêng của mấy Đấng Chơn Quân đến lo cứu độ, chớ không phận chi trong
lúc nầy và cũng bởi lịnh Chí Tôn sai khiến….
Chức rằng, nếu không phải Thiếp mở Đạo
thì không phương chi thành Đạo cho đặng…
Khi Thiếp mở Đạo độ ai, có phải cả
Chức Sắc Hiệp Thiên Đài, các Chơn Quân thiệt tình của Thiếp là ai chăng? Cũng
bởi Thiếp xin mà chư Hiền hữu phải hành hạ phàm xác khổ não muôn phần.
Chí Tôn có hứa với Thiếp rằng thế nào
cũng nâng đỡ chư Hiền hữu mà chẳng cho ai ỷ thế lộng quyền lấn hiếp, Thiếp mới
đến khai Đạo cho chúng sanh đặng Phụ mẫu song toàn.
Nào dè, vì lòng đại từ đại bi, quá
thương nhơn loại đành để cho chư Hiền hữu chịu hành hạ đến nỗi. Thiếp đã dâng
sớ cầu xin Đức Chí Tôn lượng xét, còn Bảo Đạo kiện cùng Ngọc Hư Cung về những
lời kẻ vô Đạo của Ca, Trang, Tương.”
Chỉ vì phận sự phụ tá trợ thủ Thiên Tôn Hộ Pháp, nên
trong Nội ô Tòa Thánh không xây Tháp Thập Nhị Thời Quân như Đầu Sư; cũng như
Đại Hội của Thượng Hội có Đầu Sư Nam Nữ mà không có Thời Quân là điều thấy rõ.
Vì nghĩa tình trợ thủ xây dựng Đạo nghiệp, nên Đức Thiên
Tôn Hộ Pháp phải chọn địa huyệt Hàm Rồng cấp cho mỗi Chơn Quân nửa mẫu (0,5
ha ) đất để xây Tháp và con cháu lập nghiệp.
Một chứng minh, Tháp Cao Tiếp Đạo xây trong Nội Ô phạm
mạng lịnh Chí Tôn, khi Đức Thượng Sanh biết rõ liền cho dời ra phần đất của
Thời Quân.
Vậy vùng đất sáu mẫu dành để xây Tháp Thời Quân là Huyệt
Rồng theo Thánh Giáo Đức Lý Giáo Tông: “Có một đầu Rồng day ra Giếng
Mạch Ao Hồ”.
Đặc điểm vùng đất nầy là hầm sạn trắng, có những hạt sạn
màu nâu, xanh lợt, vàng, đỏ, tím có thể là trứng đá, sau hóa thành ngọc thạch.
Đá sạn hóa thành ngọc thạch hoặc ngọc trong đá vẫn là chuyện thường đối với
khoa học và những nhà Bác Học cũng không chi là lạ, nó vẫn nằm trong luật tấn
hóa mà thôi (Kim Thạch Hồn).
Ở đây ta nhận chân lý thật tế dầu khoa học hay Đạo học
thảy đều chấp nhận được: Hễ thân xác của thân nhân được chôn vào Địa Huyệt Hàm
Rồng thì con cháu được giàu sang bổng lộc, đó là điều dễ chấp nhận và thực tế
hơn hết; có nghĩa là Hàm Rồng chớ không phải Hầm Thạch Quang.
32.5 - Chư vị Thời Quân đã nói gì?
Dầu cho thời gian ấm lạnh, không gian biến thiên xây
chuyển Đạo quyền như thế nào chăng nữa, vẫn có tiếng nói trung thực của bậc
Chơn Quân đáng ghi nhận để hậu sanh học hỏi:
Ngài Chơn Quân Trần Khai Pháp nói: “Thầy ơi, nếu
biết về đây để chứng kiến cảnh sát hại thế nầy, thà ở Hải Đảo mà còn hạnh phúc
hơn. (Cái chết của Thừa Sử Phạm Ngọc Trấn).”
Chơn Linh của Cao Tiếp Đạo đã về cơ cho Đức Thượng Sanh
rằng: “Em, Những chi của Thiên Quân (Ngự Mã Quân) để lại cố gìn giữ,
đừng sửa cải mà phạm Thiên Điều như tội của Qua đã làm”. (Truất phế Đạo
quyền Đức Hộ Pháp, bị thâu).
Ngài Bảo Thế đã nói: “trong dịp Đức Hộ Pháp vui,
Qua có hỏi: “Sau nầy Đức Hộ Pháp về Thiêng Liêng thì ai thay thế?” Đức Hộ Pháp
cười…và trả lời: “Ba Ông Bảo”” (Bảo Pháp, Bảo Đạo, Bảo Thế).
Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu đã nói: “Trước đây
tôi không về Tòa Thánh để giúp đỡ cho Đức Hộ Pháp… Nay về đây thì tất cả việc
Đạo từ nhỏ đến lớn đều do Đức Hộ Pháp tạo dựng…”
Ngài Khai Đạo Phạm Tấn Đãi đã nói: “Đức Hộ Pháp dặn
chư vị Thời Quân còn tại thế cố gắng bảo thủ Luật Pháp Chơn Truyền”.
Ngài Hồ Bảo Đạo nói: “Nếu thi hành Nghị Quyết thì
không còn Hội Thánh…”
Để kết thúc phần Hướng Tây Châu Thành Thánh Địa, xin
trích ra đây lời nói của Ngài Trần Khai Pháp Chưởng Quản cơ quan Phước Thiện
nói với Phạm Môn: “Bần Tăng mong sao Hiền Hữu hiểu rõ phận sự mình, rồi
sau nầy sẽ thấy ánh sáng huệ quang soi đường cho Hiền Hữu lần bước trên con
đường Chí Thiện”. (Nói với Ông Đợi).
Từ khoản rừng xanh năm 1926, nay trở thành một đô thị tôn
giáo, phải là bậc vĩ nhân thế kỷ mới sáng lập được. Cơ lập Đạo tạo nghiệp tinh
thần cho toàn nhơn loại chung hưởng hiện tại cũng như tương lai, đó là công ơn
vĩ đại, cao dầy của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc là Đấng thay Trời lập Đạo Cao
Đài.
Nếu không có Đức Ngài thì nơi đây còn là rừng rậm sầm
uất, một nơi sơn lâm chướng khí, bệnh tật, thú dữ cọp beo luôn luôn rình rập mà
thuở xưa có nhiều giai thoại ở Tây Ninh cọp ăn thịt người…
Nếu không có Đức Ngài là bậc kiên tâm trì chí, đặc biệt
hơn hết là nắm về mặt Bí Pháp Chơn Truyền khéo lèo lái con thuyền Đại Đạo đến
bến bờ, từng chịu bao thử thách đắng cay, tù đày nơi Hải đảo Madagascar trên
năm năm chịu nhiều khổ hạnh, thì ngày nay chưa có được một Châu Thành Thánh Địa
ẩn tàng nhiều Bí Pháp Thiêng Liêng.
Đức Ngài quyết tâm hiệp cùng Đức Thượng Phẩm, Đức Quyền
Giáo Tông một lòng sắt đinh không sợ thế lực Pháp quyền, cố làm cho thành Đạo
đặng vừa lòng Đức Chí Tôn, Phật Mẫu kỳ vọng; nên đã nêu danh ba người gan dạ
nhứt trong sứ mạng hoằng dương Đạo Pháp trong những năm gian truân nhứt từ năm
1926 đến năm 1934 (Bính Dần – Giáp Tuất) và điều quan yếu là Đạo Sử không quên
được đại công khai sáng nền Đạo của Quí Ngài.
Song hành hễ định phận tất phải có nơi an cư lạc nghiệp
sinh cơ. Hội Thánh lập Châu Thành Thánh Địa trước hết là việc phá rừng, phóng
đường phân lô chia đất cho mỗi hộ gia cư.
Trong Châu Thành Thánh Địa Đức Ngài phân ra Châu Thành
Thượng và Châu Thành hạ, tổng diện tích là 160Ha, phân ra 21 Phận Đạo, mỗi Phận
Đạo có nhiều Hương Đạo, mỗi Hương Đạo có nhiều Ấp Đạo và trong Ấp Đạo có nhiều
liên gia. Đó là “Cố nhân ái, đôn hồ nhân an thổ địa” theo
thuyết Nho Tông chuyển thế, rõ ràng là một hệ thống dịch lý.
Mỗi phần đất thổ cư 25m x 30m. Ẩn tàng dịch lý theo màu
sắc: số 2 màu đỏ, số 5 màu vàng, số 3 màu xanh. Số 0 thể Hư Vô Thái Cực.
Ba sắc: Vàng – xanh – đỏ biểu hiện cho Tam Thanh tượng
trưng Tam Giáo: Phật – Tiên – Thánh.
Số 0 là Hư Vô Thái Cực tức là mô cầu đi vào cõi tâm linh.
Vòng tròn biểu thị trọn hão nhứt là truyền thống di sản của nhơn loại, đó là
câu: “Nhơn vật hữu các Thái Cực”.
Về Ngũ hành, triết lý định vị mỗi Hành theo thứ tự màu
sắc như:
1. Thủy viết nhuận hạ, nước
sắc đen.
2. Hỏa viết viêm thượng, lửa
sắc đỏ
3. Mộc viết Khúc trực, cây
sắc xanh
4. Kim viết tùng cách, kim
sắc trắng.
Nhứt viết Thủy hướng Bắc (Sắc đen)
Nhị viết Hỏa hướng Nam (sắc đỏ)
Tam viết Mộc hướng Đông (Sắc xanh)
Tứ viết Kim hướng Tây (Sắc trắng)
Ngũ viết Thổ trung ương (Sắc vàng).
Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ đã tàng ẩn trong vũ trụ trời
đất. Thổ số 5 chiếm địa vị trung ương, chỉ Thiên Địa. Số 5 là số thành của 3+2
tức là tam Thiên, lưỡng địa.
Số 5 ở trung tâm bao hàm ý nghĩa lò cấu tạo uyên nguyên
tức Tạo Hóa. Sự cấu tạo nầy đúng theo luật Âm Dương của Vũ trụ.
Mỗi Phận Đạo có 1 vị Cai Quản là Đầu Phận Đạo Hành Chánh
và Phước Thiện (Chánh, Phó), trong Phận Đạo có nhiều Hương Đạo.
Hương Đạo: Mỗi Hương Đạo có 108 nóc gia (cộng lại thành
số 9) có Chức Việc Ban Trị Sự: Chánh, Phó và Thông Sự. Mỗi Hương Đạo có 3 Ấp
Đạo (3 x 36 = 108 nóc gia).
Ấp Đạo: Mỗi Ấp Đạo có 36 nóc gia.
Chủ quyền trong Hương Đạo là Chức Đầu Hương Đạo do vị
Chánh Trị Sự (Đầu Sư em) đảm trách, Ấp Đạo có Phó Trị Sự (Giáo Tông em) giáo
hóa về chánh trị Đạo và Thông Sự (Hộ Pháp em) phụ trách về luật pháp.
Trong mỗi Ấp Đạo có 3 Liên Gia, mỗi Liên Gia có 12 hộ có
1 vị Liên Gia Trưởng, gọi chung là Thập – Nhị Liên Gia Bảo. Đó là cách tổ chức
của Đạo phục vụ cho nhơn sanh, nơi nào cũng có Chức Sắc, Chức việc chăm sóc,
bảo vệ và giáo hóa nhơn sanh; nên gọi là Hội Thánh Em.
Chức Việc Ban Trị Sự
Trên có Hội Thánh hình thể Đức Chí Tôn, gồm có: Giáo
Tông, Hộ Pháp, Đầu Sư hiệp một là Hội Thánh Anh. Từ phẩm Giáo Hữu đến phẩm Phối
Sư là thành phần Hội Thánh cầm quyền Chánh Trị Đạo, trong 36 Phối Sư có 3 Chánh
Phối Sư: Thái Chánh Phối Sư chủ tọa Hội Thánh, Thượng Chánh Phối Sư chủ tọa Hội
Nhơn Sanh. Ngọc Chánh Phối Sư chủ trưởng Chức Sắc Cửu Trùng Đài.
Dưới có Chức Việc Ban Trị Sự cầm quyền hành chánh Đạo
trong một Hương Đạo do Đức Lý Giáo Tông lập thành, Ngài đã lập chức Chánh Trị
Sự và Phó Trị Sự, rồi dạy Hộ Pháp lập chức Thông Sự cho đủ ba vị cầm quyền Thế
Đạo.
Đức Lý Giáo Tông: “Phó Trị Sự là Giáo Tông em,
Chánh Trị Sự là Đầu Sư em, mà nơi Làng Đạo có Giáo Tông em, Đầu Sư em thì phải
có Hộ Pháp em là chức Thông Sự”.
Ngài đặt chức Chánh Trị Sự là Ông chủ đệ nhị quyền trong
Hương lân về phần Đạo; đó là Đức Lý Giáo Tông có ý định lập qui cũ đệ nhị chủ
quyền phục lại như trước. Ngài còn quyết định hơn nữa, để vị Chức Sắc ấy nắm
quyền Hội Thánh tức là vào hàng Thánh Thể Đức Chí Tôn, nghĩa là dự định lên
phẩm Lễ Sanh rồi lên Giáo Hữu tức nhiên vào Thánh Thể đó vậy. Ngài nói
thêm: “Nền Đạo Đức Chí Tôn chỉ lập có Thiên Đạo, nay lập thêm Thế Đạo
là Chức Việc Ban Trị Sự đó”. (Lời Đức Hộ Pháp).
Vị Liên Gia Trưởng đủ 5 năm công nghiệp được cầu phong Lễ
sanh.
Tổng Luận Châu Thành Thánh
Địa
幸遇高臺傳大道
好逢玉帝御塵間
Hạnh ngộ Cao Đài truyền Đại Đạo,
好逢玉帝御塵間
Hạnh ngộ Cao Đài truyền Đại Đạo,
Hảo phùng Ngọc Đế ngự trần gian.
Du khách tham quan Tòa Thánh, ngồi trên phi cơ nhìn xuống
thấy Đền Thánh, Đền đài Dinh thự nguy nga của Đạo Cao Đài trong vùng Thánh Địa,
nhà cửa san sát, đường sá thẳng tắp thênh thang, nẻo tắt đường ngang tạo thành
một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp.
Bay ngang chợ Long Hoa nhìn thấy các phố bar trấn theo tứ
tượng, Bát Quái, nhà lòng chợ bốn cánh, trải dài rõ ràng là một trận đồ Bát
Quái. Đó là chợ chuyển thế để cho nhơn sanh vọng tưởng điều lành thì phát hiện
điều lành và trái ngược lại.
Quan kiến cảnh vật hiện tại, liên tưởng đến khoản
rừng xanh rậm rạp trước kia mà sinh lòng cảm phục bậc vĩ nhân sáng tạo mà thốt
nên lời: Đức Hộ Pháp Chưởng Quản Nhị Hữu hình Đài, ngoài tài tình lập giáo, Đức
Ngài còn là nhà thiết kế Đô Thị đại tài trong khi trước đây vùng nầy là rừng
thiêng nước độc.
Nếu ngoài Thiên mạng, dù cho có bản lỉnh siêu nhân cũng
khó có thể thực hiện được cơ đồ như ngày nay. Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang là
bậc kế thừa sự nghiệp chưởng quản Pháp – Đạo – Thế trong Hiệp Thiên Đài, được
Đức Hộ Pháp khen tánh đức mềm dẻo, kiên nhẫn nên được ban cho quyền Chưởng Quản
Hiệp Thiên Đài.
Sau 14 năm kế thừa Đạo Nghiệp, Đức Ngài tuyên dương công
nghiệp vĩ đại của Đức Hộ Pháp như: “Nếu không có Đức Hộ Pháp thì không
có Đạo Cao Đài, đành rằng tìm ra mối Đạo đều do ba vị Hộ Pháp – Thượng Phẩm –
Thượng Sanh.
Nhưng nếu không có Đức Hộ Pháp thì lập
Đạo không thành vì Đức Ngài có Thiên tài đặc biệt về mặt Bí Pháp Chơn Truyền và
kiên gan trì chí, chấp nhận gian khổ và chịu lưu đày để lập xong nền Đạo cho
vừa lòng Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ…”
Theo bài thi mà Đức Lý Giáo Tông nói về quyền hành trong
khi cầm quyền Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài của Đức Ngài như sau:
“Bắt ấn trừ yêu đã đến kỳ,
Ngọc Hư định sửa mối Thiên thi.
Cửu trùng không kế an thiên hạ,
Phải để Hiệp Thiên đứng trị vì.
Thành pháp dìu đời qua nẻo khổ,
Nên công giúp thế lánh cơn nguy,
Quyền hành từ đây về tay nắm,
Phải sửa cho nên đáng thế thì.”
Đó là quyền hành Đức Hộ Pháp Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng từ những năm Ất Hợi (1935)…
PHẦN VIII
Phụ Lục
1.-
Cổng Chánh Môn – Cội Bồ Đề
2.-
Thâu quyền chức Tổng Giám có hợp lệ
không?
3.- Lưỡng Long Tranh Châu hay Lưỡng
Long tranh Cổ Pháp.
4.- Lưỡng Long Tranh Cổ Pháp hay
tấm bảng đại loạn.
5.- Cửa xây sai bản đồ Đạo – Cây Bồ
Đề chết
6.- Cách trồng cây bồ
đề
7.- Cuộc thanh trừng ngày 20 tháng
8 năm Ất mùi (1955).
8.- Hỏa thiêu hài cốt Thánh tông
đồ
9.- Đức Hộ Pháp tiên liệu diễn biến
trong năm Canh Thìn (1940)
Tìm hiểu mười bốn năm kế thừa Đạo Quyền, Đức Thượng Sanh
không khánh thành Cổng Chánh Môn là do nguyên nhân nào?
Ngày 10–7–1965 (Ất Tỵ), lễ đặt viên gạch đầu tiên xây
Cổng Chánh Môn theo bản đồ Ty Kiến Thiết Tây Ninh, do Ngài Bảo Thế Lê Thiện
Phước đương quyền Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài và Thiếu Tướng Lê Văn Tất
tỉnh trưởng Tây Ninh chủ trì. Lúc bấy giờ có thỉnh Đức Thượng Sanh từ Saigon về
dự lễ và ban Huấn Từ như sau:
“Đã từ lâu Hội Thánh có ý định kiến
thiết Cửa Chánh Môn theo sự chỉ định của Đức Hộ Pháp. Mãi đến hôm nay mới có cơ
hội”.
Trong bài diễn văn khai mạc cuộc lễ thì Ngài Bảo Thế đọc
rằng: “Cửa Chánh Môn được xây theo bản đồ của Ty Kiến Thiết vẽ, cao 9m,
ngang 54m, trên nóc có ban công chở 2 Rồng Phò Cổ Pháp.” Bản nầy được
trưng bày tại địa điểm xây cất.
Thế là Diễn văn và Huấn từ hai hướng khác nhau như Đông
và Tây, âm dương cách biệt; làm cho mọi người đều lưu ý tại sao lại có chuyện
trống đánh xuôi, kèn thổi ngược như thế?
Nên buộc lòng phải tìm hiểu nguyên do cớ sự.
Nguyên vào thời điểm Ngài Lê Bảo Thế cầm Quyền
Chưởng Quản HTĐ theo bài thi được Đức Hộ Pháp giáng cho:
“Quyền uy nhờ bởi giữ Chơn Truyền,
Chưởng đức dụng Hiền mộ Thánh Tiên.
Quản quán Chúng sanh tu cội phúc,
Hiệp hòa Nhơn sĩ hưởng tiền duyên.
Thiên môn mở rộng nguyên nhân đến,
Đài nội tuyển thăng Thánh Đức lên.
Thừa thế chuyển nguy an Thánh Địa,
Mạng Trời đâu để Quỉ hành quyền”.
(Ngày 6–2–Ất Tỵ 8–3–1965).
Đức Hộ Pháp ban cho Ngài Bảo Thế nắm Quyền Chưởng Quản
HTĐ và dạy rằng: “mạng Trời không để Quỉ hành quyền”, cùng lúc với
Thiếu tướng Lê Văn Tất đáo nhậm Tỉnh Trưởng Tây Ninh, nhân cơ hội về ở gần với
Đạo trong Tỉnh nhà. Quan Tỉnh trưởng thấy có cơ may để tiếp tục lập công với
Đạo, với Hội Thánh.
Đức Hộ Pháp đã dạy các bậc tiền bối trong Ban Kiến Trúc.
Đến đây xin nói thêm: Ông Trần Văn Lành trước đây là Tá
Lý thợ hồ vâng lịnh Đức Hộ Pháp đắp con Hạc trên nóc Đoạn Trần Kiều chở hai
Thầy trò Tân Dân Tử và Tôn Võ Tử, day đầu vô Cung Trí Huệ có ý nghĩa đưa phàm
nhập Thánh, nhưng Ông Lành lại sơ ý đắp con Hạc đầu quay xuống chợ Thiên Dương
tức là chở Thánh lâm phàm. Trường hợp nầy cũng là tiền định!
Ngày nay Cổng Chánh Môn cũng không ra ngoài tiền lệ đó,
nghĩa là nếu không phải Ông Trần Văn Lành cương ra lãnh làm thì trong Ban Kiến
Trúc chắc rằng cũng không có người thứ hai vậy.
Vậy tiền định là gì? – Tất cả công việc xây dựng của Đạo
đều phải trải qua nhiều công đoạn, như Đền Thánh phải qua bốn lượt xây dựng mới
hoàn thành, Chợ Long Hoa và các Dinh Thự đều ở trong thức lệ nầy, thì ngày nay
Cổng Chánh Môn vẫn phải chịu công lệ đó. Và sau đây, một ngày nào đó, con cái
Đức Chí Tôn, ai có sứ mạng lập công sẽ lãnh bản đồ làm đúng theo Thánh ý.
Quả thật một việc làm sai cả hai mặt pháp lý lẫn hành vi;
bởi rằng: Huấn Lịnh của Hội Thánh Phước Thiện không đủ thẩm quyền vô hiệu hóa
được Thánh Lịnh của Đức Hộ Pháp Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài.
Việc nầy khi xảy ra mới biết rằng: Ban Kiến Trúc do Thánh
Lịnh lập thành, là cơ quan biệt lập của Hiệp Thiên Đài. Hành Chánh và Phước
Thiện chỉ điều hành về việc tu bổ hoặc xây dựng mà thôi. Vì linh hồn cơ quan
nầy do Hội Thánh HTĐ chủ quản.
Nói rõ hơn, Ông Chơn Nhơn Lê Văn Trung Chưởng Quản Hội
Thánh Phước Thiện lập Huấn Lịnh thâu hồi quyền chức của vị Tổng Giám Lê Văn Thế
là bất hợp pháp, bởi Huấn Lịnh thấp hơn Thánh Lịnh.
Sau một tháng bị áp đảo ngưng quyền chức Tổng Giám, Ông
Lê Văn Thế mang Thánh Lịnh số: 231/ đề ngày 20–8–1950 của Đức Hộ Pháp lập thành
Ban Kiến Trúc là cơ quan biệt lập của Hiệp Thiên Đài, xuống tư thất của Đức
Thượng Sanh tại Saigon để trình tấu:
Đức Thượng Sanh thấy Ngài Bảo Thế quá quyền hành động sai
Thánh Lịnh của Đức Hộ Pháp, nên Ngài chuyển giao cho Bộ Pháp Chánh minh tra đủ
yếu tố, Ngài liền ra Chỉ Thị số: 72/CT ngày 27–8–Ất Tỵ (DL. 20–9–1965):
THƯỢNG SANH
CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
Kính gởi:
Hiền huynh Bảo Thế
Hiền huynh Đầu Sư.
Tham chiếu: V/v Chưởng Quản Phước Thiện
ra Huấn Lịnh thâu hồi nhiệm vụ Tổng Giám Ban Kiến Trúc Lê Văn Thế.
Kính Quí Hiền Huynh,
Theo phúc trình minh tra số: 157/PC
của Hiền huynh Hiến Pháp Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh thì vị Chưởng Quản Phước
Thiện không có thẩm quyền thâu hồi nhiệm vụ của vị Tổng Giám Ban Kiến Trúc Lê
văn Thế, vì chức vụ Tổng Giám ngang hàng với Giáo Hữu Cửu Trùng Đài.
Ngoài ra, chiếu theo Thánh Lịnh số:
231/TL ngày 20–8–1950 của Đức Hộ Pháp, Ban Kiến Trúc là một cơ quan công thợ
biệt lập chịu dưới quyền điều khiển của vị Tổng Giám và đặt dưới hệ thống của
Cửu Trùng Đài và Phước Thiện để tạo tác hoặc tu bổ các cơ sở trong châu vi Tòa
Thánh.
Nếu vị Tổng Giám nầy không làm tròn
phận sự hoặc không tuân lịnh thượng cấp thì tùy trường hợp, bên Hành Chánh hay
bên Phước Thiện phúc báo lên Hội Thánh HTĐ để nội vụ được giao qua Bộ Pháp
Chánh minh tra đủ lẽ rồi Hội Thánh HTĐ mới quyết định sau.
Vậy xin Quí Hiền huynh ra lịnh cho các
cơ quan dưới quyền trực thuộc của mình thi hành theo đề nghị của Bộ Pháp Chánh,
gồm hai khoản dưới đây:
1. Quyền chức của vị Tổng Giám Lê Văn
Thế vẫn giữ như cũ.
2. Ngưng công cuộc tạo tác những Thánh
Thất và Đền Thờ Phật Mẫu trong các Phận Đạo (chiếu theo lời phê của Đức Hộ Pháp
và Quyết nghị của Hội Nhơn Sanh năm Giáp Thìn (1964).)
Những Thánh Thất, Đền Thờ Phật Mẫu cất
lỡ rồi, Hội Thánh sẽ tùy nghi sửa đổi cho hợp thời và hợp lệ.
Nay kính
Ngày 25 tháng 8 Ất Tỵ
(DL 20 – 9 – 1965)
Thượng Sanh
(Ấn Ký)
Hãy nhìn vào Bát Quái Đài Đền Thánh sẽ thấy việc làm của
Đức Chí Tôn qua sự thực hiện của Đức Hộ Pháp. Rồng Bạch đang chầu Bát Quái Đài,
mình thẳng, đầu day ra ngoài; đó mới gọi rằng Phục Long, Rồng chầu Bát Quái.
Vì bản chất của Rồng là Long năng biến hóa…
Nơi cổng Chánh Môn lại đắp hình Rồng mình uốn khúc, đầu
day vô và hả miệng chực nuốt Cổ Pháp. Ấy là Rồng Tranh Cổ Pháp, bảo sao Đạo
không loạn…
Hình dáng Rồng kiểu đó là Lưỡng Long Tranh Châu.
Thời Xuân Thu Chiến Quốc, số Trời định Tần Thủy Hoàng gồm
thâu lục quốc. Nên Bình Linh Đại Hội Tam Giáo Thánh Nhân, cho Hải Triều Thánh
Nhơn dẫn các Động Chơn Nhơn xuống giúp Tần Thủy Hoàng gồm thâu thiên hạ trong
sáu nước: Yên, Tề, Sở …
Phần Liễu Nhứt Chơn Nhơn, Ngài cũng có sứ mạng quân âm
thầm trung và hiếu nghĩa đối với hai nước Yên Bang cùng Tề Quốc. Thế nên khi
quân Tần đến hai nước Yên, Tề thì bị sự kháng cự của Liễu Nhứt Chơn Nhơn làm
cho binh Tần thua chạy cuốn cờ, xếp giáp, các Động Chơn Nhơn cũng đành thất thủ
trước binh pháp của họ Tôn.
Vì thế nên Hải Triều Thánh Nhơn phải giáng lâm thành Lâm
Tri nước Tề đấu phép cùng Tôn Tẩn. Trận thách đấu xảy ra giữa Tiên Thánh và
Chơn Thánh vô cùng ác liệt. Muốn sớm kết thúc trận chiến dành phần thắng lợi về
mình, Hải Triều Thánh Nhơn phải sử dụng phép báu “Định Hỏa Châu” định
sát hại đối phương.
Song, gặp Liễu Nhứt Chơn Nhơn đâu phải dễ thua, Ngài
biết “Hỏa Châu” là phép nhiệm mầu cũng giống như Tảng Thiên
Tiển, phải có Rồng mới giữ được, hầu phá phép của đối phương. Ngài liền quăng
gậy Trầm Hương hóa thành Rồng ngăn đón Hỏa Châu. Nhưng phép Hỏa Châu rất nhiệm,
một Rồng không ngăn đón được Hỏa Châu, Ngài liền quăng thêm một cây gậy Trầm
Hương nữa liền hóa thành hai Rồng vùng vẫy, nhào lộn đón ngăn, mình uốn khúc,
há miệng phun lửa, ngăn cản không cho hỏa Châu rơi xuống làm hại Tôn Tẩn được.
Buộc Hải Triều phải thâu phép Hỏa Châu lại vì không còn tác dụng.
Sự thể là như thế, từ sự tích đấu phép nầy mà sự tích
Lưỡng Long tranh châu được truyền tụng lâu đời nhiều kiếp qua hai ý nghĩa sâu
sắc:
Một là nói lên phép nhiệm mầu của Hỏa Châu, nếu họ Tôn
không đủ bản lãnh huyền hư thì dễ dàng bị sát hại. Mà trừ được Hỏa Châu chỉ có
Rồng, mà phải hai Rồng mới giữ Hỏa Châu được. Đức tánh của Rồng là vùng vẩy
biến hóa, cho nên Rồng uốn khúc há miệng là Rồng Tranh Châu.
Hai là xiểng dương đức tánh trung hiếu của Tiền Nhân họ
Tôn, mặc dù đã thành Đạo lên non, nhưng Đạo hiếu trung phải trả mới vẹn đạo làm
người, ấy là: “Dục tu Tiên Đạo, tiên tu Nhơn đạo” là đấy.
Biểu tượng Rồng là hình dung sự tranh đấu, thế nên Đạo
Pháp Tam Kỳ biểu thị cho Nhơn Sanh biết rằng: “Tám Rồng Bạch chầu Bát
Quái, đầu day ra và mình thẳng, để trước mắt nhơn loại, hầu thấu triệt Bí Pháp
nầy.”
Do sự nhầm lẫn nào đó, nay đem hình Lưỡng Long Tranh Cổ
Pháp để trước Cổng Chánh Môn biểu hiện sự loạn Đạo, loạn pháp; rõ ràng rằng nền
Đạo trước đó bị họ Ngô áp đảo mà Đức Hộ Pháp phải buộc miệng mà nói rằng: “Đạo
ngày nay là của Ngô Đình Diệm!”
Sâu xa hơn nữa, Đức Ngài đã tiên tri trước viễn cảnh nầy
bằng câu: “E sau nầy Hộ Pháp xuất ngoại, Thượng Sanh về ngự nơi đuôi
(thất đầu xà) thì thất tình lục dục tự do lôi cuốn…”
Cái loạn không phương kềm chế được.
Quả thật, Cổ Pháp bị phân tranh thì Đạo phải loạn theo
vai tuồng chi Thế tùng Đời cũng là hợp Thiên Thơ lắm lắm!
Đã nói là tiền định, khi cửa đã được dựng lên theo bản đồ
của Đời có hai Rồng Tranh Cổ Pháp, tức là Tấm bảng ĐẠI LOẠN đã được
dựng lên.
Điều quan trọng đáng nói ở đây là: khi Ngài Bảo Thế Lê
Thiện Phước và Quan Tỉnh Trưởng Lê Văn Tất bước ra nền móng đặt viên đá đầu
tiên trong buổi lễ, rồi trở lại khán đài, chưa kịp an tọa; kế có công điện khẩn
của Trung ương mời Tỉnh Trưởng đải lịnh gắp. Xem công điện xong quan tỉnh trưởng
kiếu từ lên xe ra về, đến Tỉnh đường thì trực thăng đã chực sẵn rước đi vội vã.
Thế là từ đây chức Tỉnh trưởng được thay người khác là Thiếu tá Trung (Hồ Đức
Trung).
Vể mặt Đạo, chẳng bao lâu Ngài Bảo Thế phải bàn giao chức
quyền Thống Quản Hội Thánh Phước Thiện lại cho Thời Quân Chi Đạo là Ngài Khai
Đạo HTĐ đảm nhận để nâng đỡ người Phước Thiện. Không những thế mà Quyền Chưởng
HTĐ cũng không còn được giao cho Ngài Bảo Thế nắm trọn; Đức Hộ Pháp áp dụng
thuyết danh chánh ngôn thuận: “Bảo Thế Thừa Quyền Thượng Sanh”.
Còn vị Tân Tổng Giám do Huấn Lịnh trái phép ban cho, đến
khi có chỉ thị 72/CT ngày 25–8–Ất Tỵ (1965), Đức Thượng Sanh phục chức Tổng
Giám Ban Kiến Trúc cho Ông Lê văn Thế, thì ông Trần văn Lành trắng tay.
Cảnh ngộ bi đát cho việc làm sai bản đồ Đạo, phải mất
quyền chức đến ba người hiện tại cấp thời và sau trong vòng một tháng.
Một bài học đáng sợ.
Chết thiệt hay chết giả? – Câu hỏi thật thà nầy ắt có lý
do.
Do cửa Chánh Môn xây theo bản đồ đời cho là đẹp, chiều
cao chỉ có 9m thấp quá, xem như bánh ít xẹp, coi không được, nên Ngài Bảo Thế
cho cơi thêm 2m nữa hiện thời là 11m. Đứng tại chỗ nhìn vào Đền Thánh thấy bị
án bởi cây Bồ Đề, nên cùng nhau có quyết định bứng dời cây Bồ Đề vào rừng Thiên
Nhiên khoản trống chỗ Thơ Viện.
Vậy từ cái sai nầy dẫn đến cái sai khác, vô cớ cây Bồ Đề
bị vạ lây phải chịu chặt tàng mé nhánh, khoanh gốc và lỗ mới đã đào sẵn trong
rừng Thiên Nhiên.
Điều quan trọng là vị trí trồng cây bồ Đề trước đây, tại
sao Đức Hộ Pháp lại cho trồng trong sân Đại Đồng Xã, mà không trồng nơi nào
khác? Biết rằng sau nầy phải dời để cất Tổ Đình. Đó là việc tương lai mai hậu.
Hiện tại thấy gì?
Nhìn cội Bồ Đề mà đau lòng, toàn thể Chức Sắc, Tín Đồ Đạo
Cao Đài chứng kiến tận mắt cái chết của cây Bồ Đề.
Thấy chết đến nơi mà không cứu cũng là cái tội thiếu sự
thương yêu vì giống cây quí nầy từ Tích Lan đem qua Việt Nam hiến dâng cho Đạo.
Chức Sắc và Tín đồ đồng loạt dâng kiến nghị xin Hội Thánh không nên dời cây Bồ
Đề đi nơi khác vì do Đức Hộ Pháp đã cho trồng tại đó.
Kiến nghị vẫn không được chấp nhận. Đồng thời có dự định
mượn trực thăng câu vào rừng Thiên Nhiên. Cuối cùng có danh sách 12 người yết
bảng tử thủ tại gốc cây Bồ Đề rằng: “Nếu Hội Thánh quyết định dời cây
Bồ Đề thì phải bước qua 12 xác chết của chúng tôi”.
Thấy có mòi lưu huyết, máu Tín Đồ Cao Đài sắp đổ làm cho
nhóm người chủ trương cảm thấy ngờn ngợn phần nào, liền nghĩ ra diệu kế: “Mượn
Thánh Giáo của Đức Hộ Pháp làm lịnh”.
Vì họ thừa biết rằng nhơn sanh một lòng phục tùng mạng
lịnh của Đức Hộ Pháp. Nên liền thực hiện Đàn cơ cầu Đức Hộ Pháp để “xin
thẳng với Ngài dời cây Bồ Đề”.
Việc nầy quyền Thiêng Liêng đã rõ kể từ khi bắt đầu chọn
bản đồ xây cửa. Nên Đức Hộ Pháp phán rằng:
“Hỏi tức là trả lời, vậy Bần Đạo cũng
xin chấp thuận cho hợp tình hợp lý”.
Qua phán quyết trên, nếu xét đoán khách quan có hai điều
suy diễn:
1. Nếu không xin bứng dời đi thì cứ để nguyên tại chỗ.
2. Còn nay muốn dời cây Bồ Đề đi nơi khác thì cứ làm theo
ý mình.
Chuyện xảy ra đã vượt ngoài khả năng bảo thủ của số Chức Sắc,
Tín đồ trung kiên phải dùng đến biện pháp tử thủ.
May thay, Hoàng Thiên bất phụ thiện tâm nhơn, bởi lòng
thành thấu đến Thiên Đình, nên quyền Thiêng Liêng đã động đến Phật Giáo Saigon,
liền cử Phái Đoàn đến Tòa Thánh quan sát hiện trường nhận thấy tận mắt: cây Bồ
Đề bị chặt tàng khoanh gốc rồi.
Đủ chứng cứ hiển nhiên, Phái Đoàn Phật Giáo gặp Hội Thánh
đề nghị một biện pháp giản đơn mà không thực hành được: “Phật Giáo
chúng tôi vừa được tin Hội Thánh định dời cây Bồ Đề đi nơi khác, đó là quyền
của Quí Ngài, chúng tôi không có ý kiến. Chúng tôi chỉ đề nghị với Hội Thánh
cho Phật Giáo chúng tôi thỉnh lại Ngọc Xá Lợi Phật Tổ của chúng tôi trước đây
từ Tích Lan đem sang Việt Nam dâng hiến cho Hội Thánh Đại Đạo cùng với cây Bồ
Đề, đó là hai báu vật của Phật Giáo, khi Đức Hộ Pháp còn tại tiền tiếp nhận và
cũng chính Đức Hộ Pháp trồng cây Bồ Đề với Bộ Thiên Phục Hộ Pháp, duy có lấy
cái mão xuống trước lúc trồng, đó là điều quan trọng.
Ngày nay Quí Ngài quyết định dời cây
Bồ Đề vì đã chặt tàng khoanh gốc rồi, nên Phật Giáo chúng tôi xin thỉnh lại
Ngọc Xá Lợi Phật vì Quí Ngài không còn tôn trọng nữa”.
Thật là điều đáng tiếc xảy ra, song Quí Chức Sắc đương
quyền vui lòng chấp nhận điều kiện giao trả Ngọc Xá Lợi, hẹn trong ba ngày Phái
đoàn đến nhận.
Lành thay! Hạn kỳ đã đến, Phái đoàn Phật Giáo đến nhận
Ngọc Xá Lợi, nhưng không có.
Tại sao? Bởi Đức Hộ Pháp đã đoán trước sự việc, nên cất
giữ Ngọc Xá Lợi một nơi tôn nghiêm kín đáo, mà mắt phàm tục không làm sao trông
thấy được, để diệt trừ cái nạn tai phải chết của cây Bồ Đề theo phàm ý!
Vậy thì Ngọc Xá Lợi đã cứu sống cây Bồ Đề của Phật Giáo
hiến dâng, còn đứng vững sừng sững uy nghi trước Thánh Đường ngoại thể để chờ
ngày Qui Nhứt Phật Pháp trong khi Thánh Đường nội tâm chưa sáng chói.
Trước trạng huống lỡ làng chua chát xót xa đó, Đại diện
Hội Thánh nhận khuyết điểm không tìm Ngọc Xá Lợi để giao trả, nên buộc phải cam
kết rằng: “Không còn ý định bứng dời cây Bồ Đề nữa!”.
Kết luận: Nhờ Phật Giáo khéo đòi Ngọc Xá Lợi
mà cây Bồ Đề thoát nạn.
Muốn biết nhơn sanh định tử thủ để bảo vệ cây Bồ Đề đúng
hay sai xin xem:
Cây Bồ Đề và Ngọc Xá Lợi Phật Thích Ca do Đại Đức NARADA
THÉRA Phó Giáo Tông Phật Giáo Tích Lan đem sang Việt Nam hiến cho Đạo Cao Đài
vào ngày 15–5–Quí Tỵ (1953), được Hội Thánh Tây Ninh tiếp nhận trọng thể.
Đức Hộ Pháp thiết lễ Tiểu đàn đêm rằm tháng 5 Quí Tỵ tại
Đền Thánh để thuyết minh về ý nghĩa an vị Ngọc Xá Lợi Phật và pháp lý Cây Bồ
Đề.
Cây Bồ Đề được trồng vào ngày Đại Lễ Đức Quan Thánh Đế
Quân nhằm ngày 24–6–Ất Mùi (1955). Sau Lễ vía, Đức Hộ Pháp và Chức Sắc Hội
Thánh đồng ra sân đại Đồng Xã trước Trụ Phướng để trồng cây Bồ Đề, Đức Ngài vẫn
mặc Thiên Phục Hộ Pháp, duy có lấy cái mão xuống trước khi trồng.
Khởi sự, Đức Hộ Pháp ra lịnh cho Công Viện đào một hầm
sâu tới đá, xây bồn tròn từ đáy đến nền, cho đổ hơn 20 xe phân để bón cho cây,
còn bồn bao quanh là ngăn rễ cây rừng Thiên Nhiên lấn đến cây Bồ Đề.
Bao nhiêu việc xây bồn, đổ phân trước sân Đại Đồng Xã vào
ngày Vía Đức Dà Lam Cổ Phật, đủ nói lên rằng: Đức Hộ Pháp trồng cây Bồ Đề trước
Đại Đồng thiên hạ với Thánh Đức trung cang tuyệt đỉnh, hàng Hớn bất hàng Tào
của Quan Hầu đã đắc Phật Dà Lam do trung cang nghĩa khí của Ngài mà nên. Nhơn
sanh nên học gương Ngài để đạt Đạo. Thứ đến tượng trưng Thể Pháp biến Bí Pháp
vì tôn chỉ của Đạo là qui Tam Giáo hiệp Ngũ Chi. Cội Bồ Đề, Ngựa Phật Tổ là
Pháp Giới nhà Phật, sau đây Phật Giáo nhìn nhận qui hiệp trước làm tiền đề cho
Lão Giáo và Nho Giáo, đó là sự lâu dài cho mai hậu.
Lúc trồng, quí Chức sắc Hội Thánh tưởng Chức Sắc trồng,
nên đến gần cây Bồ Đề. Nhưng lạ thay, Đức Hộ Pháp ra lịnh cho vị Lễ sanh Thái
Thu Thanh đương quyền “Thủ lãnh Bảo Thể Quân” bưng chậu cây Bồ
Đề đặt vào chỗ trồng… Chừng đó mọi người mới hiểu rằng: Đức Hộ Pháp để cho nhơn
sanh trồng, mà hễ nhơn sanh trồng thì nhơn sanh có bổn phận phải gìn giữ bảo vệ
cây Bồ Đề về sau.
Nói rõ hơn, Đức Hộ Pháp thị chứng cho Đại diện Nhơn Sanh
là phẩm Lễ sanh trồng cây Bồ Đề trước sự hiện diện của Hội Thánh. Nếu sau nầy
Chức sắc cầm quyền Hội Thánh có ý muốn bứng hoặc dời cây Bồ Đề đi nơi khác phải
thông qua Hội Nhơn Sanh.
Tại sao? Vì khi vị Lễ Sanh Thái Thu Thanh đặt cây Bồ Đề
xuống chỗ trồng thì Đức Hộ Pháp cầm dá xúc ba dá đất lấp vào gốc cây Bồ Đề.
Như thế hiểu theo cách trồng cây thì Đức Hộ Pháp Chưởng
Quản Nhị Hữu Hình Đài hiệp cùng Nhơn Sanh trồng cây Bồ Đề trước Thánh Thể Đức
Chí Tôn (Trời Người đồng trồng cây Bồ Đề).
Điều quan trọng cần tìm hiểu là Phật Pháp đối với Phật
Tông, chớ không đơn thuần riêng cho cây Bồ Đề.
Nên hiểu rằng: Khi Nhơn Sanh đã làm hết sức mình, phải
dùng đến biện pháp tử thủ vẫn không giữ được sự sống cho cây Bồ Đề. Đức Phật
muốn tránh cảnh đổ máu cho Tín Đồ trung kiên, nên động đến Phật Giáo bảo vệ cây
quí của Phật.
Đề tài liên hệ giữa cửa Chánh Môn mặt tiền Đền Thánh xây
sai bản đồ Đạo, thay vì 36m chiều cao, thì không quan hệ còn mất gì đến cội Bồ
Đề; đó là do người cầm quyền Đạo không nắm Pháp lại làm theo ý mình nên xảy ra
lắm chuyện buồn vui kể trên.
Trong thời gian khánh thành Tòa Thánh, nơi Văn Minh Điện
trước Sân Đại Đồng Xã có xướng xuất những câu thài thi cuộc như: “Than
Trách Ly Khai”… hàm ý tiên tri diễn đề ngày 20–8–Ất Mùi đến 5–1–Bính Thân,
xảy ra cuộc thanh trừng do Trung Tướng Nguyễn Thành Phương mang Quân lực Quốc
Gia Ngô Đình Diệm về chiếm Thánh Địa, phong tỏa Hộ Pháp Đường, bắt Chức sắc,
Tín Đồ, gây hại danh thể Đạo, làm cho Đức Hộ Pháp phải lưu vong lánh nạn sang
xứ Chùa Tháp (Tần Quốc) vì cuộc khủng bố của bạo quyền họ Ngô.
Trích đoạn Sớ Chung Niên Ất Mùi:
Về Cuộc thanh Trừng:
“…Năm Ất Mùi là năm Đạo trải qua nhiều
trạng thái vui buồn lẫn lộn, lắm cảnh hiệp tan pha màu, khiến cho Hội Thánh
phải lắm công nhọc trí xoay trở thuận chiều, hầu trấn an toàn thể con cái Đức
Chí Tôn…”
“Bước qua tháng tám Lễ Hội Yến Diêu
Trì vừa yên, cách ba ngày sau nhằm ngày 20 tháng 8 năm Ất Mùi (DL. 5/10/1955)
cuộc nội biến xảy ra, Trung Tướng Nguyễn Thành Phương chủ động vào Hộ Pháp
Đường là nhược điểm. Cuộc khảo đảo nhằm ngay Đệ Tử, nhưng dầu phải, dầu quấy,
dầu hư, dầu nên, Đệ Tử cam hứng chịu cuộc bạo hành của Phương… làm sôi nổi cả
dân cư trong vùng Thánh Địa, luôn cả các nước ngoài…”
7.1- Ngày 20–8–Ất Mùi có gì ?
QĐCĐ gởi giác thư cho Đức Hộ Pháp ngày 09–10–1955. Đức Hộ
Pháp chuyển qua cho Hội Thánh mở Đại Hội các cơ quan Chánh Trị Đạo họp cùng
Quân Đội giải quyết do Vi bằng ngày 28–8–Ất Mùi (DL. 13–10–1955) tại Giáo Tông
Đường Tòa Thánh Tây Ninh vào lúc 10 giờ 30 phút.
Có mặt dự hội:
Hiệp Thiên Đài: Quí Ngài Thời Quân Bảo Đạo
Hồ Tấn Khoa.
Bảo Thế Lê Thiện Phước
Tiếp Đạo Cao Đức Trọng
Tiếp PhápTrương Văn Tràng
(Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh)
Cửu Trùng Đài: Quí Ngài Thái Chánh Phối Sư Thái Bộ
Thanh.
Quí Ngài Thượng Chánh Phối Sư Thượng Sáng Thanh
Quí Ngài Thượng Ngọc Chánh Phối Sư Thượng Tước Thanh
Quí Ngài Giáo Sư Ngọc Hoài Thanh
Phước Thiện: Quí Ngài Chơn Nhơn Trịnh Phong Cương
Quí Ngài Đạo Nhơn Đỗ văn Viện.
Thượng Giáo Sĩ: Chí Thiện Trần Thạnh Mậu
Quân Đội Cao Đài: Thiếu Tướng
P.TTL Lê Văn Tất (đã Quốc Gia hóa)
Quân đội: Đại tá Nguyễn Thành Danh
Thiếu Tá Võ Tòng Lục
Thiếu Tá Nguyễn Văn Ngọ
Quân đội Quốc gia Liên Minh: Trung Tá Trần Văn Trạng
Thiếu Tá Hồ Đức Trung
Cơ Thánh Vệ: Trung Tá Đỗ Công Khanh.
Sau khi mật niệm Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng,
toàn hộ đồng công cử Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng chủ tọa buổi hội nầy.
Ngài Tiếp Đạo đảm nhận Chủ tọa, đứng lên cảm tạ toàn hội
và đề cập vào chương trình nghị sự.
Chủ tọa: “Trước hết xin toàn hội bàn
giải 10 khoản kiến nghị của Quân đội. Còn việc biến chuyển do nội dung Quân đội
chủ trương mấy hôm nay, Đức Hộ Pháp có nói với tôi rằng: Đức Ngài rất bằng
lòng, nhờ vậy mới có thể lược lọc được nội dung của Thánh Thể và Châu Thành
Thánh Địa, tức là Quân đội đã giúp cho Đức Ngài Quốc tế hóa Thánh Địa dễ dàng
hơn.
Nhưng Đức Ngài cũng than phiền
rằng: Quân đội thi hành quá bạo, làm cho toàn thể Hội Thánh
và Nhơn Sanh rúng động tinh thần.
Về việc giải giới Cơ Thánh Vệ, Cận Vệ
Quân và Bảo An lưu động, Bảo An nội thành là điều làm rất hợp lý trong việc
Quốc tế hóa đặng lấy quyền bất khả xâm phạm nơi vùng Thánh Địa.
Lại nữa, trong nội ô và ngoại ô Tòa
Thánh mà có võ trang thì có thể xảy ra lắm chuyện không hay, lấy việc nọ châm
chế việc kia, nên Đức Ngài không buộc tội Quân đội.
Lại nữa, từ lúc khai Đạo, Đức Chí Tôn
đã nói: “Các con yếu là các con mạnh, các con nhược là các con cường”.
Thể theo Thánh Giáo ấy, chúng ta phải nhận định rằng: cái yếu của chúng ta là
Tình Bác Ái, rộng dung, kết lại thành một khối tinh thần vô đối, mạnh mẽ chống
lại với mọi bất công, bạo lực trong xã hội đặng cứu dân, cứu nước, cứu nhơn
loại đang khổ não lầm than.
Vậy thể theo chánh lý ấy, chúng ta
phải hiệp tâm mà lo đại cuộc, đừng để ngoại nhơn thừa cơ châm biếm. Chúng ta là
những người đã từng chịu gian lao khổ hạnh vì Đạo, thì trong tình trạng nầy
chúng ta phải vững chắc tinh thần đạo đức hầu tầm giải pháp dung hòa nội bộ và
giải quyết 10 khoản kiến nghị của Quân đội, để được trong ấm ngoài êm, trau sửa
Thánh địa thêm phần đẹp đẽ; ấy là phương đắc sách”.
Ngài Tiếp Pháp đương quyền Chưởng Quản bộ Pháp Chánh đọc
bức Giác Thơ của Quân đội gởi cho Đức Hộ Pháp, đề ngày 09–10–1955. (Đọc nguyên
văn …)
Thiếu tướng Lê Văn Tất: “Trước hết, chúng ta muốn
chỉnh đốn nội dung thì xin “truất quyền độc tôn của Đức Hộ Pháp”,
vì Đức Ngài còn nắm quyền thống nhứt trong tay muốn phong cho ai làm gì tùy ý,
không ai dám động đến hay ngăn cản được, chính Ông Giáo Sư Tuy cũng nhìn nhận
như vậy. Như Ông Hiếu, cô Tranh, cô Cầm họ làm sái Chơn truyền luật pháp của
Đạo mà có ai nói được đâu?”
Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa: “Việc nầy tôi đã mục
kiến nhiều lần, Đức Ngài rầy mắng hai cô đó, nhưng tại họ không nghe mà thôi.
Chẳng lẽ chúng ta buộc Đức Ngài phải đang tay giết con của Đức Ngài bằng pháp
luật hay sao? Thử đặt chúng ta vào tình trạng đó, chúng ta cũng khổ tâm cho cơn
khảo đão lắm chớ!!”
Chủ Tọa: Ngài Cao Tiếp Đạo nói: “Tôi cũng nhìn
nhận như vậy, vì chính tôi cũng thấy Đức Ngài rầy hai người ấy nhiều lần”.
Thiếu tướng Lê Văn Tất: “Vậy thì chúng ta hãy
giải phẫu từ vấn đề mà bàn luận và quyết định”.
Ngài Tiếp Pháp Trương văn Tràng: Đọc kiến nghị, khoản
I: “bắt tất cả những người lợi dụng Đạo để bóc lột và huy hiếp nhơn sanh,
những người ấy đã có hành động ly gián Đạo và quân đội, tài sản của họ phải bị
tịch thu, chia cho nhơn sanh nghèo khổ. Các tội phạm phải bị trừng trị”.
Trung tá Trạng: “Việc xảy ra đã có dư luận là
Liên Minh tham dự cùng Quân Đội Cao Đài, nhưng sự thật thì không có; đến khi
chúng tôi nghe hiểu việc làm của QĐCĐ, chúng tôi rất tán thành; dầu sao chúng
tôi cũng là Tín Đồ của Đạo, đã từng xuất thân nhờ Đạo, thì mọi biến chuyển
trong Đạo chúng tôi phải quan tâm.
Hôm nay chúng tôi đến dự hội là để đưa
ý kiến ấy cho Hội Thánh được rõ, còn việc bàn tính nội dung của Hội Thánh,
chúng tôi không có thẩm quyền”. (Hay)
Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước: “Để việc điều tra và
xử đoán các tố tụng nhơn sự hay hình sự khỏi phải phạm vào quyền hành của Chính
Phủ về tư pháp, đối ngoại thì nhờ Tổng Tư Lệnh Bộ can thiệp với Thủ Tướng Chánh
Phủ chánh thức hóa Thánh Địa là vùng bất khả xâm phạm, có quyền tự trị đối với
Quốc tế. (Internationalité de la Région neutre avec le droit d`asile).
Còn về nội dung thì cấm cả Chức Sắc
Thiên Phong từ Giáo Hữu đổ lên không được tham dự vào việc làm đời sống tư của
mình nữa. Còn nói về Quân đội thì có Quân đội Quốc gia Cao Đài, Quân đội Quốc
gia Liên Minh” (Lúc nầy Trình Minh Thế đã chết).
Thiếu Tướng Lê Văn Tất: “Việc Quốc tế hóa Thánh
Địa là lẽ dĩ nhiên của một Châu Thị không võ trang phòng thủ, Quân đội xin đồng
ý với Ngài Bảo Thế”.
QUYẾT NGHỊ:
Sau khi bàn thảo, toàn hội đồng ý tán thành: lập một Ban
Thẩm vấn Hỗn Hợp có bốn cơ quan: Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài, Phước Thiện và
Quân Đội gồm có Liên Minh và Cao Đài.
A. Ban nầy có quyền điều tra các tố tụng xảy ra giữa nhơn
sanh và Dân sự, hình sự; có quyền hòa giải các việc thường thức trong vùng
Thánh Địa.
B. Việc quan trọng, sau khi điều tra xong, Ban nầy giao
cho Hội Đồng Hỗn Hợp phân xử.
C. Thành lập một Hội Công Đồng có bốn cơ quan kể trên để
phân xử các hồ sơ của Ban Thẩm Vấn Hỗn Hợp giao qua, ngoài phạm vi Đạo Luật và
Đạo Pháp.
…
Ban Thẩm vấn Hỗn Hợp và Hội Công Đồng chịu dưới hệ thống
của Hội Thánh CTĐ, HTĐ và Tổng Tư lệnh Bộ Quân đội Cao Đài. Riêng bản án do Hội
Công Đồng thành lập phải có sự phê chuẩn của Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh mới có
hiệu lực.
(Nghỉ trưa lúc 12 giờ)
TÁI NHÓM BUỔI CHIỀU LÚC 13 GIỜ.
Chủ Tọa: Ngài Cao Tiếp Đạo: “Xin tiếp tục bàn
giải về việc ly gián mà Quân đội đã nói, xin Ngài Thiếu Tướng định rõ nghĩa”.
Thiếu Tướng Lê Văn Tất: “Như bản thông tin của
Hội Thánh đã rao truyền những tin tức thất thiệt nói xấu Quân đội, gây mầm ác
cảm giữa Quân đội với Đạo. Xin Hội Thánh định lại để sửa đổi hình thức và nội
dung Bản Thông tin cho được đầy đủ thiện chí và hợp với lẽ Đạo”.
QUYẾT NGHỊ.
Hội Thánh sẽ nghiên cứu để sửa đổi danh từ Bản Thông Tin
và cách thức thông tin cho được hoàn toàn trong vòng Đạo Đức, không phô trương
việc tồi tệ trong Thánh Địa cho thiên hạ biết như Bản Thông Tin đã làm rồi.
Tiếp Pháp đọc Kiến nghị khoản II;
“Giải giới và giải tán các tổ chức võ
trang lỗi thời trong…
QUYẾT NGHỊ:
“Dưỡng Lão Đường đã có mầm móng sẵn,
nhưng nền tài chánh của Hội Thánh còn lẩn quẩn trong vòng thiếu thốn. Lời yêu
sách của Quân đội, Hội Thánh chấp nhận tùy cơ mà tiến hành.”
Ngài Tiếp Pháp đọc Kiến nghị khoản IX:
“Gấp rút xây dựng một Thánh Thất vĩ
đại và kiểu mẫu tại Đô Thành Saigon Chợ Lớn, lập Ban Văn Hóa của Đạo để chỉnh
đốn lại việc tuyên truyền Giáo lý của Đạo cho hợp thời, mở lớp huấn luyện Chức
Sắc có khả năng, thiết lập cơ quan Truyền Giáo ngoại quốc”.
QUYẾT NGHỊ:
“Đã có Thánh Lịnh tạo lập Thánh Thất
Saigon Chợ Lớn, đã biết mấy phen khởi hấn, nhưng chung qui cũng chưa thực hiện
được, lý do cũng vì tài chánh.
Hội Thánh Ngoại Giáo là cơ quan truyền
giáo ngoại quốc, nhưng cơ quan ấy bị thử thách mọi mặt nên phải ngưng trệ. Đã
có Thánh Lịnh huấn luyện Chức sắc do Hạnh Đường đảm đương. Hạnh Đường đã có từ
trước, nhưng sự huấn luyện Chức Sắc chưa có kết quả mỹ mãn, vì Đạo còn ở trong
thời loạn phải chịu kham khổ mọi bề.
Hội Thánh nhìn nhận là yêu sách xứng
đáng, rồi đây Hội Thánh cấp tốc thi hành việc giáo hóa. Lập một Ban Văn Hóa,
Hạnh Đường phải tổ chức châu đáo hơn, cả Chức Sắc từ Lễ sanh đến Giáo Hữu đều
phải có cấp bằng Hạnh Đường mới được dự cử cầu thăng”.
Ngài Tiếp Pháp đọc Kiến Nghị khoản X:
“Các nơi ăn ở của Chức sắc Nam Phái
không được dùng thiếu nữ làm tùy tùng dù dưới hình thức nào”.
QUYẾT NGHỊ:
“Hội Thánh triệt để thi hành điều thứ
nhất, điều thứ ba,điều thứ tư của Thánh Lịnh 33 đề ngày 14–9–Đinh Hợi (DL.
27–10–1947) áp dụng từ Chức sắc đại Thiên Phong đến Tín Đồ”.
Tạm nghỉ lúc 18 giờ 30 phút.
Tái nhóm 8 giờ 30 phút, ngày 29–8–Ất Mùi.
Chủ Tọa Ngài Cao Tiếp Đạo nói:
“Đức Hộ Pháp đã nhập tịnh, vậy các cõ
quan chánh trị ðạo cứ theo Huấn Lịnh nhập tịnh của Ðức Ngài mà trọn quyền chỉnh
ðốn nội bộ ðể bảo toàn Thánh Thể Ðức Chí Tôn và gieo rắc ánh sáng cho toàn nhơn
sanh thụ hưởng.
Xin mở hội tiếp tục bàn giải Kiến
nghị khoản thứ IV mà hôm qua đã đình lại, cho được phù hợp với
Chơn truyền.”
QUYẾT NGHỊ:
“Sau kết quả bàn luận, toàn hội đồng ý
mở hội Nhơn Sanh vào ngày 10–1–Bính Thân y như Hội Thánh đã định.
Chiếu Thánh Lịnh số: 675/VP–TL của Đức
Hộ Pháp giao cho Tam Đầu Chế CTĐ thay quyền Đầu Sư. Toàn Hội Đồng yêu cầu Tam
Đầu Chế CTĐ nắm trọn quyền Đầu Sư mà thi hành y theo Pháp Chánh Truyền chờ đến
ngày Quyền Vạn Linh định đoạt.
Ghi chú: Đức Hộ Pháp đã chấp thuận
giao trả quyền Đầu Sư cho Cửu Trùng Đài và giao cho HTĐ chọn người cai quản ba
chi “Pháp– Đạo– Thế” y theo yêu cầu của Trung Tướng Nguyễn Thành Phương trong vi bằng
phiên hội ngày 3 và 4 tháng 9 Ất Mùi tiếp theo sau.
Mục Linh Tinh:
Thiếu Tướng Lê Văn Tất yêu cầu Hội Thánh thay đổi
vài danh từ trong thơ số: 1673/VP–HP ngày 26–8–Ất Mùi của Đức Hộ Pháp đã gởi
cho Thủ Tướng Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa (Ngô Đình Diệm) để cải án Phản Đạo mà
Đức Hộ Pháp đã buộc tội Quân Đội.
QUYẾT NGHỊ:
Hội Thánh và Quân Đội sẽ ra thông báo thanh minh
rằng: “Những thông cáo và Hiệu triệu của cả đôi bên đã rải trong Thánh
Địa từ ngày 20–8–Ất Mùi đến nay coi như thất thiệt và Hội Thánh cùng Quân Đội
vẫn được giao hiếu trong tình huynh đệ như xưa nay”.
Hội giải tán lúc 12 giờ cùng ngày.
Sau 30 phút quan sát vi bằng, Trung Tướng Nguyễn Thành
Phương có thái độ như sau:
Đúng 12 giờ 30 phút có thơ của Trung Tướng Nguyễn Thành
Phương xin Hội Thánh tiếp tục hội nhóm vào lúc 16 giờ để ông bàn tính thêm
nhiều điều bổ ích trong việc chấn chỉnh nội bộ cho được tốt đẹp hơn và đúng với
Chơn Truyền của Đạo.
(Có nghĩa ông Phương không chịu cách giải quyết qua 2
ngày của Tướng Lê Văn Tất với Hội Thánh).
Buổi chiều ngày 29–8–Ất Mùi:
Từ lúc 16 giờ là phần của Nguyễn Thành Phương, diễn tiến
như sau:
Đại diện Quân đội là Trung Tướng Nguyễn Thành Phương Tổng
tư lệnh.
Chủ Tọa: Ngài Cao Tiếp Đạo:
“Ngài Trung Tướng có ý kiến gì giúp
hay cho Hội Thánh Lưỡng Đài, xin Ngài đưa ra để chúng tôi bàn luận.”
Trung Tướng Nguyễn Thành Phương:
“Nếu chúng ta muốn chấn chỉnh toàn
diện lại nội dung, tôi xin toàn hội cho phép tôi giải phẩu cho rõ rệt những
điều đã xảy ra trong cửa Đạo làm cho Đạo phải ngưng trệ và phải mang tai tiếng
với quyền Đời do những người thân cận của Đức Hộ Pháp đã gây ra, cùng những tài
liệu mà tôi đã thâu thập được ở những người mà tôi đã bắt giữ do tự ý họ khai…”
Chủ tọa: “Việc đã qua thì để cho nó trôi qua, vậy
hiện tại cần chấn chỉnh lẽ nào cho đẹp đẻ nền Đạo, xin Ngài Trung Tướng cho
biết ý định”.
Trung Tướng Nguyễn Thành Phương:
“Vì vậy mà toàn thể Sĩ quan và binh sĩ
trong QĐCĐ chúng tôi đều là tín đồ của Đạo, nhất định đòi Đức Hộ Pháp Phải ra
Thánh lịnh rõ rệt giao trả hẳn quyền hành Đầu Sư lại cho Cửu trùng Đài và để
cho CTĐ tự lựa người cầm quyền điều khiển và giao cho Thập Nhị Thời Quân HTĐ
trọn quyền tự lựa người điều khiển.
Còn Đức Hộ Pháp thì xin Đức Ngài chỉ
an dưỡng tinh thần và sức lực mà thôi, không tham gia vào việc Đạo hay việc Đời
gì nữa cả.
Tôi nhất định trong 10 ngày kể từ nay
nếu Đức Ngài không giao trả thì tôi thưa thật với Quí Ngài là tôi sẽ đăng báo
tất cả sự thật và mời các Chi Phái, cùng tự ý chúng tôi điều động triệu tập Hội
Nhơn Sanh đặng định đoạt…
Thoảng như về việc làm nầy mà Đức Hộ
Pháp có trục xuất chúng tôi, thì chúng tôi sẽ lập thêm một “Chi Phái thứ mười
ba” nữa có sao đâu.” (Cũng không sao).
“Các Đại Thiên Phong trước kia đã bị
uy hiếp nhiều rồi, nên mới lập chi Phái đó”.
QUYẾT NGHỊ:
“Sau khi bàn tính, Hội Thánh quyết
định để tìm phương yết kiến Đức Hộ Pháp, cầu xin Đức Ngài định đoạt, vì là
quyền của Đức Ngài, nhưng xin triển hạn thêm 15 ngày”.
Tạm giải tán lúc 18 giờ.
Tái nhóm lúc 9 giờ ngày 2–9–Ất mùi. (DL. 27/10/1955)
Hiện diện dự Hội:
HTĐ: Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa
Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước
Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng
Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng
CTĐ: Ngài Quyền Thái Chánh Phối Sư Thái Bộ Thanh
Ngài Thượng Chánh Phối Sư Thượng Sáng Thanh
Ngài Ngọc Chánh Phối Sư Thượng Tước Thanh
Ngài Giáo Sư Ngọc Hoài Thanh
Nữ Phái: Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Lự
Bà Nữ Phối Sư Hương Hiếu
Phước Thiện: Ngài Chơn Nhơn Trịnh Phong Cương
Ngài Đạo Nhơn Nguyễn Văn Phú
Ngài Đạo Nhơn Đỗ Văn Viện
Thượng Giáo Sĩ: Chí Thiện Trần Thạnh Mậu
Quân đội QGCĐ: Trung Tướng Nguyễn Thành Phương
Thiếu Tướng Lê Văn Tất
Đại Tá Nguyễn Thành Danh
Thiếu Tá Nguyễn Văn Ngọ
Thiếu Tá Võ Tòng Lục
QĐ Liên Minh: Trung Tá Trần Văn Trạng
Thiếu Tá Hồ Đức Trung
Cơ Thánh Vệ: Trung Tá Đỗ Công Khanh
Buổi hội nầy, Ngài Cao Tiếp Đạo xin nhường ghế Chủ Tọa,
vì bịnh sợ ngồi lâu không nổi.
Toàn hội đồng yêu cần Ngài tiếp tục ngồi ghế Chủ Tọa cho
mãn Đại Hội.
Chủ Tọa: “Hôm nay ngày 29–8–Ất Mùi, Ngài Trung
Tướng đã để cho chúng tôi 15 ngày đặng tầm phương giải quyết khoản thứ tư trong
Bản Kiến Nghị.
Chúng tôi đã được Đức Hộ Pháp cho yết
kiến và Đức Ngài vẫn bằng lòng ký tên Thánh Lịnh giao trả quyền Đầu Sư cho CTĐ
và giao quyền điều khiển Hiệp Thiên Đài cho Tam Đầu Chế HTĐ. Vậy hôm nay chúng
ta bàn định lại nội dung hầu chấn chỉnh lại nội bộ cho được tốt đẹp hơn”.
Trung Tướng Phương:
“Theo chúng tôi thì Đức Ngài Hộ Pháp
nên trả trọn quyền cho Cửu Trùng Đài đặng Nhơn Sanh tự chọn Đầu Sư, trong lúc
chờ quyền Vạn Linh định đoạt thì CTĐ tự lựa người cầm quyền cho Đài ấy.
Bên Hiệp Thiên Đài cũng vậy, xin đừng
dùng Tam Đầu Chế vì không có trong Pháp Chánh Truyền, Đức Hộ Pháp giao trọn
quyền cho Thập Nhị Thời Quân tự chọn người điều khiển ba chi: Pháp – Đạo – Thế,
còn Đức Ngài thì trọn vẹn an tịnh không còn biết tới việc Đạo và chánh Trị,
Quân sự nữa.
Còn vị Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh thì
khỏi phải thay đổi vì đã có Thánh Lịnh ấn định rõ rệt. Trong Thánh Lịnh nầy
cũng xin nói rõ là cả hai Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng được trọn quyền hiệp ý mà
chỉnh đốn lại nền Đạo cho đúng với Pháp Chánh Truyền.
Lại nữa đừng để trong Thánh Lịnh là
Quân đội Quốc gia Cao Đài, mà chỉ nói là Phương, Tất xin dâng kiến nghị mà
thôi, vì chúng tôi chẳng dùng võ lực mà nói rằng Quân đội, còn Quốc gia thì
không có quyền gì về nội bộ của Đạo.
Được Đức Ngài chấp thuận rồi thì chúng
ta sẽ bàn tiếp.”
(Rõ ràng vâng lịnh Ngô Đình Diệm chỉ đạo, ra lịnh bắt
buộc phải làm theo kế hoạch).
QUYẾT NGHỊ:
“Sau khi bàn về quyền hành của Hộ Pháp
và quyền hành của Hiệp Thiên Đài, toàn hội đồng ý xin Chư Thời Quân dâng ý kiến
của Trung Tướng Nguyễn Thành Phương lên Đức Hộ Pháp định…”
Tạm nghỉ lúc 11 giờ.
Tái nhóm lúc 9 giờ 15 phút, ngày 4–9–Ất mùi (dl.
19–10–1955).
Chủ Tọa: Ngài Cao Tiếp Đạo:
“Đức Hộ Pháp đã vui lòng ra Thánh Lịnh
theo ý kiến của Ngài trung Tướng, nhưng khoản nhì về việc giao quyền cho Hiệp
Thiên Đài phải đề cập đến việc lập luật, sửa luật; quyền Vạn Linh phải dâng lên
Hiệp Thiên Đài cho Hộ Pháp phê chuẩn đặng phù hạp với Pháp Chánh Truyền”.
Trung Tướng Phương:
“Chúng tôi muốn đừng để chi tiết vào,
vì muốn để thì phải để đủ, như vậy dài dòng lắm. Nói rõ hơn nữa, nếu để có Đức
Hộ Pháp phê chuẩn nấy nọ, thì chúng tôi thấy đó là một mâu thuẫn để sau khi yên
sẽ dùng quyền ấy mà lên án trục xuất chúng tôi. Nếu vậy thì chúng tôi cũng xin
giữ thế thủ, nếu ai có mâu thuẩn sẽ gặp lại mâu thuẩn của chúng tôi.
Ban Thẩm vấn chỉ điều tra việc đã qua,
còn việc sẽ tới thì giao về Hội Thánh thi hành y như trước. Những người của Hội
Thánh bị Ban Thanh trừng bắt, Quân đội sẽ giao trả liền cho Hội Thánh bảo lãnh
liền sau khi Thánh Lịnh ban hành theo khoản thứ tư”.
Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa:
“Như vậy quyền hành của Hiệp Thiên Đài
mới định ra lẽ nào?”
Trung Tướng Phương:
“Nếu Ngài muốn ra Thánh Lịnh như vậy,
chúng tôi cũng không nói gì, nhưng xin thú thật là chúng tôi phải giữ thế thủ,
nếu quyền Vạn Linh âm thầm thì thôi, nếu có điều gì mâu thuẫn với chúng tôi,
chúng tôi được quyền chống đỡ và tôi không bảo đảm là giữ trọn vẻ đẹp trong cửa
Đạo như đã hứa mấy hôm nay”.
Ngài Bảo Đạo:
“Xin chư Chức Sắc CTĐ Nam Nữ và Phước
Thiện cho biết ý kiến”.
Ngọc Chánh Phối Sư Thượng Tước Thanh phát biểu:
“Việc nầy của Hiệp Thiên Đài, vậy xin
Quí Ngài Thời Quân định, vì chúng tôi chỉ biết tuân luật mà hành quyền thôi.
Nhưng chúng tôi cũng hứa giữ trọn quyền hành đúng theo Pháp Chánh Truyền, khỏi
phải nhọc ḷng Đức Hộ Pháp để tay vào như trước”. (Mượn thế mà đòi quyền Đầu Sư).
Quyền Thái Chánh Phối Sư Thái Bộ Thanh: “Tôi cũng
đồng ý như vậy”.
Ông Chơn Nhơn Trịnh Phong Cương: “Tôi cũng đồng ý
như vậy”. (Tiếc thay không dám nói gì).
Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa:
“Đọc Pháp Chánh Truyền về khoản lập
luật hay sửa luật đều phải dâng lên cho Đức Hộ Pháp cầu Chí Tôn chỉ dạy hoặc tự
ý định lại” và
đọc lời chú giải của Hộ Pháp.
Trung Tướng Phương:
“Vậy chúng tôi xin đứng chờ Quí Ngài
thi hành và xin Hội Thánh HTĐ và CTĐ cam kết rằng: Không để Đức Hộ Pháp ra một
lịnh gì nữa, hoặc quyền Vạn Linh có lập luật hay sửa luật thì phải thi hành
đúng với Pháp Chánh Truyền là đủ, khỏi phải để rõ là có Đức Hộ Pháp phê chuẩn”.
(Theo ý nầy, đương sự còn biết nghe lẽ phải, khi Ngài Hồ
Bảo Đạo mạnh dạn nói về luật pháp HTĐ).
Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước: Đọc tờ cam kết.
Trung tướng Phương:
“Bản cam kết nầy chúng tôi hứa sẽ thi
hành đúng 10 khoản quyết nghị. Còn như Đức Hộ Pháp bằng lòng ra Thánh Lịnh y
như lời tôi nói, thì khỏi phải làm cam kết gì cả, vì chúng ta giữ chữ tín làm
đầu, lấy vi bằng quyết nghị của các cơ quan mà thi hành là trọn vẹn.”
Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước:
“Vậy thì chúng tôi cũng ráng chịu cực
xin lên Đức Hộ Pháp một lần nữa.”
Trung tướng Phương:
“Nhưng khi chúng tôi rút hết binh lực,
có bắt được liên lạc với đối phương Pháp và phiến loạn, Hội Thánh mới tính
sao?”
Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước:
“Họ liên lạc cá nhân thì họ chịu tội,
còn Hội Thánh cam kết rằng: Không hề tiếp xúc thầm lén với một liên lạc nào cả”.
Trung tướng Phương:
“Còn những lính không tuân lịnh giải
giới, ôm súng trốn đi rồi sanh ra cướp bóc, bên chánh quyền đã giao cho Hội
Thánh một tuần lễ nếu không gọi họ về, họ sẽ tảo thanh. Nếu chúng tôi rút binh
hết, họ lại trở về phá rối bổn Đạo, ai chịu trách nhiệm?”
Ngài Bảo Thế:
“Hội Thánh sẽ ra thông báo theo Thánh
Lịnh số 1670/VP–HP ngày 23–8–Ất Mùi, mà gọi những người còn giữ vũ khí phải đem
nộp liền, hạn định đến 25–10–1955 là ngày chót, nếu ai bất tuân sẽ buộc
họ vào tội phiến loạn”.
Quyền Ngọc Chánh Phối Sư Thượng Tước Thanh:
“Theo Thánh Lịnh ấy, Đức Hộ Pháp hạn
định 3 ngày cho cơ Thánh vệ và các cơ quan bán quân sự phải nộp đủ khí giới cho
Đức Ngài trả cho QĐQGCĐ, nếu quá hạn định thì bộ Tư Lịnh xét bắt.
Hôm nay Bộ Tư Lịnh nói số khí giới nộp
chưa đủ,ấy là họ sợ bị bắt mà trốn. Vậy Bộ Tư Lịnh ra thông báo kêu gọi họ đem
súng về trả và hứa không bắt tội chi cả; được vậy thì Hội Thánh cùng ký tên
chung trong tờ thông báo ấy thì họ mới đem súng về giao trả cho Bộ Tư Lịnh”.
Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng:
“Ban Thẩm vấn Hỗn hợp và Hội Công Đồng
cũng không đúng với Pháp Chánh Truyền. Vậy xin giao các vụ của Ban thanh trừng
đã làm về Bộ Pháp Chánh”.
Trung Tướng Phương:
“Để mọi việc được thỏa thuận, khỏi làm
cam kết gì cả; xin để trong Thánh Lịnh về khoản lập luật hoặc sửa luật do quyền
Vạn Linh thì Hiệp Thiên Đài phải thi hành đúng y Pháp Chánh Truyền là Hội Nhơn
Sanh cứ để y như Hội Thánh đã định. Như vậy khoản thứ tư của Kiến Nghị đã giải
quyết xong.
Khoản thứ nhứt: Về Hội Công Đồng và
Ban Thẩm vấn Hỗn hợp không đúng với Pháp Chánh Truyền như lời Ngài Tiếp Pháp
nói, thì giao về Bộ Pháp Chánh.
Khoản thứ nhì: Xin thưa rằng chúng tôi
sẽ không còn canh giữ các cửa ra vô nội và ngoại ô Thánh Địa nữa. Nhưng về các
đồn ở những nơi quan trọng, chúng tôi xin tạm đóng giữ cho đến ngày Chánh Phủ
chính thức nhìn nhận châu vi Thánh Địa là vùng bất khả xâm phạm, để họ không
còn thế xâm nhập vào Thánh Địa nữa, chừng đó chúng tôi rút binh ra khỏi 13 Phận
Đạo liền.
Khoản thứ chín: Về Thánh Thất Saigon
tạm dời Thánh Thất Thái Hòa về văn phòng 107 đường Trần Hưng Đạo. Còn về vụ đất
mua chừng có tiền đủ sẽ chồng tiền mặt mà lấy dãy nhà ấy để nguyên đặng làm chỗ
lưu trú cho Chức Sắc và bổn đạo tạm ngụ.
Chúng tôi cũng đã mua một miếng đất ở
Phú Nhuận để Đức Hộ Pháp làm chủ, chừng nào việc mua bán xong sẽ định thành lập
căn cứ cho bổn Đạo về tạm ngụ”.
Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước: “Xin Quân Đội Quốc
Gia Liên Minh cho biết ý kiến”.
Thiếu Tá Trung:
“Bên Liên Minh chúng tôi đã thành Quân
đội Quốc Gia thiệt thọ rồi, nên không thể giúp trực tiếp với Hội Thánh được, vì
lý do: nay đi mai ở không nhất định. Nhưng chúng tôi đều là Tín Đồ của Đạo, thì
hứa chắc là luôn luôn sẵn sàng bảo vệ bổn Đạo, giúp ích Hội Thánh và cam kết
không nhúng tay vào nội bộ của các cơ quan chánh trị Đạo. Còn bây giờ, chúng
tôi đặt trọn tín nhiệm nơi Hội Thánh và bộ Tư Lịnh QĐCĐ, Quí Ngài quyết nghị
xong thì chúng tôi cũng tán thành đồng ý tuân theo, chớ chúng tôi không có ý
kiến thảo luận gì cả”.
QUYẾT NGHỊ.
“Hội Thánh và Quân đội sẽ ra thông báo
chung kêu gọi những binh sĩ đã ôm súng trốn để họ về trình diện với Bộ Tư Lệnh.
Bộ Tư Lệnh cam kết không buộc tội những người trình diện.
Cấm Chức Sắc, Đạo hữu hay sĩ quan,
binh sĩ không được chứa chấp hay liên lạc với những người ấy cùng với đối
phương, nếu ai vi phạm sẽ bị bắt giao cho Quân đội…
…”
Hội Thánh bảo lãnh những người của Hội
Thánh đã bị Ban Thanh Trừng bắt đem về lưu giữ tại Tòa Thánh trong vùng Nội Ô.
Từ đây Quân đội không được dùng võ lực
can thiệp vào nội bộ của các cơ quan chánh trị Đạo, cùng là bắt bớ Đạo hữu vô
cớ, trái với quyền cư trú đã định trong Thánh Lịnh của Đức Hộ Pháp…”
Còn các khoản khác thi hành đúng theo
quyết định Đại hội ngày 28–8–Ất Mùi.”
Đến đây tạm giải tán, sẽ tái hội vào
ngày 6–9–Ất Mùi, vào lúc 8 giờ 30 phút để ký Vi Bằng và thi hành Thánh Lịnh Đức
Hộ Pháp ban hành theo khoản 4.
Tất cả có mặt dự hội ký tên vi bằng.
Từ hàn Vi bằng: Sĩ Tải Phạm Duy Nhung.
Lập tại Tòa Thánh, ngày 6 tháng 9 Ất
Mùi
(DL. 21/10/1955)
7.2- Nhận xét cuộc thanh trừng ngày 20–8–Ất
Mùi:
Ánh sáng cho thấy Bảng Kiến
Nghị Gián Thập Điều tuy có oai vũ ồn ào náo nhiệt, chỉ là cái cớ để truất Đạo
quyền của Đức Hộ Pháp nơi điều thứ tư là buộc phải ra Thánh Lịnh theo quyết định
của Nguyễn Thành Phương, là Đức Ngài chỉ còn an tịnh, không biết tới việc Đạo,
Đời nữa.
Để trả thù Chủ tịch đoàn Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất lực
lượng các đảng phái CĐ, BX, HH.
Trong ngày hỏa thiêu hài cốt các Thánh Tông Đồ, tiền khai
nền Đại Đạo, tro tàn đổ xuống sông Vàm Cỏ Đông, Xá Lợi thờ tại Bát Quái Đài, có
một hiện tượng kỳ bí như sau: Nguyên trước khi khai cửa Tháp, mở Liên Đài Đức
Cao Thượng Phẩm ra để hỏa thiêu, thì một việc lạ trước mắt mọi người nhận thấy
tất cả đồ liệm trong Liên Đài đều mục nát, duy có chiếc áo dài trắng mặc bên
trong vẫn còn nguyên vẹn, không hư mục. Có lạ không?
Liền khi ấy, Đức Hộ Pháp dạy Ông Đạo Nhơn Nguyễn Thành
Thôi, nhận chiếc áo Pháp nầy đem về giặt sạch sẽ rồi sắc lấy nước uống trừ bệnh
thổ huyết. Ông Thôi vâng lịnh làm y theo lời Đức Thầy dạy, quả nhiên sau đó ông
được hết bệnh nói trên. Và Đức Hộ Pháp còn dặn rằng: “Con cất giữ áo
nầy cho kỹ lưỡng đến khi Lê Văn Thoại trở về Đạo (về nhà), thì con đem áo nầy
giao cho nó.”
Vâng lời Đức Tôn Sư chỉ bảo, Ông Nguyễn Thành Thôi rất
trân trọng áo Pháp nầy, bởi ông được khỏi bệnh ngặt, nên đầy lòng tin tưởng cất
giữ cẩn thận chờ ngày giao lại cho ông Lê Văn Thoại.
Trước chuyện lạ lùng nầy, tưởng chưa thấy trường hợp nào
xảy ra nơi thế tục. Ắt có nhiều người tọc mạch hỏi tại sao?
Tại sao thì không biết tại sao! Nhưng trước hết thấy: Áo
vải mà không mục qua 26 năm thì hẳn là chuyện lạ nếu không phải là Pháp nhiệm
mầu, thứ đến trị được bệnh thổ huyết cho Ông Đạo Nhơn Nguyễn Thành Thôi, thứ ba
là chuyển qua cho đệ tam nhơn.
Cuối cùng vào năm Tân Hợi (1971), Ông Lê được đắc phong
phẩm Hữu Phan Quân, chức vụ cầm phướng Thượng Phẩm dẫn đầu hàng Thánh Hoán Đàn
trong Lễ Đại Đàn nơi Đền Thánh. Ấy là Đức Phật chỉ trước rằng: Đệ Tam nhơn Hữu
Phan Quân đó, là người hầu cận Đức Thượng Phẩm, vào hàng Nhơn Thánh đối phẩm
với Giáo Sư Cửu Trùng Đài.
Kể rõ điều nầy để thấy Đức Phật Hộ Pháp Di Đà cầm Pháp
nền Đại Đạo, hẳn đã tiên liệu trước mọi việc Đạo, như việc: “E sau nầy
có đại loạn…,” nên cho diễn ba vở tuồng: San Hậu, Anh Phụng loạn trào,
Hoàng Phi Hổ đầu Châu và buồn, than, ly, tách…
Trong năm 1940 tại Tòa Thánh Tây Ninh, Đức Hộ Pháp Phạm
Công Tắc Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng ủy nhiệm cho Ông
Giáo Sư Thái Khí Thanh (Lâm Tài Khí) người Trung Hoa, đại diện Hội Thánh Cao
Đài Tòa Thánh Tây Ninh khi Đức Ngài vắng mặt và không nhìn nhận Ông Giáo Sư
Thượng Vinh Thanh (Trần Quang Vinh) là Chức Sắc Tòa Thánh Tây Ninh.
Bởi Đức Ngài đoán trước rằng nền Đại Đạo sắp gặp
khó khăn đàn áp của Thực dân Pháp, tức Đức Ngài chuẩn bị cho cuộc lưu đày nơi
đảo Madagascar, nên ủy quyền giữ Đạo tại Tòa Thánh cho Ông Giáo Sư Khí là người
Tàu, trương cờ Tàu lên khi Đồng Minh đến Đông Dương đảo chánh Nhật.
Nhờ đó mà Tòa Thánh được an toàn. Lúc đó có nhiều người
Đạo khuyên Đức Ngài nên lánh mặt để tránh việc Pháp đến bắt lưu đày. Đức Ngài
cương quyết nói: “Bần Đạo chấp nhận tử vì Đạo, chớ không chạy trốn, Bần
Đạo ngồi đây chờ chúng đến bắt”. Tấm gương hy sinh cao cả của Đức Ngài mà
nền Đạo còn tồn tại đến ngày nay.
Chắc rằng ngoài Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, thì không ai
dám liều lĩnh gánh vác sự nghiệp lớn lao của Đạo như vậy. Điều nầy Trạng Sư
Nguyễn Hữu Phương đã chứng tỏ bằng văn thư trong năm Ất Mùi (1955).
Cũng đúng vào năm 1940 nầy, Ông Giáo Sư Bảy về Nam Vang
vui sống với gia đình, vì Ông được chấm dứt nhiệm vụ Giáo Sư vào ngày 30/10/1939
(giáng cấp và trục xuất), để rồi qua năm 1942 được nhà cầm quyền Pháp ở Nam
vang mời ra nhận lãnh Thánh Thất Kiêm Biên với chức vụ cũ là chủ Trưởng Hội
Thánh Ngoại Giáo tại Phnom Penh, trong khi Hội Thánh Tây Ninh bị thực dân Pháp
khủng bố nặng nề.
Với Chức trách nầy do Pháp đặc cách cho Ông, vì Ông không
còn là Chức sắc của Hội Thánh Tây Ninh nữa. (Có nhiều người lầm chức Chủ Trưởng
năm 1942 của ông Bảy là còn trong cửa Đạo). Mãi đến ngày 19–02–1948 (Âm lịch
10–01–Mậu Tý) ông qui, hưởng thọ 65 tuổi.
Hộ Pháp Đường ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Văn phòng (Tam thập nhứt niên)
Số: 99/HP. TL Tòa Thánh Tây Ninh
HỘ PHÁP
Chưởng Quản Nhị Hửu Hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng.
Chiếu y Tân Luật và Pháp Chánh Truyền.
Chiếu y Đạo Luật ngày 16 tháng giêng
năm Mậu Dần (15–2–1938) giao quyền Thống Nhứt Chánh trị Đạo cho Hộ Pháp nắm giữ
cho đến ngày có Đầu Sư chánh vị.
Nghĩ vì: từ tháng 7 năm 1941 cho tới
tháng 10 năm 1946, Bần Đạo bị đồ lưu nơi đảo Madagascar, ở nhà, Phối Sư Trần
Quang Vinh hiệp cùng chư Chức sắc Thiên Phong Hội Thánh Cửu Trùng Đài lập Quân
Đội Cao Đài tới ngày 9 tháng 3 năm 1945 đảo chánh Pháp.
Nghĩ vì: trong thời gian ấy, Việt Minh
đã cướp chánh quyền, kế tiếp Pháp trở lại, làm cho Đạo phải chịu “lưởng đầu thọ
địch” con cái của Đạo đã bị giết chóc một cách ác liệt, tàn nhẫn, Đạo gây thù
giữa Pháp cùng Việt Minh.
Nghĩ vì: Khi Pháp trở lại, thì Phối Sư
Trần Quang Vinh và Chức Sắc Thiên Phong đồng lõa cùng người, cũng đã tái lập
quân Đội đặng chống Việt minh và đầu hàng Pháp, dưới quyền chỉ huy Tổng Tư Lịnh
Phối Sư Trần Quang Vinh.
Nghĩ vì: các cơ thể Quân Đội đã tạo
thành hiển nhiên nên Bần Đạo phải buộc mình nhìn nhận Quân Đội ấy đặng họ thi
hành sứ mạng Thiêng Liêng của họ là giành quyền Thống Nhứt và Độc Lập cho nước
nhà, nên phải dám đứng làm Thượng Tôn Quản Thế.
Nghĩ vì: Trần Quang Vinh đã làm Tổng
Tư Lịnh Quân Đội khi Bần Đạo vắng mặt, nên Bần Đạo tấn phong cho làm chức Trung
Tướng Quân Đội.
Nghĩ vì: Khi Nguyễn Văn Thành đồ mưu
lật đổ quyền Tổng Tư Lịnh của Trần Quang Vinh thì Bần Đạo đã giao cả Quân Đội cho
Đức Quốc Trưởng Bảo Đại xử dụng.
Nghĩ vì: Nguyễn Văn Thành khi nắm
chánh quyền Tổng Tư Lệnh Quân Đội rồi lại toan mưu phản loạn, nên Bần Đạo thâu
quyền lại giao cho Đại Tá Lê Văn Tất.
Nghĩ vì: Nguyễn Thành Phương nhờ Trình
Minh Thế, Quân Đội Liên Minh đứng làm hậu thuẩn, đặng thâu đoạt cho kỳ đặng
quyền Tổng Tư Lệnh Quân Đội với mọi mưu mô gian xảo, hàm hồ ám sát Lê Văn Tất
buộc phải nhường quyền ấy lại cho nó với sự bất chấp thuận của Hội Thánh vì
trong 38 vị Chức sắc Đại Thiên Phong đầu phiếu thì Nguyễn Thành Phương chỉ đặng
có một mà thôi.
Nghĩ vì: Nguyễn Thành Phương và Nguyễn
Thái là người ngoại Đạo, chỉ có Lê Văn Tất là con của Lê Văn Trung, Chí Thiện
Hội Thánh Phước Thiện, cùng Tham mưu Quân Đội ấy đa số đều là những người không
có Đạo.
Nghĩ vì: Nguyễn Thành Phương đặng Bần
Đạo phong cho chức Trung Tướng đã Quốc Gia hóa hoàn toàn, mà trở lại khủng bố
chiếm đoạt Tòa Thánh, bắt giam ngục Chức sắc Thiên Phong và Tín Đồ của Đạo với
oai quyền của Quân Đội Quốc Gia, cùng tổ chức Ban ám sát đặng giết con cái của
Đạo.
NÊN:
THÁNH LỊNH
Điều Thứ Nhứt: Cả Hội Thánh Cửu Trùng Đài,
Hiệp Thiên Đài, Phước Thiện, Phạm Môn cùng các cơ quan của Đạo đều tổ chức ngày
kỷ niệm 20 tháng 8 âm lịch, là ngày của Nguyễn Thành Phương đã nhơn danh Quân
Đội Quốc Gia về chiếm Thánh Địa.
Điều Thứ Hai: Từ đây, Đạo không coi Quân
Đội, bất cứ với danh thể nào còn có chơn trong Đạo nữa.
Điều Thứ Ba: Hội Thánh Cửu Trùng Đài,
Hiệp Thiên, Phước Thiện, Phạm Môn cùng các cơ quan khác của Đạo, lãnh thi hành
Thánh Lịnh nầy và truyền tống cho toàn Đạo hiểu biết.
KIÊM BIÊN, ngày 8 tháng 8 Bính Thân
(DL. 12/9/1956).
HỘ PHÁP
Ký tên và đóng dấu.
Sao y nguyên văn bổn chánh Thánh Lịnh ban hành cho toàn
Đạo Phước Thiện.
Số
397/SL.
Tòa Thánh, ngày 13 tháng 8 Bính Thân.
(DL. 17/9/56)
Chưởng Quản Phước
Thiện Quyền thượng Thống lại Viện
Phước Thiện.
CHƠN
NHƠN
ĐẠO NHƠN
(ký tên và đóng
dấu)
(ký tên và đóng dấu)
TRỊNH PHONG
CƯƠNG
NGUYỄN VĂN PHÚ
Trưởng Tộc Phạm Môn
ĐẠO NHƠN
(Ký tên và đóng dấu)
PHẠM VĂN ÚT
Giỗ Phạm Phủ từ, Huỳnh Phủ từ, Phan Phủ Từ…hiện nay cúng
vào Ngày 20 tháng 8 hàng niên.
Ghi chú: Có Thánh giáo tại cung Đạo thời kỳ Đức Thượng
Sanh, Ngài Khai Đạo bạch hỏi về vụ 20–tháng 8 (ngày Đạo hận thì Đức Hộ Pháp có
trả lời, lúc sanh tiền, còn xác phàm thì Đức Ngài nói như vậy. Nay về Thiêng
Liêng Ngài không nhắc ngày ấy nữa. Vậy có cúng thì áp dụng các lễ giỗ nào cũng
được)
Tòa Thánh và Chu Vi Thánh Địa