*
TIỂU SỬ ĐỨC TÔN TRUNG SƠN
- Ông
họ Tôn tên Văn tự Dật Tiên, giáng sinh năm 1866 tại tỉnh Quảng Đông, huyện
Trung Sơn, nên ông cũng lấy hiệu là Trung Sơn. Cha mẹ chuyên vốn nghề nông nhà
nghèo. Lúc nhỏ ông theo anh là Tôn Đức Chương sang ăn học tại Đàn Hương Sơn -
thủ đô quần đảo Hạ-Uy-Di (HonoLulu) - thuộc Mỹ Quốc. Đến năm 18 tuổi ông trở về
Quảng Đông rồi học ở trường Y Khoa Hương Cảng. Ông sớm được hấp thụ văn hoá
Mỹ-Quốc nên có những tư tưỏng tân kỳ, không chịu khuất phục dưới chế độ độc tài
của Triều Thanh lúc bấy giờ. Rồi nhân dịp nhà Thanh suy bại, trong nước loạn
ly, ông bèn sang Áo Môn gây mầm cách mạng.
- Sau
trận Trung Nhật chiến tranh (năm Giáp Ngọ) ông trở qua Đàn Hương Sơn tổ chức
Hưng Trung Hội, cổ xuý nhóm kiều bào của ông ở ngoại quốc tham gia phong
trào
cách mạng, lúc ấy ông được 29 tuổi.
- Đến
năm 1905 ông đề xướng chủ nghĩa Tam Dân
và Ngũ
Quyền Hiến Pháp.
*Tam
dân là: Dân Quyền, Dân lập, Dân sanh.
*Ngủ
Quyền là: Quyền Lập Pháp, quyền Hành Pháp, quyền Tư Pháp, quyền Phúc Quyết (Tức
quyền của nhân dân được phủ quyết Pháp Luật hay Chính Phủ hay Nghị Viện lập ra)
và Quyền Bãi miễn (tức quyền dân được cách chức tham quan ô lại).
- Ông
lại sang Nhật Bổn tổ chức tại Đông Kinh đảng Trung Quốc Cách Mạng Đồng Minh Hội
kết tụ được nhiều bạn đồng chí đại để như: Huỳnh Hưng, Hồ Hán Dân, Uông Tinh
Vệ. Quyết đánh đổ đế chế Nhà Thanh.
- Năm
Tuyên Thống thứ 3 (1911) tháng 3, cuộc đảo chánh của Đảng ông bị thất bại thảm
khốc, có đến 72 liệt sĩ bỏ mình chôn xác tại gò Hoàng-Hoa-Cương ở chân núi Bạch
Vân, ngoài cửa thành Quảng Đông. Đến tháng mười năm ấy ông lại thành công, đem
Dân Quyền thay Đế Chế. Thế là từ đây, người dân nước Tàu gọi là người Trung Hoa
Dân Quốc dưới quyền lãnh đạo của Tổng Thống Tôn Trung Sơn. Không bao lâu ông
nhường chức cho Viên Thế Khải. Đến đây đảng Quốc Dân lại chia rẽ, ông nhận thấy
cần phải tổ chức lại một đảng mới hầu cứu vãn tình hình. Đảng mới lấy hiệu
Trung Hoa Cách Mạng đảng.
Đến năm
Bính Ngọ (1906) Viên Thế Khải xưng Đế rồi lại bị ông hưng binh trừ khử. Ông mất
vào ngày 12 tháng 5 năm 1925 dương lịch trong cảnh thanh bần gia tài chỉ vỏn
vẹn có mấy bộ quần áo và vài ba quyển sách.
4- GIẢI THÍCH CHỮ KHÍ
Hình
dưới đây là Đức Hộ-Pháp đứng trên thất Đầu xà, phía sau là Chữ KHÍ 氣
- Chữ Khí (đây là bùa chữ Khí) là
hư vô chí khí, tức là khí sanh quang, con
người thọ nơi khí sanh quang mà sống. Ấy vậy khí sanh quang là trời. Vì buổi Hạ
Nguơn nầy Đức Chí Tôn có nói: Hiệp Thiên Đài là nơi Thầy ngự, tức là Đức Chí
Tôn ở sau để quan sát đặng đưa con cái của Ngài vào Bạch Ngọc Kinh. Các thời kỳ
mở Đạo trước, các vị Giáo chủ đứng trước dìu dắt Môn đệ theo sau nên không
người quan sát trọn vẹn, làm thất Chơn Truyền, cho nên tu thì nhiều mà thành
thì ít. Vì vậy mà thời kỳ nầy, Đức Chí Tôn ở sau đặng độ rỗi 92 Ức Nguyên Nhân
trong thời kỳ Hạ Nguơn mạt kiếp này vậy.
Tại sao gọi là Thất Đầu Xà ?
- Xà là
Rắn, ấy là loài độc có thể làm chết người. Bảy đầu tượng trưng cho Thất Tình,
nếu người không biết chế ngự để cho phàm tánh hung hăng cũng độc hại như rắn
vây. Ba đầu rắn ngẩng lên sau lưng Hộ-Pháp tượng là: Hỉ, Ái, Lạc đó là ba mối
lành, 4 đầu quay xuống là: Ố, Nộ, Ai, Dục. Ấy là bốn mối hại, xấu.
- Thất
tình lôi cuốn con người vào tội lỗi, hại con người phải chịu đoạ đày trầm luân
khổ ải, cho nên Phật giáo chủ trương diệt thất tình, nhưng ngày nay Đức Chí Tôn
dạy người tu phải chế ngự thất tình mới mong đắc đạo
5-
LONG MÃ ĐỨNG TRÊN QUẢ ĐỊA CẦU
- Long
Mã là vật đem tin truyền đạo, nên từ hướng Đông chạy sang hướng Tây rồi quay
đầu lại hướng Đông, ấy là “Thiên địa tuần hoàn châu nhi phục thuỷ- Đạo xuất ư
Đông” ngày nay Đạo Cao-Đài mở lại hướng Đông lập đời Thánh Đức, ấy cũng là
Thiên thơ tiền định. Thầy có nói: “Khai Đạo muôn năm trước định giờ” đều có lý
cớ..
6- GIẢI THÍCH QUẢ CÀN KHÔN
- Bát Quái Đài là nơi thờ các Đấng Thiêng Liêng.
* Trên
hết là thờ Trời bằng Quả Càn Khôn và Thiên Nhãn.
-
Quả Càn Khôn tức là vũ trụ. Trong Quả
Càn Khôn có 3072 Ngôi Sao - thay thế cho Tam Thiên Thế Giới và Thất Thập Nhị
Địa Cầu.
-
Thiên Nhãn là sự soi xét thấy cả mọi
việc trong Càn Khôn vũ trụ tức là Trời, Trời huyền diệu biến hoá vô cùng, bao
quát cả thế gian chớ Trời không hình ảnh. Bát Quái biến Càn Khôn nên Trái Càn
Khôn để trên Đài Bát Quái, Càn Khôn sinh vạn vật. Ấy là Đấng Tạo Hoá (Tượng
trưng cho Trời vậy).
- Thời
kỳ Hạ Nguơn nầy Đức Thượng Đế đem các vị Giáo Chủ hiệp lại, đến mà kêu các Môn
Đệ nhìn Thầy kỳ thứ ba giáng xuống để chuyển thế và cứu thế hầu rước Cửu nhị ức
nguyên nhân đem về cõi thiêng liêng.
* Kế dưới thờ các vị giáo chủ Nhị Kỳ Phổ Độ (tức là Thầy của nhơn loại) là Tam
giáo và Ngũ Chi:
Tam Giáo:
- Giữa
là Đức Phật Thích Ca, Giáo Chủ Đạo Phật, sinh ngày mồng 8 tháng 4, năm thứ 24
Vua Chiêu Vương đời Nhà Châu.
- Phía
bên phải (Trong nhìn ra) là Đức Lão Tử, Giáo Chủ Đạo Tiên, sinh ngày 15 tháng
02 năm Đinh Dậu, đời vua Võ Đinh Nhà Châu.
- Phía
bên trái (của Đức Chí-Tôn) là Đức Khổng Phu Tử, Giáo Chủ Đạo Nho sinh ngày 15
tháng 9 năm Kỷ Dậu, vua Linh Vương đời Nhà Châu.
Ngũ Chi Đại-Đạo:
Ấy là
Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo và Phật Đạo, theo vị trí phần giữa tính
từ dưới lên trên:
- Nhơn
Đạo từ ngôi Giáo Tông trở xuống. Giáo Tông là Anh cả của nền Đại-Đạo,
là người cầm giềng mối và Chưởng Quản Cửu Trùng Đài do Đức Lý chấp chưởng. Đức
Ngài là người công bình chánh trực, nên Đức Chí Tôn chọn Ngài làm Nhứt Trấn Oai
Nghiêm và thay mặt cho Tiên Giáo.
-
Thần Đạo Đức Khương Thái Công (Khương
Thượng) là Giáo Chủ Thần Đạo, Ngài vâng mạng lịnh
Ngọc Hư đến lập bảng Phong Thần
đời Nhà Châu.
- Thánh Đạo do Đức
Jésus-Christ là Giáo Chủ Đạo
Thánh,
Ngài vâng mạng lịnh Đức Chúa Trời xuống thế chuộc tội cho nhân loại lần thứ
nhì. Ngài mở Đạo Thánh tại xứ Âu Châu.
- Tiên Đạo Tức Lão Tử là Giáo Chủ Đạo Tiên. Ngài lập Đạo Tiên tại nước Trung Hoa để phổ hoá chúng sanh đời nhà Châu..
-
Phật Đạo Đức Thích Ca làm Giáo Chủ
Đạo Phật, Ngài lập đạo Phật tại nước Ấn Độ để độ rỗi chúng sanh đời Nhà Châu.
Năm mối Đạo nầy họp lại thành: Ngủ Chi Phục Nhất.
Bức đồ
trên là khai triển “Thánh Tượng Ngũ Chi” hiện nhơn sanh đang thờ trong mỗi nhà
để sùng bái và Tứ Thời nhựt tụng. Bức Thánh Tượng có đủ Tam Giáo, Tam Trấn và
Ngũ Chi Đại-Đạo.
- Tam
giáo như trên đã trình bày.
-Tam
Trấn: thay quyền Tam Giáo trong kỳ Ba Phổ Độ này:
*Phât
Quan Âm thay quyền Phật Đạo (Nhị Trấn)
*Đức Lý
Giáo Tông thay quyền Tiên Đạo (Nhứt Trấn Oai Nghiêm)
*Đức
Quan Thánh Đế Quân thay quyền Thánh Đạo (Tam Trấn Oai Nghiêm)
*Ngũ Chi Đại-Đạo: (hàng giữa) từ trên xuống là: Thích Ca Mâu Ni, Thái Bạch Kim Tinh, Gia-Tô Giáo Chủ, Khương Thượng Tử Nha, Giáo Tông Đại-Đạo Tam kỳ PĐ.
7-
GIẢI THÍCH 28 CÂY CỘT RỒNG VÀ MÀU SẮC CỦA RỒNG
- 28 cây cột Rồng trong Đền Thánh là thay thế cho Nhị Thập Bát Tú, tức là: Thần, Thánh, Tiên, Phật vậy. Vì nơi Bạch Ngọc Kinh thì Đức Chí Tôn ngự có Thần, Thánh chầu. Nay Đền thờ Đức Chí Tôn thay thế cho Thần Thánh bằng Rồng chầu Chí Tôn.
- Nhứt
Kỳ Phổ Độ Đức Nhiên Đăng làm chủ Hội.
- Nhị
Kỳ Phổ Độ Đức Di Đà làm chủ Hội.
Rồng có
nhiều màu sắc là có 3 kỳ lập Giáo thì có 3 Hội:
*Nhứt
Kỳ Phổ Độ -Thanh Vương Đại Hội -(màu xanh)
*Nhị Kỳ
Phổ Độ -Hồng Vương Đại Hội -(màu Đỏ)
*Tam Kỳ
Phổ Độ -Bạch Vương Đại Hội -(màu Trắng)
- Tam
Kỳ Phổ Độ Đức Di Lạc làm chủ điểm Đạo nên Rồng Trắng ở tại Bát Quái Đài, ấy là
chánh thời kỳ của sắc trắng.
- Rồng
Vàng đứng chung quanh Bát Quái Đài thay thế chư phật chứng Hội Long Hoa.
8-
GIẢI THÍCH THIÊN NHÃN VÀ BÔNG SEN CHUNG QUANH ĐỀN THÁNH
- Thiên Nhãn là Ngôi Thái Cực. Vì thời kỳ chưa phân trời đất vẫn còn mờ mờ, mịt mịt; khi Thái cực nổ mới có ánh sáng: Khí thanh bay lên làm Trời, khí trược chìm xuống làm đất. Ấy là Lưỡng Nghi tức là tượng trưng hai bụi sen. Âm Dương Lưỡng Nghi sanh Tứ tượng ấy là bốn cái gương sen. Khi có trời đất mới phân định 4 hướng là: Đông, Tây, Nam, Bắc.
- Tứ
Tượng biến thành Bát Quái. Ấy là tượng tám cái lá. Khi định bốn phương rồi mới
sinh ra tám hướng là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
- Mười
hai cái ngó sen là Thập Nhị Khai Thiên. Số 12 là số của Trời, tức là 12 con
giáp: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
- Mười
cái bông sen tượng Thập Phương Chư Phật, vì nơi Niết Bàn mới có toà sen, ấy là
cõi Phật. Các Đấng Thần, Thánh trước kia cũng mang xác phàm ở nơi cõi trần mà
không nhiễm trần, lại tìm chân lý mà độ rỗi chúng sanh nay được đắc vào bậc
Thần, Thánh, Tiên, Phật vậy. Còn sen là vật dưới bùn mà không nhiễm bùn, lại có
thanh danh là liên hoa tên gọi là toà sen, không nhiễm bùn trọng trược nên cho
là Cõi Phật.
Hình
Tam Giác và 16 Tia hào quang trong Khuôn Thiên Nhãn với ý nghĩa:
-Thiên
Nhãn là Trời, hình Tam Giác là Tam Giáo. Tôn giáo nào cũng do nơi trời mà có,
Tôn giáo nào cũng có qui củ chuẩn thằng, ấy là bộ luật (tức là cây thước).
-16 tia
bao quanh Thiên Nhãn: 9 tia trên tượng Cửu Thiên Khai Hoá. 7 tia dưới tượng
Thất Tình. Ý nghĩa là tôn giáo nào cũng phải chế ngự thất tình, cho con người
nương theo Cửu Thiên Khai Hoá mà về hiệp với trời.
&
9- GIẢI THÍCH TẤM DIỀM NGAY CHÍNH GIỮA
Trên
tấm khuôn diềm trước mặt tiền là Ngũ Chi Đại Đạo, Tam Giáo và Tam Trấn.
- Ngay
chính giữa: Đứng trên là Đức Thích Ca Như Lai Phật, Đức Lý Thái Bạch, Đức Chúa
Giê Su, Khương Thượng Tử Nha, nhìn ngay xuống dưới là Bảy Ngai của Cửu Trùng
Đài thay cho Nhơn Đạo (Giáo-Tông).
- Phía
Tả: Chính giữa là Lão Tử, kế là Đức Phật Quan Âm Bồ Tát
- Phía
Hữu: Ở giữa là Đức Văn Tuyên Khổng Thánh, kế là Đức Quan Thánh Đế Quân.
Số 5 ở
giữa chính là Ngũ Trung:
*Ở Trời
là Ngũ Khí,
*Ở Đất
là Ngũ Hành
*Ở
Người là Ngũ Tạng
10- GIẢI THÍCH KHUÔN DIỀM BÊN TẢ CÓ BÁT TIÊN
- Khuôn
Diềm bên tả thì có BÁT TIÊN là:
- Lý
thiết Quả - Hớn Chung Ly
- Lữ
Đồng Tân - Trương Quả Lão
- Tào
Quốc Cựu - Lam Thể Hoà
- Hàn
Tương Tử - Hà Tiên Cô
&
11- GIẢI THÍCH KHUÔN DIỀM BÊN HỮU
CÓ THẤT THÁNH
Khi cất Đền Thánh xong, Đức Hộ Pháp không hiểu
nên để Thất Hiền hay Thất Thánh nên Đức Ngài cầu Đức Lý Đại Tiên giáng cơ chỉ
giáo. Đức Lý Ngài nói rằng:
- Đáng
lẽ phải để Thất Hiền, bởi vì trước kia khi trời đất chưa mở mang, khí Hư Vô còn
hỗn-độn hiêp kỳ Âm Dương để khai khán Lưỡng Nghi định vị rồi khí nhẹ nổi
lên là trời, khí nặng chìm xuống là đất, rồi từ đó mới có hoá sanh trên mặt địa
cầu, lúc đó Chí Tôn, Phật Mẫu mới cho xuống tại thế 100 ức nguyên nhân nơi mặt
đất. Đất bình địa lấy chi ăn mà sống, nên có 7 ông Hiền tình nguyện xuống trước
gọi là Thất Hiền gồm:
- Kế
Khang (223-263) - Nguyễn Tịch (210-263)
- Sơn
Đào (205-283) - Hướng Tú (221-300)
- Lưu
Linh (220-300) - Vương Nhung (234-305).
- Nguyễn Hàm
Bảy ông này: Ông đào
sông, ông tạo núi, ông bắt cầu, ông đắp đường, ông trồng hoa quả, ông che nhà
và ông lập rừng. Bảy ông có công sáng tạo cơ nghiệp Hoàng Đồ ở trên mặt thế,
đáng lẽ phải để Thất Hiền bia gương cho biết hồi Bàn Cổ Sơ Khai, nhưng lâu quá,
thôi để Thất Thánh đời Phong Thần là: 1-Lôi Chấn Tử, 2-Lý Tịnh, 3-Kim Tra,
4-Mộc Tra, 5-Na-Tra,6-Dương Tiễn, 7-Vi Hộ..
Bảy ông
này đứng trong vòng Phạt Trụ Hưng Châu, trong lúc còn bán Phong Thần. Nay bước
vào đường phong thánh. Lý thuyết Tôn giáo Cao Đài ngày nay Chí Tôn lập trường
Phong Thánh để bước vào địa vị tối cao. Vậy toàn cả mọi người trong Tôn Giáo
rán làm sao cho đầy đủ công nghiệp, công đức bước khỏi trường Phong Thánh. Vậy
mới không uổng kiếp sanh của chúng ta may duyên gặp thời kỳ Chí Tôn hoằng khai
Đại Đạo, mới không hổ mặt với những vị tiền bối.
Cả hai
bên (Tả, hữu) cộng lại là 15 = (8+7) ấy là con số Ma phương trong Bát Quái Cao
Đài. Con số Dịch bao giờ cũng hiển hiện trong đạo-pháp.
12-
GIẢI THÍCH KIM MAO HẪU Ở BỐN CỬA ĐỀN THÁNH
- Bốn cửa hai bên Đền Thánh mỗi cửa có hai con Kim Mao Hẫu. Tượng trưng y như
Bạch Ngọc Kinh, có những con Kim Mao Hẫu đón rước các chơn linh có công cùng
Đạo đặng đưa lên Bát Quái Đài.
Khi Đức
Phạm Hộ Pháp trấn thần 8 con Kim Mao
Hẩu
nầy, Đức Ngài có nói: "Con Kim Mao Hẩu rất mạnh khỏe, tượng trưng cái năng
lực tinh thần của người tu, nhờ nó mà qua các từng Trời và trở về cùng Đức Chí
Tôn." Bốn con linh vật này có phân đực, cái tức là tượng cho lý Âm Dương
hiệp nhứt, trong cửa Đạo này là nhất quán.
13- GIẢI THÍCH BA VỊ PHẬT TRÊN NÓC BÁT QUÁI ĐÀI
- Ba vị Phật là: - BRAHMA Phật
- CIVA
Phật
-
CHRISTNA Phật.
- Ba vị
này là Tam vị Thế Tôn trị đời trong ba thời kỳ như:
*Đức
Brahma Phật (quay mặt về hướng Tây) Ngài ra trị đời nhằm thời Thượng Nguơn là
Nguơn Thánh Đức, tức là nguơn vô tội. Ngài cỡi con Thiên Nga (ngỗng trời) bay
khắp cả hoàn cầu nhắm xem cuộc thế.
*Đức
Civa Phật (quay mặt về hướng Bắc) Ngài ra trị đời nhằm thời kỳ Trung Nguơn là
Nguơn Tranh Đấu, tức là nguơn tự diệt. Ngài đứng trên Thất Đầu Xà, ấy diệt thất
tình, thổi ống sáo để thức tỉnh nhân sanh về ngôi vị.
*Đức
Christna-Phật (quay mặt về hướng Nam). Ngài ra trị đời vào thời kỳ Hạ Nguơn là
Nguơn tự diệt, tức là bắt đầu nguơn tái tạo, Ngài cỡi con Giao Long đi khắp
cùng chơn trời góc biển mà rước các chơn hồn đem về Bạch Ngọc Kinh dâng cho Đức
Chí Tôn định vị.
Đấy là
Tam Ngôi nhứt Thể vậy.
Khi Đức
Hộ Pháp trấn Thần đến Bát Quái Đài, ngó lên trên, Ngài trấn Thần pho
tượng Tam Thế Phật (Tam Thanh). Ngài nói:
1-Brahma Phật đứng trên lưng con Thiên nga (Ngỗng trời) ngó tới (ngó hướng Tây), ấy là ngôi thứ nhứt, tượng trưng ngôi Thánh đức, thuộc về Cơ Sanh hóa, ấy là Đấng tự hữu hằng hữu, hữu nguyên hữu thỉ của vạn vật.
2-Đức Phật Civa (Shiva) đứng trên Thất đầu Xà (rắn bảy đầu) ngó qua phía chánh Bắc, ấy là ngôi thứ hai tượng trưng phần Âm Dương, Cơ Sanh cũng là Cơ Diệt, ấy là ngôi Bảo tồn.
3-Đức Phật Christna đứng trên con Giao long (Cá hóa rồng) ngó về phía chánh Nam, ấy là ngôi thứ ba tượng trưng cuộc tuần hoàn, tiên tri cho nhơn loại biết việc trí xảo thuộc Cơ Tranh đấu, cũng là cuối Hạ nguơn, khởi Thượng nguơn Tứ Chuyển.
14- GIẢI THÍCH HAI CÁI ĐÀI THUYẾT ĐẠO
Hai đài Thuyết Đạo:
- Hai
cái Đài Thuyết Đạo đây có nghĩa là tích Vua Phò Dư lập đài tế cáo trời đất. Khi
Đức Khổng Tử đi truyền Giáo (Đạo Nho) qua nước của Vua Phò Dư, gặp phải ông vua
tánh tình tàn bạo, không ưa Tôn Giáo, không thích tu hành. Vua ra lệnh bắt Đức
Khổng Tử giam vào
ngục
thất ngoài hai năm mới phóng xá và cấm trong nước nếu ai theo đạo của Ngài thì
tru di. Vua lại ra 6 điều:
1- Mắt ta không muốn trông thấy Khổng Phu Tử.
2- Tai ta không thèm nghe những lời của Khổng Phu
Tử
3- Mũi ta không chịu hơi hôi tanh của Khổng Phu
Tử.
4- Lưỡi ta không thích nói chuyện với Khổng Phu
Tử.
5- Thân ta không muốn gần, thân mật với Khổng Phu
Tử.
6- Ý ta không cho Khổng Phu Tử qua nước ta lần hai.
Nếu cãi
lệnh ta sẽ gia hình không dung thứ. Ấy là tượng 6
cái tia
trong miệng Rồng phun ra tức là lục căn: nhãn, nhĩ,
Nhĩ,
Tỷ, Thiệt, Thân, Ý.
- Đời
vua Phò Dư vô đạo, tánh chất bạo tàn, nên Trời phạt trong nước bị thiên tai,
hạn hán, Vua thấy trong nước nguy biến bèn ra giữa trời lập cái Đài mà cầu
nguyện (tướng tinh vua Phò Dư là con Thanh Đẩu Long - Rồng Xanh). Vua Phò Dư
quỳ dưới Đài mà cầu nguyện thấu đến Ngọc Hư Cung, Đức Ngọc Đế sai ông Hứa Chơn
Quân xuống đứng trên đài kêu, cho biết rằng:
- Ấy là
tại nhà vua vô đạo, không kể Thánh hiền nên Trời phạt như vậy. Nếu nhà vua muốn
trong nước được mưa thuận gió hoà, dân chúng an cư lạc nghiệp thì qua nước Lỗ
tìm Đức Khổng Phu Tử rước về mà mở Đạo dạy dân thì trong nước hết tai nạn. Ngài
nói rồi đằng vân bay mất. Vua nghe lời qua Nước Lỗ cầu Đức Khổng Phu Tử về mở
trường giáo đạo dạy dân. Không bao lâu trong nước được mưa thuận gió hòa, dân
chúng lạc nghiệp âu ca, vua thấy vậy truyền lịnh trong nước: nếu ai không theo
đạo của Đức Khổng Phu Tử thì bị gia hình trọng trị.
15- ĐỨC PHẬT TỔ CỠI NGỰA TRƯỚC ĐỀN
-
Đức Phật Tổ cỡi ngựa trước Đền- Thánh và người chạy theo sau là vị tớ trung
thành tên Sa-Nặc. Ngài lúc ở thế là một vị Thái Tử con vua Tịnh Phạn Vương, Mẹ
là hoàng Hậu Ma-Da ở nước Ca-Tì La-Vệ. Ngài tên Thích Ca. Khi trưởng thành,
Ngài rất thông minh, tánh tình thuần hậu nên được vua cha yêu mến. Đến năm mười
sáu tuổi, Ngài lập gia thất. Vợ Ngài là công chúa Gia-Du Đà-La, sau sanh một
người con trai tên là La-Hầu-La. Ngài đang sống trong cảnh cung vàng điện ngọc,
vợ đẹp con xinh. Bỗng một hôm ra khỏi hoàng cung đi dạo ngoài bốn cửa thành:
Ngài đi đến Bắc Môn thấy người cày ruộng với đôi trâu coi mệt nhọc dưới ánh
nắng chang chang như thiêu đốt, thật sanh ra là khổ! Ngài liền qua phía Đông
Môn gặp ông già chống gậy đi bước thấp bước cao, ôi già là khổ! Trở qua phía
Nam Môn gặp một người bệnh đang nằm dưới đất rên xiết, ôi bệnh cũng khổ! Ngài
trở lại Tây Môn thấy một người chết nằm dựa bên lề đường, ruồi lằn bu bám. Ôi!
chết cũng khổ! Ngài liền trở về hoàng cung nằm suy nghĩ: thật con người sanh
trên thế gian nầy muôn việc gì cũng khổ. Đến đêm mồng 8 tháng 2 Ngài nhìn lại
vợ con lần cuối, khi vợ con đang an giấc. Ngài cùng người tớ Sa-Nặc trốn ra
khỏi hoàng thành lên ngựa chạy thẳng vào rừng Khổ Hạnh là nơi ẩn tu của nhiều
ông đạo sĩ. Ngài lo tu hành mong thành chánh quả hầu có phổ độ chúng sanh, giải
thoát cuộc đời đau khổ mà Ngài đã chứng kiến ngoài bốn cửa Ngọ Môn đã kể trên.
Theo Lý
Dịch thì Phật và ngựa Kiền-trắc là đủ Âm Dương, Sa-Nặc nữa là ba, tượng Tam-Tài
thống hiệp. Người tu cũng với mục đích hiệp đủ Tam bửu: TINH- KHÍ-THẦN là cơ
huờn nguyên, đắc đạo vậy.
16- GIẢI THÍCH CỘT PHƯỚN VÀ LÁ
PHƯỚN ĐỀN-THÁNH
F: La bannière de Saint Siège
Phướn Đền Thánh là lá
phướn treo nơi cột phướn trước Đền-Thánh Tòa Thánh –Tây Ninh vào 3 tháng của 3
nguơn:Thượng nguơn, Trung nguơn, Hạ nguơn tức là tháng Giêng, tháng 7, tháng 10
âm lịch.
(Phướn Thánh Thất giống hệt phướn
Tòa Thánh,
nhưng treo trước Thánh Thất, thường
phướn Thánh Thất nhỏ hơn - Phướn Đền Thánh có hình dạng và màu sắc giống như
Phướn Phật Mẫu, nhưng kích thước lớn hơn một chút và có vài chi tiết khác hơn
Phướn Phật Mẫu).
Mô tả: Phướn Đền Thánh có bề ngang 1 thước 2 tấc (12 tấc), bề dài 12 thước chưa kể những cái thẻ phía dưới. Phần dưới có 12 thẻ, mỗi thẻ dài 1 thước 2 tấc. Lấy con số 12 làm chuẩn, là vì số 12 là số đặc biệt của Đức Chí Tôn. Phướn Tòa Thánh được chia làm ba phần từ trên xuống dưới, kể ra như sau:
- Phần 1: Phần trên hết là
màu vàng, bề dài 1 thước 2 tấc, trên đó có thêu hình hai con rồng nhìn vào một
quả cầu gọi là: Lưỡng Long triều Nhựt, nghĩa là hai con rồng chầu mặt
Trời.
- Phần 2: Phần tiếp theo có bề dài 10 thước 8 tấc, có ba sọc vàng, xanh, đỏ, dọc theo bề dài lá phướn, mỗi
- Phần 2: Phần tiếp theo có bề dài 10 thước 8 tấc, có ba sọc vàng, xanh, đỏ, dọc theo bề dài lá phướn, mỗi
sọc có
bề ngang 4 tấc. Sọc màu xanh da trời ở chính giữa, hai sọc vàng và đỏ hai bên.
Hai bên bìa lá phướn có gắn các thẻ, mỗi bên gắn 12 thẻ, mỗi thẻ dài 9 tấc,
đuôi nhọn. Thẻ vàng gắn trên hết, kế dưới là thẻ màu xanh, kế dưới nữa là thẻ
màu đỏ, thẻ thứ tư thì trở lại màu vàng, rồi xanh, rồi đỏ, cứ thế tiếp tục, đến
thẻ chót là màu đỏ. Trên sọc giữa màu xanh da trời của lá phướn có thêu lần
lượt từ trên xuống dưới là:
* Thiên
Nhãn với đường nét màu đen.
* Kế
dưới là Cổ Pháp Tam Giáo: Xuân Thu, Phất chủ, Bát Vu, tượng
trưng Tôn chỉ của Đạo Cao Đài là “Qui Nguyên Tam Giáo”: Phật giáo, Lão giáo và
Nho giáo.
* Kế
dưới là 6 chữ Hán 大 道 三 期 普 渡 thật lớn, màu vàng, đặt theo chiều dọc là “Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ”. Khoảng trống giữa các chữ Hán có gắn những cái hoa vải ba màu:
vàng, xanh, đỏ.
* Phía
dưới cùng là cái giỏ hoa lam:
Mặt sau
lá phướn là toàn một màu vàng làm nền
Phần
3: là phần đuôi phướn, gồm có 12 thẻ,
mỗi thẻ dài 1 thước 2 tấc, trên nhỏ dưới lớn, đuôi nhọn. Các thẻ nầy (lớn và
dài hơn các thẻ nơi bìa phướn) kết liên tiếp theo bề ngang của lá phướn, thẻ
thứ nhứt màu vàng, thẻ thứ 2 màu xanh, thẻ thứ 3 màu đỏ, thẻ thứ 4 lại màu
vàng.
Ba phần
1, 2, 3 của lá Phướn Đền Thánh có bề dài tổng cộng là 13 thước 2 tấc. Do
đó, cột phướn để treo lá phướn nầy phải cao từ 15 thước trở lên.
Nơi các Thánh Thất địa phương,
thường thì cột phướn không cao như tại Tòa-Thánh, nên khi làm lá Phướn Thánh
Thất phải thu nhỏ kích thước lại một chút, tức là chỉ bằng kích thước của lá
Phướn Phật Mẫu, dài 9 thước 9 tấc.