1- Ý
nghĩa nền vàng: là tượng trưng của
Phái Phật, chính Đức Phật Mẫu cầm quyền năng tạo đoan cả nhân loại, nên trong
bài Kinh Phật Mẫu có câu:
“Tạo
Hoá Thiên huyền vi Thiên Hậu.
“Chưởng Kim Bàn Phật Mẫu Diêu Trì”.
- Nơi
tầng trời thứ 9 gọi là Mẹ sanh. Ngài Chưởng Quản Kim Bàn tức là nắm cả các đẳng
cấp thiêng liêng mà điều khiển các phẩm chơn hồn từ: Kim thạch hồn, Thảo mộc
hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn. Cả Bát
phẩm Chơn Hồn đó nếu họ đoạt được cơ siêu thoát thì cũng đều do tay Đức Phật
Mẫu mà có.
Phật Mẫu đem Phật tánh lại cho các bậc Nguyên nhân. Nguyên nhân là
các chơn hồn của Đức Chí Tôn sai xuống trần gian mà độ chúng sanh nhưng họ mê
luyến hồng trần nên Đức Chí Tôn đem Phật tánh phổ hoá cho họ nhớ mà trở lại
ngôi xưa, nhưng hai kỳ phổ hoá chỉ độ đặng có 8 ức, còn lại 92 ức vẫn còn đoạ
lạc tại thế. Nay, Đức Phật Mẫu đến giáo hoá cho họ được thức tỉnh mà qui hồi
cựu vị
nên trong Điện thờ Phật Mẫu có đôi liễn như đây:
-
BÁT phẩm chơn hồn tạo thế giới hoá chúng sanh vạn vật hữu hình tùng thử ĐẠO.
-
QUÁI hào bác ái định Càn Khôn phân đẳng pháp nhứt Thần phi tướng trị kỳ TÂM
八 品 真 魂 造 世 界 化 眾 生 萬 物 有 刑 從 此 道
卦 爻 博 愛 定 乾 坤 分 等 法 一 神 非 將 治 其 心
Trên
nền vàng có 3 màu: Vàng, Xanh, Đỏ tượng trưng Tam Giáo: - Vàng thuộc Thích
Giáo.
- Xanh
thuộc Tiên Giáo.
- Đỏ
thuộc Nho Giáo.
Tuy
nhiên có ba màu như vậy song cũng như một, huyền linh của Đức Lão Tữ hóa Tam
Thanh trong lúc Phạt Trụ hưng Châu. Tức nhiên ba mà một, một mà ba. Nghĩa là ba
màu sắc này pha trộn đến một dung dịch chính xác nhất trong phòng thí nghiệm,
thành ra màu trắng. Cũng như bảy sắc cầu vồng hoá ra màu trắng của ánh sáng mặt
trời vậy.
2 - Thiên Nhãn:
- Là
tượng trưng của nền Đạo mà cả Tín đồ dùng thờ phượng ở những tư gia hay là
trong các Thánh Thất.
Tại sao
Đạo Cao Đài lấy Thiên Nhãn làm tiêu biểu ?
Chính
Đức Chí Tôn có dạy:
“Nhãn
thị chủ tâm, lưỡng quang chủ tể, quang thị Thần, Thần thị thiên, thiên giả ngã
dã”
眼 是 主 心。 兩 光 主 宰 。光 是 神。
眼 是 主 心。 兩 光 主 宰 。光 是 神。
神 是 天 。天 者 我 也。
- Con mắt ấy là chủ linh
tâm, hai điển quang của con mắt là chủ tể (thể trên trời là Nhật Nguyệt, thể
nơi người là Lưỡng Mục). Điển quang ấy thuộc
Thần, Thần thuộc trời, trời ấy là TA vậy.
Mặt
khác, Thiên Nhãn tượng trưng sự công bình thiêng liêng và cũng tiêu biểu mầm
móng cho sự Đại Đồng nhơn loại. Thánh nhơn có câu: “Thiên thị tự ngã
dân thị, Thiên thính tự ngã dân thính”(Nghĩa là trời xem tức dân ta xem, trời
nghe tức dân ta nghe). Hơn nữa thời xưa các vị Giáo Chủ Tam giáo giáng trần lập
Đạo mang hình hài xác thịt: phương Tây thì lấy hình thể người Âu, phương Đông
thì lấy hình thể người Á. Nguơn hội này Đức Chí Tôn giáng cơ khai Tam Kỳ Phổ Độ
dạy thờ Thiên Nhãn tất nhiên Ngài muốn con cái của Ngài hoà ái hiệp tâm với
nhau để đi đến chỗ Đại-Đồng Thế Giới.
3- Cổ Pháp: là do bửu pháp của Tam giáo hiệp lại
là Xuân
Thu (Nho), Phất Chủ (Tiên), Bát Du (Phật). Chính Đức Hộ Pháp cùng các chức sắc
Hiệp Thiên Đài hằng ngày trân trọng mang trên Mão.
-
Bình Bát Vu: là Bửu Pháp của nhà
Phật. Như Đức Thích Ca tắm nơi sông Hằng, Ngài cũng chưa biết rằng đã đoạt Đạo.
Ngài nguyện nếu quả Ngài đắc pháp đủ quyền năng tế độ chúng sanh, xin cho Bình
Bát Vu nổi và trôi ngược dòng nước. Sau khi thả Bình Bát Vu xuống sông Hằng, sự
thật được như ý nguyện. Do đó mà Đức Phật mượn Bình Bát Vu đi phổ độ chúng
sanh.
- Phất Chủ: hay phất trần cũng thế. Chính Đức Lão Tử, Đức Thái Thượng cùng các bậc Tiên gia đều dùng, tất nhiên cũng là bửu pháp của phái Tiên để vân du thế giới tế độ chúng sanh. Vì vậy mà Đạo Cao Đài dùng đó để làm tiêu biểu của Đạo Tiên hầu dùng quét sạch bụi trần, trong
- Phất Chủ: hay phất trần cũng thế. Chính Đức Lão Tử, Đức Thái Thượng cùng các bậc Tiên gia đều dùng, tất nhiên cũng là bửu pháp của phái Tiên để vân du thế giới tế độ chúng sanh. Vì vậy mà Đạo Cao Đài dùng đó để làm tiêu biểu của Đạo Tiên hầu dùng quét sạch bụi trần, trong
Kinh
Thế đạo có câu:“Chổi tiên quét sạch nợ trần oan gia”
- Xuân Thu: tức là quyển sách do Đức Khổng Phu Tử sáng tác, cũng là Bửu Pháp của Nho Giáo. Trong lúc châu lưu Lục-quốc Đức Khổng Phu Tử đã không thành công trong việc truyền giáo, Ngài mới trở về nước Lỗ lập Hạnh đàn dạy được Tam thiên đồ đệ, sau khi chỉ còn Thất Thập Nhị Hiền. Ngài thấy đời loạn lạc nào vua tôi, cha con, anh em, chồng vợ sát hại nhau, bỏ mất đạo làm người, quên cả luân thường đạo lý, nên Ngài soạn sách Xuân Thu, phân định quyền hành: quân-minh, thần trung, phụ từ, tử hiếu. Đời nhớ ơn: Khổng Phu Tử từ nước Lỗ làm sách Xuân Thu phân biệt đạo vua tôi chấn hưng phong hoá.
Xuân:
Nhứt tự ngụ chi bao (một chữ để khen).
Thu:
Nhứt tự ngụ chi biếm (một chữ để chê).
“Nhứt
tự chi bao vinh ư hoa cổn, nhứt tự chi biếm nhục ư phủ Việt” nghĩa là: ai được
một chữ khen của Ngài vinh diệu như mặc được áo hoa cổn, ai bị một chữ chê của
Ngài nhục không khác búa rìu. Thế nên đến đời Tam Quốc, Đức Quan Thánh Đế Quân
hằng trân trọng bộ Xuân Thu.
Vậy: Cổ
Pháp Hiệp Thiên Đài là tiêu biểu của ba Đạo: Nho- Thích- (Lão) Đạo, mà ta nhìn thấy
dính liền với nhau còn có nghĩa là sự Qui Nguyên Tam Giáo. Nghĩa là Đạo chỉ có
một mà thôi. Tôn chỉ của Đại-Đạo là “Qui Nguyên Tam Giáo Phục Nhất Ngũ Chi” (là
Nhơn đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo và Phật Đạo) mà Đạo Cao Đài đang lo
chấn hưng để phổ hoá toàn nhơn loại nên gọi là Đại Đạo, có thế mới trấn phục cả
hoàn cầu được.
4 -
Tam Kỳ Phổ Độ (là ba thời kỳ Phổ
Độ)
* Nhứt
kỳ Phổ Độ :
- Phật
Đạo là do Đức Nhiên Đăng khai sáng tại nước Trung Hoa trong thời kỳ thượng cổ.
- Tiên
Đạo: Đức Thái Thượng khai tại Trung Hoa.
- Nho
Đạo: Đức Văn Tuyên Khổng Thánh cũng khai sáng ở Trung Hoa.
* Nhị
Kỳ Phổ Độ:
- Đức
Thích Ca Mâu Ni chấn hưng Phật Giáo tai Ấn Độ
- Tiên
Đạo: Đức Lão Tử khai tại Trung Hoa đời nhà Thương
- Nho
Đạo: Đức Khổng Tử khai sáng tại Trung Hoa đời nhà Châu.
* Tam
Kỳ Phổ Độ (Đức Chí-Tôn sắm Tam Trấn
Oai nghiêm thay quyền Tam Giáo) để Phổ hóa chúng sanh thuyết pháp độ đời, cải
tà qui chánh, cải ác tùng lương. Đạo Cao Đài không phải mới lạ chi, thật ra là
Tam giáo chấn hưng trong thời kỳ Hạ nguơn nầy đặng độ rỗi 92 Ức
Nguyên
nhân còn đoạ lạc nơi trần thế.
* Giỏ
Hoa Lam: Của một Tiên nữ (Hà Tiên Cô)
dùng để đi hái hoa luyện thuốc cứu đời. Hiên nay, Cao Đài dùng Giỏ Hoa Lam
trước đền thờ Chí Tôn tất nhiên để khuyến khích tinh thần Nữ phái noi gương
sáng ấy để mở rộng lòng thương với vạn loại chẳng ngại khó khăn. Lại nữa ý
nghĩa hoa đựng trong một giỏ tức hoa được lựa chọn
* 12
Thẻ trên lá phướn: 12 Là số riêng của
Đức Chí Tôn, thuộc về Thập Nhị Khai Thiên (số Dương). 12 thẻ ở dưới thuộc về số
Âm, tượng trưng âm dương hợp nhất, thiên địa giao thới, pháp luân thường
chuyển.
Tóm
lại: trong bài kinh xưng tụng Đức
Diêu Trì Kim Mẫu có câu
“Lục
Nương phất phướn truy hồn,
“Tang
thương nay lúc bảo tồn chúng sanh”
Đang
buổi thế giới cạnh tranh, tang thương biến cuộc, Đại-Đạo dùng phướn, dù phướn
Chí-Tôn hay phướn Phật Mẫu là Phướn Từ-bi để thức tỉnh sanh linh nương theo mà
trở về cửa Đạo, nhìn nhau đồng chủ nghĩa, chẳng phân biệt màu da sắc tóc nòi
giống, thật hành đạo đức thương yêu nhau mà đem Tôn Chỉ Đại Đồng rải khắp càn
khôn thế giới cho được cộng hưởng thái bình âu ca lạc nghiệp. Được như vậy, sau
khi thoát xác rồi Lục Nương sẽ Diêu-Trì-cung dùng Phướn Từ-bi ấy mà dìu dẫn
chơn hồn qui hồi cựu vị, hội hiệp cùng Phật Mẫu nơi cõi thiêng liêng hằng sống.
17- ĐẠO KỲ
F:
Le drapeau religieux
Đạo
kỳ là lá Cờ Đạo, tượng trưng Đạo Cao
Đài, gồm 3 màu: Vàng, Xanh, Đỏ. Lá Cờ Đạo được gọi là Cờ Tam
Thanh:
- Thái Thanh màu vàng,
-
Thượng Thanh màu xanh
- Ngọc
Thanh màu đỏ.
Nơi bao
lơn trước Tòa Thánh, trong những ngày Lễ của Đạo đều có treo lá cờ Đạo rất lớn,
hình chữ nhựt, có màu vàng ở bên trên, màu xanh ở giữa và màu đỏ ở dưới chót.
Trên nền vàng, có thêu 6 chữ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ bằng chữ Nho 大 道 三 期 普 渡 Trên phần nền xanh ở
giữa có thêu một Thiên Nhãn và Cổ Pháp Tam giáo: Bình Bát Du, Cây Phất Chủ,
quyển Kinh Xuân Thu
Trên
phần màu đỏ không có thêu gì cả. Ý nghĩa của cờ Đạo Cao Đài được Đức Phạm Hộ
Pháp giải thích như sau:
-
Màu vàng là của phái Thái, tượng
trưng Phật giáo.
-
Màu xanh là của phái Thượng, tượng
trưng Tiên giáo.
-
Màu đỏ là của phái Ngọc, tượng Thánh
giáo (Nho giáo).
Ghép 3
màu lại trong một khuôn hình chữ nhựt, với 3 phần đều bằng nhau, tượng trưng
Tôn chỉ của Đạo Cao Đài là Tam Giáo Qui Nguyên. Thiên Nhãn là biểu tượng của
Đức Chí Tôn: thờ Thiên-Nhãn là thờ Đức Chí Tôn. Thêu Thiên Nhãn và Cổ Pháp Tam
giáo trên Đạo Kỳ, dưới 6 chữ Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là để chỉ rằng, Đạo Cao Đài
do Đức Chí Tôn lập ra trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ với tôn chỉ Tam Giáo Qui
Nguyên, nghĩa là đem BA nền Tôn giáo lớn ở Á Đông qui về một gốc Đại-Đạo do Đức Chí Tôn làm chủ.”
18- GIẢI THÍCH ÔNG THIỆN VÀ ÔNG ÁC
Đức Hộ Pháp trấn Thần Tòa Thánh
ngày mùng 6-giêng-Đinh Hợi (dl 27-01-1947 ) Khi Đức Hộ Pháp trấn
Thần hai pho tượng: Ông Thiện và Ông Ác, Ngài nói:
“Đời thường lầm lạc, làm điều ác
cho là thiện và thường lấy điều lành cho là ác. Nên từ đây, năng lực của Thiện
Thần sẽ phô bày ra mặt đời, thế nào là chánh, việc nào là thiện, làm thế nào là
phước, cho thiên hạ rõ. Còn Ác Thần thì phô bày ra mặt đời, thế nào là tà, việc
nào là ác, sao gọi là tội, cho nhơn loại rõ. Hai Ông Thần nầy rất linh hiển,
dùng quyền năng thiêng liêng đưa ra thiệt tướng trong hai con đường: phước và
tội, siêu và đọa, sanh và tử, để cho con cái Đức Chí Tôn khỏi lầm lạc, hầu
tránh khỏi con đường tự diệt. Đi vào con đường sanh thì nhơn loại mới mong hoà
bình được."
19- CÂY CÂN CÔNG BÌNH TRƯỚC ĐỀN
Trên plafond tại Tịnh Tâm Đài, có
vẽ một cây Cân Công Bình dưới bàn tay của Đức Thượng Đế. Khi Đức Hộ-Pháp Trấn
Thần cây Cân Công Bình, Ngài đi vào cửa Đền Thánh, đứng
ngay ngó vào Tịnh Tâm Điện, Trấn Thần cái Cân trên ngưỡng cửa. Ngài nói: “Từ
đây, cái Cân Công Bình thiêng liêng của Đức Chí Tôn đã biến tướng thiệt hiện ở
thế gian nầy để phân công chiết tội mà định phẩm vị Tòa sen cho toàn con cái
của Ngài”.
“Về mặt cân công-bình thiên-hạ gọi
là công-lý mà thế gian này chưa có công-lý, mạnh thì công-lý của họ khác, giàu
thì công-lý của họ khác, sang thì công-lý của họ khác, vinh hiển thì công-lý
của họ khác, nghèo thì công-lý của họ khác”. Con người sanh trên mặt thế nhất
nhất vật gì cũng hữu hình, tức hữu hoại, đều là giả tạm, chỉ linh hồn là thiệt
tướng, bất tiêu bất diệt, khi hồn lìa khỏi xác chỉ đem theo cái tội và phước.
Dầu chủng tôc nào cũng đồng chung một luật của tạo hoá, thì chính bàn tay thiên
của tạo hoá mới cầm cây cân công bình đặng, chớ nơi mặt thế này mắt thấy tai
nghe thì không khi nào cầm cây cân đúng lý nơi tạo hoá đặng.
20- Đức Hộ Pháp trấn Thần hai con Kim Mao Hẫu:
ở hai bên nấc thang bên hữu Đền Thánh, rồi Ngài
vào Cửu Trùng Đài sang qua bên tả Đền Thánh trấn Thần 2 con Kim Mao Hẩu ở nấc
thang luôn.
Giải: “Con Kim Mao Hẫu rất mạnh và khỏe, tượng trưng cái năng lực tinh thần người tu, nhờ nó mà qua các từng Trời và về cùng Thầy.Ngày nay, Đền Thánh cất xong, Đức Chí-Tôn cho tám con Kim Mao Hẫu xuống trần để trấn Cửu Trùng Đài và Bát Quái Đài tại thế là không cho ai dùng bạo quyền nào mà chạm đến nó”.
21-Trấn Thần Thiên Nhãn xung quanh Tổ đình:
Đức Hộ-Pháp vào bên tả
Cửu-Trùng-Đài, trấn Thần Thiên Nhãn xung quanh Tổ đình, khởi từ
giữa xuống đến Bát-Quái-Đài, rồi sang qua bên hữu, hết thảy là 23 Thiên Nhãn
ngó ra ngoài hành lang, rồi trở vào trong cửa bên hữu Cửu-Trùng-Đài, trấn Thần
tượng Tam giáo Ngũ Chi, sang bên hữu trấn Thần tượng Bát Tiên : Hớn Chung Ly, Trương Quả Lão, Tào Quốc Cựu, Lý Thiết Quả, Hàn Tương Tử, Lữ Đồng Tân,
Hà Tiên Cô, Lam Thể Hòa
22- Trấn Thần chữ KHÍ
Trở xuống, Ngài trấn Thần
chữ KHÍ. Nơi ngai của Hộ-Pháp ngự có một con rắn thần 7 đầu tức là Thất đầu
xà, quấn vào thân dưới của Ngai, ngóc lên sau lưng 3 đầu, gục xuống 4 đầu. Cái
mình quấn ngôi Thượng Phẩm, cái đuôi quấn ngôi Thượng Sanh. Thất đầu xà tượng
trưng con người có Thất tình: Ba đầu rắn ngó lên sau lưng Hộ Pháp ba tình: Hỷ,
Ái, Lạc. Người tu nên luyện tập nâng đỡ ba tình này tức là Mừng, Vui,
Thương. Còn 4 tình: Ai, Nộ, Ố, Dục, thì đè nén
xuống, đừng cho ngóc đầu lên.
Khi Đức Hộ-Pháp trấn pháp, hành
Bí-pháp cùng Thể-pháp các Đàn Vía Sóc Vọng: Ngài đứng là Chuyển Pháp, Ngài ngồi
là Trụ Pháp; nên khi Ngài ngồi, hai chân đạp lên hai đầu: Ai tả, Nộ hữu;
Hai tay đè: Dục tả, Ố hữu.
Đức Ngài nói:
“Khi Hộ Pháp trấn trên Thất đầu
xà là đè nén các vật dục ở thế nầy gom lại để đời khỏi cấu xé nhau, để Mừng,
Vui, Thương cho mọi người chung hưởng, để gìn giữ đạo đức, tu hành dễ dàng,
nước nhà thạnh trị. E sau nầy Hộ-Pháp xuất ngoại, Thượng-Sanh về ngự nơi đuôi, thì
tự do Thất tình lôi cuốn cấu xé lẫn nhau, không phương kềm chế. Ấy là cơ thử
thách nội và ngoại…Ngày nào Hộ Pháp trấn lại trên Ngai thì mới có thể dễ dàng
mọi việc cho Đời Đạo. Quyền thiêng-liêng phải vậy, đặng vay trả cho sạch oan
khiên, mới đem thuần phong mỹ tục, vãn hồi hòa bình trật tự, tháng Thuấn ngày
Nghiêu, trở nên
Thượng cổ” .
Còn chữ KHÍ ở sau ngai Hộ Pháp là:
“Khí Sanh Quang của Càn Khôn Vũ
Trụ. Vạn vật nhờ Khí Sanh Quang hiện tượng ra mặt thế để bảo tồn Cơ Sanh hóa
hay Tấn hóa của toàn thể vạn loại, tức là hữu sanh.”
Đã xong Lễ Trấn Thần, Đức Phạm Hộ
Pháp đứng giữa Đền Thánh, thì Cô Lễ Sanh Hương-Tranh hỏi: Bạch Thầy, còn 23
Thiên Nhãn ngó vào trong Đền Thánh, sao Thầy không trấn Thần luôn ? Ngài dạy
rằng:
“Thiên Nhãn bên ngoài thì để cho
thiện nam tín nữ quì ở ngoài, khi chầu lễ nếu chật chỗ thì ở ngoài, xung quanh
Đền Thánh lạy vào chiêm bái trong giờ hành lễ. Đó cũng là nêu ra từ Đông, Tây,
Nam, Bắc, dầu ven trời góc bể, nơi nào đến giờ lễ bái, day về hướng Đền Thánh
lạy thì đều có Thiên Nhãn cả. Ấy là Thể pháp tượng trưng Bí pháp. Còn Thiên
Nhãn ở vách ngó vô Đền-Thánh, vì người Đạo quì ngang, sợ ô uế, không coi sóc
cho tinh khiết được”
V- Đền Thánh Cao Đài dưới mắt
V- Đền Thánh Cao Đài dưới mắt
người Công Giáo:
CHỐN SƠN LÂM 山 林
(Sơn là núi, Lâm là
rừng). Chốn sơn lâm là chốn rừng núi. Chữ Sơn Lâm ở đây ý nói là những biểu
tượng chứng tỏ rằng nơi đây có rừng lẫn có núi. Thực tế thì Tòa Thánh Tây Ninh
trước kia là khu rừng Cấm, khi người Pháp sang đô hộ Việt Nam thì họ chiếm cứ cả đất
đai, sông núi làm tư hữu. Khi Hội Thánh Cao-Đài được lịnh Đức Lý dạy đi tìm đất
cất Thánh Thất thì tìm đến khu rừng này và mua lại của người Pháp tên Aspar.
Tòa Thánh được tọa lạc trên vùng đất 96 mẫu do Bà Lâm Hương Thanh và Ông Nguyễn
Ngọc Thơ xuất tiền ra mua. Người có công bứng gốc phá rừng làm nên các Đền Điện
và Dinh thự nguy nga như ngày nay đều do bàn tay khởi xướng của Đức Thượng Phẩm
Cao Quỳnh Cư. Theo bản đồ chỉ vẽ của Đức Lý thì hình dáng Đền Thánh có dạng chữ
SƠN, nghĩa là nhìn vào mặt tiền Đền Thánh hai lầu chuông và trống là hai ngạnh,
hiệp với lầu Nghinh Phong Đài, thành ra chữ SƠN 山 thứ nhất. Hai
ngạnh này hiệp với lầu Bát Quái Đài thành chữ Sơn thứ hai..và tiếp tục thì Đền
Thánh này có đến 7 chữ Sơn, nên còn gọi là THẤT SƠN. Như thế nơi đây là Thất
Sơn vô vi, đối lại châu Đốc là Thất Sơn hữu hình. Lại nữa nơi đây có chừa ra
hai khu rừng nhỏ, hai bên mặt tiền của Đền tượng chữ LÂM. Khi ghép lại thành
chữ SƠN LÂM.山 林. Đền Thánh được cất theo kiểu vở trên Thiên đình chính là Tòa
Bạch-Ngọc-Kinh tại thế.
Cảnh “Sơn Lâm“ là Tòa Thánh Cao Đài
Tòa Thánh
Tây Ninh, dưới mắt người Công Giáo
nhìn ra nơi Chúa đến và ngự trong nguơn hội này.
Đây muốn nói nơi Tòa Thánh này đủ ý
nghĩa của SƠN LÂM trong tinh thần đạo pháp của Cao-Đài có liên hệ qua lời tiên
tri của Chúa Cứu thế. Lời Bà Nữ Đầu sư Hương Hiếu kể lại rằng: Sau ngày Đền
Thánh được Khánh Thành (1955) ít lâu thì có một vị Linh Mục người Tây Phương, có
bằng Tiến sĩ Thần học, biết 6 thứ tiếng trên thế giới, lại biết nói và viết
rành tiếng Việt và Trung
hoa, nhưng Bà lại quên tên vị Linh Mục này. Khi Linh mục viếng, quan sát
bên ngoài lẫn bên trong Đền, xong rồi Ông ra ngoài- bên hông Đền Thánh- đoạn
quì xuống lạy vô Đền (lạy và quì theo kiểu người Công giáo). Có người Đạo thấy
vậy mới đến mời ông vào lạy bên trong Đền, trước Bửu Điện mới đúng qui cách Cao
Đài.
Vị Linh Mục trả lời: “Tôi lạy đây
là lạy chỗ Cha ta đến. Rồi lát nữa tôi vào bên trong Đền Thánh mà lạy nơi Cha
ta ngự”.
Người kia nói: Xin ông nói thêm cho
rõ.
Vị Linh Mục tiếp: Trong Thánh Kinh
Tân ước nói Đức Chúa Jésus-Christ có tiên tri “Trong 2.000 năm, Cha ta
sẽ đến các ngươi một lần nữa, chỗ Cha ta đến là SƠN LÂM, xung quanh nhiều CON
MẮT. Các ngươi muốn thấy Cha ta, đầu óc các ngươi phải minh mẫn và sáng suốt,
tâm hồn các người phải có lòng Thành khẩn và Tín ngưỡng hiệp lại mới thấy Cha
ta”. Từ lâu đã có nhiều người đi tìm chỗ Cha ta đến, họ lên Hy-Mã-Lạp-Sơn,
lên non cao rừng thẵm mà tìm không thấy; còn nơi Cha ta ngự là một “con
vật linh động”, xung quanh có nhiều CON MẮT”. Nghĩ rằng phải
tìm ra con quái vật, nên họ bỏ luôn không đi tìm nữa. Ngày nay thì tôi đã tìm
thấy “chỗ Cha Ta đến” rồi. Chỗ Cha ta đến là Đền Thánh đây, còn nơi Cha ta ngự
là bên trong Đền Thánh tại Quả Càn Khôn. Ông nói xong, ngồi xuống lấy một cái
que vạch lên đất: vừa gạch vừa giải thích: Đền Thánh là một nét dài ở giữa,
Đông lang và Tây lang là nét ngắn hai bên, Hậu điện là một nét ngang sau cùng
làm thành chữ SƠN 山 (Sơn là núi). Hai đám rừng thiên nhiên trước Đền Thánh là
chữ LÂM 林 Tức nhiên mỗi một chữ MỘC 木 là cây tượng cho một khu rừng, hai chữ đứng ngang nhau thành chữ Lâm là
thế. Như vậy tôi đã tìm thấy chỗ Cha ta đến là Đền Thánh, còn “bên trong là chỗ
Cha ta ngự”. Đền Thánh nếu nhìn ngang giống như Con Long Mã quì, nhưng nếu nhìn
từ phía trước nhìn tới, thì thấy con Long Mã đang múa (Rõ là con vật linh
động). Xung quanh có nhiều CON MẮT tức nhiên là chung quanh Đền theo những ô
cửa sổ có trang trí hình Con Mắt tức là THIÊN NHÃN THẦY vậy. Vị Linh Mục nói
tiếp: Đền Thánh là cái mình Con Long Mã: Hiệp Thiên Đài có lầu chuông và lầu
trống cao vút lên là hai caí sừng của Long Mã. Nghinh Phong Đài nơi phần trên
của Cửu Trùng Đài: ở giữa có Quả địa cầu, trên quả Địa cầu có hình Long Mã chạy
từ Đông sang Tây mang Hàm Ấn (Lạc Thư- Hà Đồ) mà con Long Mã mang trên lưng gọi
là LONG MÃ PHỤ HÀ ĐỒ. Trên nóc Bát Quái-Đài có một cái lầu 8 góc (Bát giác).
Trên nóc Bát Quái Đài là ba vị Phật ngự tượng cái đuôi của Long Mã. Nóc Đền
Thánh giả lợp bằng ngói móc (ngói vảy cá) tượng vảy của con Long Mã. Xung quanh
Đền Thánh có nhiều Thiên Nhãn tức là “Con vật linh động xung quanh có nhiều Con
Mắt”. Đền Thánh nhìn ngang sẽ thấy dáng Long mã đang quì, đầu thấp, mông cao.
Nếu nhìn từ phía trước, như thấy Long Mã đang múa, miệng hả ra (đây là một sự
hình dung, tưởng tượng, chứ Đền Thánh vẫn là bằng xi măng và vôi cát) điều ấy
ứng vào câu của Chúa nói: “Các ngươi muốn thấy Cha ta, đầu óc các ngươi phải
minh mẫn và sáng suốt, tâm hồn các người phải có lòng Thành khẩn và Tín ngưỡng
hiệp lại mới thấy cha ta. Đền Thánh nhìn từ phía trước: Trước là Hiệp Thiên Đài
có lầu chuông, lầu trống là cặp sừng của Long Mã. Đền Thánh chỉ có một cửa vào
là miệng của Long Mã (khác với nhà thờ hay chùa chiền thì có ba cửa vào). Trên
có bao-lơn là hàm trên của Long mã, dưới có 5 bậc thềm là hàm dưới của Long Mã
có râu. Hai chữ NHƠN NGHĨA trên đầu có hai câu Liễn là cặp mắt của Long Mã. Đức
Phật Di-Lạc ngồi trên nóc Hiệp-Thiên-Đài là cái đầu con Long Mã. Vào bên trong
Đền Thánh, muốn đến Bát-Quái Đài phải qua Hiệp Thiên Đài (nơi Hiệp-Thiên-Đài có
ngai với Thất đầu Xà của Hộ-Pháp là Bí pháp luyện Đạo của Đạo Cao-Đài). Qua
Hiệp-Thiên-Đài rồi, phải đi lên 9 cấp của Cửu Trùng Đài là Cửu phẩm Thần Tiên
mới đến Bát Quái-Đài. Trong Bát-Quái-Đài có Quả Càn Khôn, trên Quả Càn Khôn thờ
Thiên Nhãn, tượng trưng ngôi thờ Đức Chí-Tôn, chính là Đức Chúa Cha, hay là Đức
Chúa Trời mà người Công Giáo quan niệm. Đức Thượng đế cho biết đây là “Nhãn thị
chủ Tâm, Lưỡng quang chủ tể, Quang thị Thần, Thần thị Thiên, Thiên giả ngã dã”.
Cũng có câu Hoàng Thiên hữu Thần. Đức Chí-Tôn là Đấng vô hình, thế nên dưới mắt
nhiều nhà Tôn giáo, tùy theo suy luận mà tạo nên nhiều biểu tượng khác nhau để
mà thờ phượng, ví như thờ Thần Mặt Trời là ngôi Thượng đế, có nơi thờ bằng tấm
vải điều cũng có ý nghĩa Trời. Vị Linh Mục nói tiếp: Đạo Công giáo, Đức Chúa
Jésus Christ chỉ vào trái Tim của Ngài mà nói: các ngươi hãy thờ Lương tâm của
các ngươi, mà thờ Lương tâm tức là thờ Đức tin, mà thờ Đức tin tức là thờ Đức
Chúa Trời đó vậy. Đạo Cao Đài lấy CON MẮT làm biểu tượng thờ Lương tâm. Đạo
Công Giáo lấy quả tim làm biểu tượng thờ Lương tâm chỉ là MỘT. Như vậy
Bát-Quái-Đài trong Đền Thánh là nơi Cha Ta ngự, không còn chỗ nào khác. Vị Linh
Mục ấy giải thích xong rồi nói: Tôi sẽ thông báo cho toàn nhân loại trên Quả
Địa cầu này biết rằng: Tôi đã tìm thấy “CHỖ CHA TA ĐẾN VÀ NƠI CHA TA NGỰ” như
lời tiên tri của Đức Chúa Jésus Christ trong Thánh Kinh Tân Ước của Công giáo:
là Đền Thánh của Đạo Cao Đài là TÒA THÁNH TÂY NINH.
B- Đền Thánh Cao Đài dưới mắt vị
Thượng Tọa Phật Giáo Đại Hàn
Năm 1965, có nhiều lực lượng Quân
sự ngoại quốc tham chiến tại Việt Nam , trong số đó có Quân
đội Đại Hàn. Số người này có Thượng Tọa Phát
Hồng Châu (Pack-Hong-Shu) là Thiếu Tá Tuyên-úy Phật Giáo của Quân đội Đại Hàn.
Ông Thượng Tọa Phát Hồng Châu đến Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh, xin ở lại một đêm
trong Đền Thánh để tìm hiểu huyền vi mầu nhiệm của nền Đại Đạo như thế nào, vì
ông đã đắc Lục thông, nghĩa là ông có thể thấy xa và nhìn rộng ngoài cảnh giới
của mắt thường thấy được. Theo lời của Thượng Tọa Phát Hồng Châu kể lại thì Sư
Phụ của ông là một vị Hòa Thượng đã đắc Đạo, trước khi viên tịch đã nói với ông
rằng: Ở Việt Nam có một nền Tôn giáo mới, Đạo đó thờ MỘT CON MẮT trong khuôn
hình Tam giác đứng, đó là Đạo của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế lập ra, Đạo đó mới
là đạo Chánh, Đạo đó mới có đủ quyền năng độ rỗi về phần xác và phần hồn cho cả
chúng sanh. Con phải tìm đến nơi đó mà nhập môn vào cửa Đạo. Sau khi Sư Phụ của
ông viên tịch, ông được lên thay thế làm Chủ một ngôi chùa lớn tại Thủ đô Hán
Thành. Nay ông tình nguyện vào Quân đội Đại Hàn làm Thiếu Tá tuyên úy Phật giáo
là cốt yếu qua Việt Nam tìm đến nền Tôn giáo Thờ “MỘT CON MẮT” trong khuôn hình
Tam giác đứng. Thượng Tọa Phát Hồng Châu (Pack-Hong-Shu) được Hội Thánh cho
phép ở lại một đêm (ông ngồi Thiền). Thời điểm này Đức Thượng Sanh đang cầm
quyền Hội Thánh. Sáng ra Thượng Tọa Phát Hồng Châu (Pack-Hong-Shu) nói: Quả
thật Đền Thánh có nhiều huyền vi mầu nhiệm không thể diễn tả bằng lời. Tôi chỉ
có thể nói được một điều là: dưới độ sâu của Đền Thánh chừng 300 thước có sáu
nguồn nước đoanh lại, mà thượng nguồn phát sanh từ Trung Quốc, cuối nguồn đưa
lên Núi Bà Đen (chỗ nền Vạn Pháp Cung). Sáu nguồn nước này là Linh huyệt LỤC
LONG PHÒ ẤN (Trùng hợp với lời của Bác vật Lang) Đền Thánh được ấn trên huyệt
này, về sau Đền Thánh sẽ linh thiêng và mầu nhiệm vì: Tất cả hồn thiêng sông
núi của Trung Quốc sẽ chảy về đây: Những tinh hoa của dân tộc, những mầu nhiệm
thiêng liêng của Trung Quốc đã có từ trước sẽ qui tụ về đây. Những tài năng về
nhân lực, những phong phú về vật lực, những sáng tạo về trí lực sẽ qui tụ về
đây (ứng vào câu Thánh Ngôn của Đức Chí-Tôn:
“Một
nước nhỏ nhoi trong Vạn quốc,
“Mà sau
làm CHỦ mới là kỳ”
Chính người Trung hoa họ cũng
biết trước như vậy, nên đã cho người (các Thầy địa lý) qua Việt Nam để ếm những
linh huyệt này (dùng bùa Lỗ Ban) nhưng họ đã không biết đến linh huyệt “Lục
long phò ấn” ở Tòa Thánh Tây Ninh (vì lúc đó nơi đây là khu rừng Cấm). Tuy
nhiên họ cũng ếm được một linh huyệt xuất Vương, xuất Tướng tại Mỹ Tho (núi Lan
gần Thánh Thất Khổ Hiền Trang) Việc này nhờ Bát Nương mách bảo và nhờ Tổ Sư Lỗ
Ban giáng Cơ chỉ dẫn. Đức Hộ-Pháp đã giải ếm được huyệt này và lấy được LONG
TUYỀN KIẾM. Thượng Tọa Phát Hồng Châu (Pack-Hong-Shu) hứa rằng: Ngày nào Đạo
Cao-Đài truyền qua Đại Hàn, Ông sẽ hiến một ngôi Chùa lớn của ông tại Thủ đô
Hán Thành để làm Thánh Thất Cao Đài và sẽ khuyên tín đồ Phật Giáo của Ông vào
Đạo Cao Đài hết. Trước khi về nước Thượng Tọa Phát Hồng Châu (Pack-Hong-Shu)
đến Thánh Thất Đô thành (891 Trần Hưng Đạo) nhập môn rồi mới về nước.