Nội ô Tòa Thánh có diện
tích độ 100 mẫu, bao bọc bởi 4000m hàng rào xây bằng gạch có trang trí hoa văn.
Đường vào Nội Ô có 12 cổng, các cổng đều xây dựng kiểu Tam quan, đắp chạm hình
Tứ linh (Long, Lân, Qui, Phụng) và hoa sen. Cổng chính cao và rộng hơn các cửa
khác, đắp lưỡng long tranh châu, hoa sen, cùng ba cổ pháp: quyển sách Xuân thu,
bình Bát vu và Phất trần. (hình 1)
Bình Bát Vu là bình đựng
thực phẩm của tăng ni Phật giáo dùng khất thực
Phất Chủ là cây phất trần,
dùng quét sạch bụi trần che lấp Tâm để ngộ Đạo. Đó là bửu bối của Đức Thái
Thượng Lão Quân, tượng trưng Tiên giáo.
Xuân Thu là tên quyển sách
sử do Đức Khổng Tử sáng tác, nêu lên quan điểm về thuyết Chính danh, Nhất quán,
Trung dung, Đại đồng. Sách Xuân Thu được chọn làm cổ pháp cho Nho giáo.
Đạo Cao Đài chọn ba cổ
pháp trên để nói lên sự đồng nguyên của Phật giáo, Tiên giáo, Nho giáo trong
nền Đại đạo.
Từ Chánh môn có con đường
dẫn thẳng hướng Đông tới Đền Thánh.
Nơi Chánh môn có đắp đôi
câu liễn nói lên tôn chỉ của Đạo:
Câu liễn
I Câu liễn II
高
"Cao 臺
"Đài
上
Thượng 前
Tiền
至
Chí 崇
Sùng
尊
Tôn 拜 Bái
大
Đại 三 Tam
道
Đạo 期 Kỳ
和
Hòa 共 Cọng
平
Bình 享 Hưởng
民
Dân 自 Tự
主
Chủ 由 Do
目
Mục." 權
Quyền". [2]
Đôi
liễn này thường được chạm khắc nơi các cổng Tam quan đi vào nội ô Tòa Thánh,
hay các cổng chánh của các Thánh Thất ở khắp mọi nơi.
Nguyên trước đây câu liễn một
(1) chữ chót là CHÁNH, đối với chữ QUYỀN của câu
liễn hai (2).
Ý nghĩa:
Đấng Chí Tôn ở trên cao
hơn hết, mở ra một nền Đạo lớn hòa hợp và bình đẳng hướng tới dân chủ.
Kính phục tôn thờ Đấng Cao
Đài, thời kỳ ân xá lần ba cùng chung hưởng quyền tự do.
Từ Chánh môn đến Đền
Thánh, trước tiên ta thấy có ba bảo tháp để chứa nhục thể của Đức Hộ Pháp (ở
giữa), Đức Thượng Phẩm và Đức Thượng Sanh. Các Tháp được xây đắp, chạm trổ nhiều
hoạ tiết tinh vi và có hình Bát quái.
Qua khỏi các tháp là sân
Đại Đồng Xã có tượng Thái tử Siddharta cưỡi ngựa tìm Đạo, theo sau là Channa,
người hầu cận. Kế đến là Cửu Trùng Thiên, hình bát quái có 9 bậc và được sơn ba
màu vàng, xanh, đỏ. Gần đó là cây bồ đề cổ thụ do Đại Đức Thera Narada tặng cây
con lấy từ Bồ đề đạo tràng bên Ấn độ (1953). Chính nơi Bồ Đề đạo tràng, Thái tử
Siddharta đã tham thiền nhập định và trở thành Đấng Giác Ngộ, Đức Phật Thích Ca
(hình 2).
Hai bên Đại đồng xã có hai
khán đài với 2 con đường dẫn đến Đền Thánh. Cách cội bồ đề vài thước có cột
phướn với lá phướn phất phới bay trong gió. Cột phướn cao độ 18m, lá phướn dài
12m và rộng 1,2m. Phía trên màu vàng thêu hai con rồng chầu mặt trời. Thân
phướn có ba sọc vàng, xanh, đỏ. Ở giữa vùng xanh có hình Thiên Nhãn, Cổ Pháp
Tam giáo và sáu chữ ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ bằng Hán tự .
Sân gạch có cột phướn và
cây Bồ đề được gọi là Đại Đồng Xã. Cái tên nói lên tính nhân bản chia xẻ cùng
nhau, và tinh thần đại đồng để có thể chung sống hòa bình.
I. Sự Kiện Xây Dựng Đền Thánh
Sử Đạo ghi nhận các sự
kiện về nguồn gốc thành lập Toà Thánh như sau:
7-10-1926, Quý vị khai
sáng Đạo gửi Tuyên ngôn Khai Đạo đến Thống đốc Nam Kỳ Le Fol thông báo mở Đạo
Cao Đài.
19-11-1926 ( Rằm tháng 10
Bính Dần ), Quý vị tiền khai mượn Chùa Gò Kén (Từ Lâm Tự) tỉnh Tây Ninh, do Hoà
Thượng Như Nhãn trụ trì, tổ chức đại lễ “Khai Minh Đại Đạo” trọng thể, kéo dài
suốt mấy ngày với hàng vạn tín đồ.
Mấy tháng sau, chùa bị đòi
lại nên Đức Lý Giáo Tông dạy quý ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Nguyễn Ngọc
Thơ, Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang đi tìm đất để cất. Chọn mua được 100 mẫu
rừng cấm. Về phong thủy, khu rừng này có địa thế rất tốt vì sâu dưới lòng đất
có 6 mạch nước tụ lại gọi là Lục Long phò ấn.
Từ tháng Giêng năm Đinh
Mão (1927), Đức Chí Tôn và Đức Lý Giáo
Tông đã dạy tất cả chi tiết, kích thước trong họa đồ, nhưng vì tín đồ còn ít và
quá nghèo nên một Tòa Thánh tạm được cất lên đơn sơ.
1931 đào móng, làm nền,
đào hầm Bát Quái Đài. Ngài Thái Thơ Thanh trông coi.
1933 Đức Quyền Giáo Tông
Thượng Trung Nhựt và Nữ Đầu Sư Hương Thanh tiếp nối công trình được thời gian
ngắn rồi ngưng lại.
13-10 Giáp Tuất (1934),
Đức Quyền Giáo Tông mất.
1935 cất lầu Hiệp Thiên
Đài, đúc cột, đổ tấm trần. Ngài Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh trông coi.
Sau khi Đức Quyền Giáo
Tông đã đăng tiên, Đức Hộ Pháp được giao nắm quyền chưởng quản cả hai Hội Thánh
Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài và lập kế hoạch xây cất thành công Tòa Thánh.
Ngài huy động được 500
người làm công quả. Tất cả đều lập nguyện trường chay và không lập gia đình để
có đủ tinh khiết trong thời gian công quả xây dựng Đền Thánh. Tiến hành liên
tục trong suốt bốn năm rưỡi thì chánh quyền Pháp khủng bố, bắt Đức Hộ Pháp đày
đi Madagascar ở Phi Châu.
Đến 30-8-1946, Đức Hộ Pháp
mới được trở về. Ngài huy động số người làm công quả trở lại tiếp tục công
trình.
27-1-1947, Đức Hộ Pháp làm
Lễ Trấn Thần Tòa Thánh
29-1-1947 (8-1- Đinh Hợi), tổ chức Lễ An vị Quả Càn Khôn
1-2-1955 (9-1-Ất Mùi),
nhân ngày Vía Đức Chí Tôn, Đại lễ khánh thành Toà Thánh được tổ chức vô cùng
trọng thể.
Tín đồ Cao Đài rất hãnh
diện có được Ngôi Tòa Thánh đồ sộ, nguy nga, tráng lệ do Thiên Ý hợp cùng Nhơn
lực tạo nên, tiêu biểu cho nền Đại Đạo với tôn chỉ: Quy nguyên tam giáo, phục
nhứt ngũ chi.
II. Kích Thước.
1 . Theo qui định thiết kế
Nền cao 1.8 m , rộng 27m, dài 135m
Hiệp Thiên Đài dài 27m, có
lầu chuông, và lầu trống cao 36m
Cửu Trùng Đài dài 81m, có
tháp tròn ở giữa gọi là Nghinh Phong Đài cao 25m
Bát Quái Đài dài 27m. tháp
cao 30m
2 . Theo thực tế:
Vì tín đồ lúc đó còn
nghèo, Hội Thánh gặp khó khăn về tiền bạc nên khi thi công đã thu bớt lại kích
thước trên. Số đo thực tế chỉ còn có: chiều rộng 22m, dài 97.5m, trong đó:
Hiệp Thiên Đài dài 13.5m
Cửu Trùng Đài dài 63m
Bát Quái Đài dài 21m
III. Mô Tả Và Ý Nghĩa Cấu
Trúc.
A. Tổng Quát
Nhìn tổng thể Toà Thánh
Cao Đài Tây Ninh, người ta thấy Tòa Thánh mang hình tượng Long Mã bái sư. Long
Mã là con vật linh huyền thoại mang Hà đồ trên mình, gợi ý cho vua Phục Hy vẽ
nên Bát Quái Tiên Thiên.
- Đầu Long Mã là mặt tiền
nhìn thẳng về phía Tây. Hai lầu chuông và trống vươn lên như hai sừng nhọn. Nằm
giữa hai lầu chuông trống là toà nhà lầu với tầng trệt (TỊNH TÂM ĐÀI) như miệng
Long Mã hả ra.
Tầng hai (Phi Tưởng Đài)
như cái trán với 2 cửa được coi như hai con mắt. Giữa là mắt Huệ (Thiên Nhãn).
Trên cao có tượng Đức Di Lặc ngồi trên lưng cọp và tòa sen.(hình 4)
- Đuôi Long Mã là Bát Quái
Đài hướng thẳng phía Đông
- Thân Long Mã là phần ở
giữa Đền (CỬU TRÙNG ĐÀI) chia thành 9 gian cao dần từ phía trước ra sau, nối
liền Hiệp Thiên Đài với Bát Quái Đài.
B. Mặt Trước Đền Thánh.
Tổng thể Đền Thánh rất
nguy nga tráng lệ, chiều dài 97,5 mét, và chiều ngang 22 mét. Mặt tiền day về
hướng Tây. Bên trái là Lầu chuông được gọi là Bạch Ngọc Chung Đài, bên phải là
Lầu trống có tên là Lôi Âm Cổ Đài. Cả hai lầu đều cao 27 mét, có 6 tầng với
chiều cao khác nhau, có mái ngắn phân chia các tầng.
Tầng trệt (tầng một) của
hai tháp có hai khuôn bông lớn hình chữ nhật, ở giữa có hai chữ Nho: CAO bên
lầu trống và ĐÀI bên lầu chuông. Bên trên khuôn bông này là 4 ô hình tròn có
gắn chữ Nho : BẠCH NGỌC CHUNG ĐÀI và LÔI ÂM CỔ ĐÀI.(hình 5 và 6 )
Tầng hai của lầu chuông có
đắp tượng Đức Quyền Giáo Tông mặc Đạo phục đứng trên quả địa cầu, tay mặt cầm
quyền Thiên Thơ. Tầng hai của lầu trống đắp tượng Bà Nữ Đầu Sư Hương Thanh mặc
đạo phục đứng trên quả địa cầu, tay phải cầm nhánh bông, tay trái xách giỏ hoa.
Đây là hai vị chức sắc lớn có kỳ công khai mở Đạo và xây dựng Đền Thánh.
Tầng ba có chiều cao nhỏ
hơn, có gắn hai bông gió để thông hơi.
Tầng bốn có chiều cao lớn
nhất để bên trong đặt một cái trống lớn gọi là Lôi Âm Cổ bên lầu trống và một cái chuông lớn gọi là
Bạch Ngọc Chung bên lầu chuông.
Trên đỉnh lầu chuông, dưới
ngọn thu lôi có tạc tượng cái hồ lô. Đó là bửu pháp của Đại Tiên Lý Thiết Quả,
tiền kiếp của Đức Quyền Giáo Tông.
Trên đỉnh lầu trống có tạc
hình giỏ hoa lam là bửu pháp của Long Nữ (thị giả của Đức Quan Thế Âm). Vị nầy
vốn là ngươn linh của bà Đầu Sư Lâm Hương Thanh.
Ngay cửa chính, phía trước
có đúc 4 cột trụ, mỗi bên có hai cột song song, một đắp hình rồng đỏ (LONG),
một đắp hình hoa sen (HOA), chạm trổ rất tinh vi, màu sắc rực rỡ, tượng trưng
cho hai chữ Long Hoa. ( hình 7 )
Đại hội Long Hoa là một
cuộc thi tuyển sau một Chuyển học hỏi và tiến hóa của nhân loại. Đại hội do Đức
Di Lặc làm chưởng quản. Những người được chấm đậu trong kỳ thi công đức thăng
phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật. Những người có công đức chưa đủ sẽ sống sót
trở thành giống dân mới lập đời Thượng Nguơn Thánh Đức. Còn những người không
đậu phải chờ đợi lớp thú cầm tiến hóa lên làm người mới nhập vào cùng chung
sống, bắt đầu một chu trình tiến hóa mới. Sự chờ đợi ấy có thể kéo dài cả triệu năm. Trước ngày khai Đại hội Long
Hoa sẽ có cuộc phán xét cuối cùng. Sau cuộc biến động dữ dội đó, Địa cầu trở
lại yên tĩnh.
Để vào Đền Thánh, người ta
phải bước qua năm bậc thềm. Năm bậc
tượng trưng cho Ngũ Chi Đại Đạo và năm bước tiến hóa của nhân loại:
Người, Thần, Thánh, Tiên, Phật. Sau khi bước qua, ngước mắt nhìn ngay giữa ta
thấy Cân Công Bình, cân tội phước từng con người, từng quốc gia...
Nhìn sang bên phải là
tượng ông Thiện, mình mặc giáp, đầu đội kim khôi, tay cầm đại đao nhưng gương
mặt hiền từ, tượng trưng cho điều thiện (chánh tâm). Bên trái là tượng ông Ác,
cũng mặc khôi giáp, nhưng gương mặt dữ dằn, một tay cầm búa, một tay cầm Ngọc
ấn tỷ phù, tượng trưng cho điều Ác (vọng tâm).
Phía trên 4 cột rồng có
một bao lơn xây hình bán nguyệt, đó là Lao Động Đài, đắp hình tượng 8 nghề
trong xã hội: Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục với ý nghĩa: dù ở
đâu, làm nghề gì, sau khi mất linh hồn cũng về Toà Thánh để được định tội phước
Lá cờ Đạo được treo ngay
giữa bao lơn (hình 8). Cờ Đạo Cao Đài có ba màu: vàng ở trên, xanh ở giữa, đỏ ở
cuối:
- Phần màu vàng có thêu
sáu chữ bằng Hán tự:
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
- Phần màu xanh thêu hình
Thiên Nhãn và Cổ Pháp Tam Giáo (sách Xuân Thu, cây Phất Chủ, bình Bát Vu)
Chính giữa hai lầu chuông
trống là tượng Thiên Nhãn, tượng trưng Đấng Thượng Đế toàn năng, hằng hửu. Hai
bên Thiên Nhãn có đắp 2 câu đối chữ Hán.
"HIỆP NHẬP CAO ĐÀI BÁ
TÁNH THẬP PHƯƠNG QUI CHÁNH QUẢ."
"THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO
NGŨ CHI TAM GIÁO HỘI LONG HOA."
Ý nghĩa:
Hiệp vào Cao Đài, trăm họ
mười phương sùng Chánh giáo.
Trời khai Đạo lớn, năm
nhánh ba giáo hội Long Hoa.
Trên hai câu đối nầy có
hai chữ nho, bên phải là chữ Nhân, bên trái là chữ Nghĩa. Đó là một trong những
triết lý của Đạo Cao Đài phát huy:
"NHƠN BỐ TỨ PHƯƠNG
ĐẠI ĐAO DĨ NHƠN HƯNG XÃ TẮC."
"NGHĨA BAN VẠN ĐẠI
TAM KỲ TRỌNG NGHĨA CHẤN SƠN HÀ"
Ý nghĩa:
Lòng nhơn đem rải khắp bốn
phương, đạo Cao đài lấy lòng nhơn làm hưng thịnh nước nhà.
Điều nghĩa ban cho muôn
đời, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ xem trọng điều nghĩa để làm rạng danh nước nhà.
Trên hai chữ Nhân Nghĩa có
một hàng chữ Hán và một hàng chữ Việt đều viết : Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Phía trên, ngay giữa hàng
chữ nầy có Cổ Pháp Tam giáo là Bình Bát Vu (Phật), Phất chủ (Tiên) và quyển
Xuân Thu (Thánh).Phía trong của tầng lầu hai
Hiệp Thiên Đài có tên Tiêu Diêu Điện.Chính nơi đây,các vị chức sắc Đại
Thiên Phong xin thông công với các Đấng Thiêng Liêng bằng phương pháp Thần cơ
diệu bút.
Trên nóc Tiêu Diêu Điện có
tượng Phật Di Lặc (Maitreya) ngồi trên lưng cọp để kỷ niệm năm Bính Dần khai
Đạo. Ngài còn có tên là Từ Thị, Đấng Từ ái. Ngài đang giáo hóa tại cung trời
Đâu Suất và sẽ là vị Phật tương lai xuất hiện ở thế gian theo lời Đức Phật
Thích Ca đã thọ ký. Tương truyền rằng chính một ứng thân Bồ Tát của Đức Ngài
khởi xướng trường phái Duy thức tông hay Duy Tâm Tông vào đầu thế kỷ thứ tư.
Tranh vẽ Đức Di Lặc của Trung Quốc thường có biểu tượng là một vị mập tròn, vui
vẻ với các trẻ em xung quanh. Đó là hình ảnh của Bố Đại Hòa thượng, một hóa
thân của Di Lặc ở thế kỷ thứ 10. Tranh ở vùng Bắc Ấn và Tây Tạng thường vẽ Ngài
với tay bắt ấn chuyển pháp luân, có nghĩa rằng khi xuất hiện trên thế gian,
Ngài sẽ quay bánh xe Pháp một lần nữa để cứu độ tất cả chúng sinh. Mặt khác,
theo Thánh giáo, Đức Chí Tôn lập Đạo và đưa nhơn loại đến Hội Long Hoa do chính
Đức Di Lặc làm Chánh chủ khảo tuyển chọn
và truyền giảng Lý HÒA ĐỒNG – BÁC ÁI tạo
đời Thượng ngươn Thánh đức.
Bước lên năm bậc thềm là
ta đã bước vào TỊNH TÂM ĐIỆN, nơi để chức sắc và tín đồ ngồi tịnh tâm và định
thần giữ lòng thanh tịnh trước khi vào chầu Lễ. Trước mặt ta là tượng Tam
Thánh. Tam Thánh là ba vị Thánh ở Bạch Vân Động nơi cõi Thiêng liêng (hình 9 ).
Đó là :
- Đức Thanh Sơn Chơn nhơn mà trong kiếp giáng
trần ở Việt Nam có tên Nguyễn Bỉnh Khiêm (Trạng Trình). Ngài cầm bút lông viết
tám chữ Nho :
THIÊN THƯỢNG, THIÊN HẠ-BÁC
ÁI, CÔNG BÌNH
- Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn
mà trong kiếp giáng trần ở nước Pháp là Đại văn hào Victor Hugo. Ngài cầm bút
lông ngỗng viết các chữ Pháp :
DIEU ET HUMANITÉ – AMOUR ET JUSTICE
- Đức Trung Sơn Chơn nhơn
mà trong kiếp giáng trần ở Trung Hoa, Ngài là nhà cách mạng có tên là Tôn Văn,
Tôn Dật Tiên (Sun Yat Sen) đã lập nên nền dân chủ. Ngài cầm nghiên mực tỏa hào
quang, tượng trưng dung hòa văn hóa Đông Tây đặt trên nền tảng triết lý tối cổ
của Nho giáo.
Ba vị Thánh này thay mặt
nhơn loại ký bản hoà ước giữa Trời và
Người gọi là Thiên Nhơn hòa ước. Hòa ước này rất đơn giản, chỉ có bốn chữ :
BÁC ÁI – CÔNG BÌNH THƯƠNG
YÊU và CÔNG CHÁNH, là hai điều Thượng đế yêu cầu con người thực hiện để được
cứu rỗi. Nếu con người không thực hiện mà làm ngược lại thì sẽ bị đọa, không
còn kêu nài gì được nữa. Muốn được bốn chữ đó phải tìm cách phụng sự nhơn sanh,
giúp đời bớt khổ. Hòa ước này được ký kể từ ngày Đức Thượng Đế mở Đạo Cao Đài
để Đại Ân xá cho nhơn loại.
Từ Tịnh Tâm Điện có đường
lên lầu Hiệp Thiên Đài, nơi đặt bàn thờ Chức sắc Hiệp Thiên Đài đã qui liễu.
Trước bàn thờ là nơi ban nhạc lễ đàn khi cúng. Từ Hiệp Thiên Đài có hai đường
lên lầu chuông, lầu trống. Mỗi tầng bên trên có một cửa sổ lớn nên tiếng
chuông. trống khi đánh lên vang vọng trên không trung.
C. BÊN TRONG ĐỀN THÁNH
1. Hiệp Thiên Đài:
Từ Tịnh Tâm Điện có hai
cửa đi vào bên trong Đền Thánh. Bên trong được chia thành ba gian. Ở giữa là
chánh điện, bên phải dành cho Nam phái quỳ hành lễ, bên trái dành cho Nữ phái.
Quay lại nhìn vào mặt sau
bức tường có hình Tam Thánh, ta thấy :
- Tượng Đức Hộ Pháp ở
giữa, mặc đại phục, đứng trên tòa sen, đặt trên bực cao hơn hết, dưới có 7 đầu
rắn, tay mặt cầm Kim Tiên.
- Tượng của Đức Thựơng
Phẩm Cao Quỳnh Cư bên tay mặt Đức Hộ Pháp, đứng trên tòa sen trước cây Phướn
Thượng Phẩm, mặc đại phục, tay mặt cầm Long Tu Phiến có gắn Phất chủ, tay trái
cầm xâu chuỗi Từ Bi.
- Tượng của Đức Thượng
Sanh Cao Hoài Sang bên trái Đức Hộ Pháp, đứng trên tòa sen trước cây Phướn
Thượng Sanh, mặc đại phục, tay mặt cầm Phất chủ, tay trái cầm xâu chuỗi từ bi,
sau lưng giắt Thư Hùng Kiếm. (hình 10)
Đức Hộ Pháp đạp lên hai
đầu rắn có chữ Nộ (hờn giận), Ai (buồn) và hai tay kềm hai đầu rắn có chữ Ố
(oán ghét), Dục (ham muốn) tượng trưng cho 4 tính xấu cần chế ngự, và 3 đầu
hướng lên tức 3 tính tốt cần nuôi dưỡng là: Hỉ (vui mừng), Ái (thương xót), Lạc
(vui vẻ).
Đầu rắn quấn vào đôn Đức
Hộ Pháp, phần giữa quấn vào đôn Đức Thượng Phẩm, và đuôi rắn quấn vào đôn của
đức Thượng Sanh.
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc
là vị đứng đầu chi Pháp.
Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh
Cư đứng đầu chi Đạo.
Đức Thượng Sanh Cao Hoài
Sang đứng đầu chi Thế.
Trên vách tường sau ngai
Đức Hộ Pháp có tạc một chữ KHÍ với ý nghĩa thờ khí sanh quang. Chữ KHÍ là nguồn
cội của Pháp đã biến sanh ra vạn vật. Toàn bộ Pháp giới điều khiển Càn khôn Vũ
trụ đều do nơi chữ KHÍ mà sanh sanh hóa hóa. Hai bên chữ KHÍ có đôi liễn:
"PHẠM GIÁO TÙY NGƯƠN, CỨU THẾ ĐỘ NHƠN HÀNH CHÁNH
PHÁP."
"MÔN QUYỀN ĐỊNH HỘI, TRỪ TÀ DIỆT MỊ HỘ CHƠN
TRUYỀN."
Ý nghĩa:
Phật dạy tùy thời mà cứu
độ người đời, thi hành chánh pháp
Quyền lực nơi cửa Đạo định
ra thời kỳ diệt tà mị, bảo hộ chơn truyền.
Hiệp Thiên Đài là cơ quan
có nhiệm vụ thông công giúp con người liên hệ học hỏi với các Đấng thiêng
liêng. Hiệp Thiên Đài là cơ quan Đạo Pháp, là cầu nối giữa thế gian (Cửu Trùng
Đài) với Thần, Thánh, Tiên, Phật (Bát Quái Đài).
2. Cửu Trùng Đài:
Bên trong Đền Thánh có 28
cột rồng tượng trưng cho Nhị Thập Bát Tú giáng trần giáo đạo đứng chầu Thượng
Đế. Các cột rồng sơn màu xanh, đỏ, trắng là để tượng trưng cho ba kỳ phổ độ.
- Nhất kỳ phổ độ có Thanh
Dương Đại Hội để phán đoán đức hạnh và công quả tu hành của nhân sanh do Đức
Phật Nhiên Đăng chưởng pháp.
- Nhị kỳ phổ độ có Hồng
Dương Đại Hội do Đức Phật Di Đà điều khiển.
- Tam Kỳ Phổ Độ có Bạch
Dương Đại Hội do Đức Di Lặc chưởng quản.
Do đó, các rồng trắng dưới
quả Càn Khôn cho biết đã đến thời kỳ Bạch Dương và cột rồng vàng (Huỳnh long)
tượng trưng các vị Phật đến dự Đại Hội Long Hoa.
Cửu Trùng Đài là phần
giữa, nối liền Hiệp Thiên Đài và Bát Quái Đài.Cửu Trùng Đài có chín bậc, mỗi
bậc dài 7m, bậc trên cao hơn bậc dưới 18cm. Mỗi bậc ngăn cách nhau bằng hai cột
rồng xanh. Tổng cộng có 18 cột đứng thành hai hàng song song.
Cửu Trùng Đài có 9 bậc
tương ứng với hệ thống 9 bậc giáo phẩm như sau: Từ thấp lên cao có: Tín đồ (Đạo
hữu), Chức Việc Bàn Trị Sự, Lễ Sanh, Giáo Hữu, Giáo Sư, Phối Sư, Đầu Sư, Chưởng
Pháp và Giáo Tông.
Trên vòm trần nhà tượng
trưng bầu trời có màu xanh biếc với những đám mây trắng cùng hàng trăm vì tinh
tú. Ở giữa có chạm hình 6 con rồng (2 con màu vàng, 2 con màu xanh, 2 con màu
đỏ), chung quanh sơn màu xanh da trời, lấy ý trong bài Ngọc Hoàng Kinh là :
Thời thừa lục long, du hành bất tức.
Ý nghĩa: Đức Chí Tôn thường ngự trên sáu con
rồng,theo thời vận tuần du khắp vũ trụ.Sáu rồng còn là quẻ Càn, tượng trưng Đạo
Trời.Đạo biến hóa nhiệm mầu khắp nơi, không hề ngưng nghỉ.
Hàng chức sắc quỳ cúng
hành lễ ở gian chính giữa. Tín đồ nam, nữ quỳ ở hai bên riêng biệt (hình 11).
Hai gian bên có trần nhà phẳng, khắc hình Lân, Quy, Phụng. Các con thú này hợp
với Rồng ở hàng cột được gọi là Tứ Linh.
Từ Bát Quái Đài đếm trở
xuống thì cấp thứ sáu dành cho Giáo Hữu.Ở cấp này, mỗi bên nam nữ có một Giảng Đài ,cấu trúc là một cột có rồng
uốn khúc với miệng phun ra 6 chia chống đỡ Giảng Đài.Giáo Hữu là cấp đã chế ngự
được lục trần ( Sắc, thanh, hương , vị, xúc, pháp) và thông suốt giáo lý để làm
nhiệm vụ phổ tế.
Hai bên vách Đền Thánh tạc
hình hoa sen, gương sen và ngó sen trong khung hình chữ nhựt đứng, ở giữa có
khung tam giác tạc Thiên Nhãn phản chiếu các tia rẽ quạt rất sinh động. Khung
hình này mang nhiều ý nghĩa mầu
nhiệm:(hình 12)
- Thiên Nhãn tượng trưng
cho Thái cực.
- Hình tam giác tượng
trưng cho Tam giáo đồng nguyên.
- Bụi sen trên, bụi sen
dưới tượng trưng Âm Dương tức Lưỡng Nghi
- 4 trái sen hai bên tượng
trưng Tứ Tượng
- 8 lá sen tượng trưng Bát
Quái
- 12 ngó sen tượng trưng
Thập nhị Khai Thiên.
Cây Sen tượng trưng cho
đời sống con người và cũng tượng trưng cho đời sống của Đại vũ trụ. Triết lý
huyền bí dạy các yếu tố của cả hai đều giống nhau và đều phát triển theo cùng
một hướng. Rễ sen chìm trong bùn, tượng trưng đời sống vật chất; thân đi xuyên
qua nước, tượng trưng cho đời sống cõi cảm dục, còn hoa nổi trên nước và mở ra
với bầu trời, tượng trưng cho đời sống tinh thần.
Phần tiếp giáp với Bát
Quái Đài có đặt bảy cái ngai sơn son thếp vàng chạm trổ tinh vi, được đặt theo
thứ tự:
- Một ngai Giáo Tông chạm
rồng.
- Ba ngai Chưởng Pháp chạm
phượng.
- Ba ngai Đầu Sư chạm lân.
Bảy chiếc ngai bị chắn bởi
bức bình phong chạm rồng mạ vàng rất linh động. Hai bên ngai thiết trí hai hàng
lổ bộ bửu pháp của Bát Tiên.
3. Bát Quái Đài
Bát quái là tám quẻ đơn
tượng trưng cho muôn vật, là hệ thống ký hiệu đơn giản cho mọi hiện tượng trong
vũ trụ, thiên nhiên và đời sống con người, mà sáu mươi bốn (8x8) quẻ kép là sự
triển khai bát quái lập thành hệ thống chi tiết hơn.
Lập Bát Quái Đài để thờ
Thượng Đế là thờ Đấng Tạo hoá đã tạo lập ra càn khôn vũ trụ (hình 13).
Bát Quái Đài có 12 bậc,
mỗi bậc cao 10cm với 8 cạnh, dưới to trên nhỏ theo hình tháp. Mười hai bậc
tượng trưng cho 12 tầng Trời. Theo giáo lý Đạo Cao Đài thì Thượng Đế là Đấng
Thập nhị Khai Thiên (số 12 là số riêng của Trời). Bậc đầu tiên cao hơn mặt đất
2.4m và bậc trên cùng cao hơn mặt đất là 3.6m (bội số của 12)
Bậc tiếp giáp với Cửu
Trùng Đài được gọi là Cung Đạo. Trên nóc Cung Đạo đúc vòm Trời và một hình bầu
dục mây trắng chung quanh những tia hào quang dài (12) xen kẻ với những tia hào
quang ngắn (24). Bên trong có chạm hình Thiên Nhãn, một người nam tượng trưng
cho nhân lọai, Đại ngọc cơ, Tiểu ngọc cơ với bảng mẫu tự A,B,C..., một cái bàn
ba chân dùng xây bàn, một ống xăm; tất cả là những phương tiện thông công giữa
người và cõi vô hình (hình 14) Trong kỳ lập Đạo lần này, Đức Thượng Đế đã dùng
Cơ bút để dạy Đạo ở buổi đầu.
Ngoài các hình trên, còn có quyển sách, một
bảng màu đen cho thấy ba hàng chữ Nôm có nội dung:
"Muôn kiếp có ta nắm chủ quyền.
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên
Đạo mầu rưới khắp...
Ngoài ra còn có xấp giấy viết mấy câu thơ chữ Nôm:
Viết thử Thiên Thơ với nét trần
Hầu sau bền giữ nghiệp Hồng Quân
Chuyển luân thế sự...
Một bàn tay cầm bút lông từ trong mây đưa ra:
Ký thành một cuốn gọi Thiên Thơ
Khai Đạo muôn năm trước định giờ
May bước phải gìn..."
Mặt trước và phía trên
Cung Đạo có đúc bức hoành hình chữ M, tạc tượng các Giáo chủ của Tam giáo, Tam
Trấn và Ngũ chi Đại Đạo. (hình 15)
- Hàng trên là ba vị Giáo
chủ : Lão Tử, Thích Ca, Khổng Tử .
- Hàng giữa là ba vị Tam
Trấn : Quan Âm, Lý Bạch, Quan Thánh. Ba vị này tượng trưng cho ba tánh BI, TRÍ,
DŨNG của Tam Giáo
- Hàng dưới Lý Bạch là
Jésus Christ và Khương Thượng.
Khi xếp một vị ở dưới một
vị khác, không có ý nghĩa cao thấp. Nếu kể từ Đức Thích Ca xuống thì đại diện
Ngũ Chi Đại Đạo là: Phật đạo (Thích Ca), Tiên đạo (Lý Bạch), Thánh đạo (Jésus
Christ), Thần đạo (Khương Thái Công), Nhơn đạo (Giáo Tông).
Bức hoành bên tả thờ Bát
Tiên.
Bức hoành bên hữu thờ Thất
Thánh
Phần sau của Bát Quái Đài
là nơi đặt quả Càn Khôn. Phần này nằm về hướng Đông của Đền Thánh. Càn Khôn là
hai quẻ trong Kinh Dịch, tượng trưng cho Trời và Đất. Quả Càn Khôn tượng trưng
vũ trụ của Đấng Ngọc Hoàng.
Quả Càn Khôn có bề kính
tâm 3.3m, màu xanh da trời, cẩn 3072 ngôi sao (tinh tú) tượng trưng cho Tam
Thiên thế giới và Thất Thập Nhị Địa, trong đó địa cầu mà con người đang ở là
địa cầu thứ 68. Trên chòm sao Bắc Đẩu vẽ Thiên Nhãn. Ngọn đèn đặt tại tâm quả
địa cầu tượng trưng ngôi Thái Cực của Đức Chí Tôn.
Trước quả Càn Khôn là bàn thờ (hình 16). Trên Thiên bàn có đủ 12
phẩm vật:
- Thiên Nhãn
- 1 Thái Cực Đăng (ngọn
đèn luôn luôn cháy tượng trưng cho linh hồn vũ trụ)
- Hai cây đèn ở hai bên
tượng trưng cho lưỡng nghi (âm - dương)
- 1 bình hoa (tượng trưng
cho TINH) và 1 dĩa trái cây
- 3 ly rượu (tượng trưng
cho KHÍ)
- 1 tách trà (tượng trưng
cho THẦN) và 1 tách nước lạnh (nước Âm Dương)
- 1 lư hương
Khi cúng sẽ đốt 5 cây nhang
và cắm thành hai hàng: hàng trong 3 cây, hàng ngoài 2 cây. Năm cây nhang tượng
trưng cho sự vận chuyển của ngũ hành để cho vũ trụ điều hòa, vạn vật sanh
trưởng. Trong phép tu luyện, người tu phải qua 5 giai đoạn tu tập: Giới, Định,
Huệ, Tri kiến và Giải thoát.
TINH, KHÍ, THẦN là ba vật
báu của con người:
- Tinh là xác thân do cha
mẹ sinh ra, còn gọi là đệ nhất xác thân.
- Khí là trí não của chúng
ta, còn được gọi là đệ nhị xác thân hay là chơn thần, do Đức Phật Mẫu- Mẹ
Thiêng liêng ban cho.
- Thần là yếu tố Thiêng
liêng, bất tiêu bất diệt, còn được gọi là đệ tam xác thân hay là chơn linh, do
Đức Chí Tôn ban cho. Nhờ có chơn linh, con người mới hiểu biết, khôn ngoan hơn
vạn vật.
Nếu Trời có ba báu là
Nhựt, Nguyệt, Tinh; Đất có ba báu là Thủy, Hỏa, Phong thì người có Tinh, Khí,
Thần.
Mỗi ngày lễ cúng được tổ
chức ở bốn thời điểm: Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu. Khi đó, tín đồ sẽ mặc áo dài toàn
trắng, còn các chức sắc có đạo phục theo quy định trong Pháp Chánh Truyền
Lễ dâng rượu phải đúng giờ
Ngọ (12 giờ trưa) và giờ Tý (12 giờ khuya) vì vào thời đó, ngươn khí của Trời
Đất hưng vượng. Cúng vào giờ này, trí não ta được sáng suốt.
Lễ dâng trà phải vào thời
Mẹo (6giờ sáng) và giờ Dậu (6g chiều) vì đó là thời điểm ngươn thần của Trời
Đất hưng vượng. Cúng vào giờ này, thần người cúng dễ an tịnh.
Dưới quả Càn Khôn là bài
vị các Đấng đã kể ở trên. Dưới nữa có một cái hầm đựng tro của các vị chức sắc
lớn.
NHẬN XÉT
Bát Quái ở Toà Thánh Cao
Đài Tây Ninh có nét độc đáo khác với Dịch lý truyền thống.
Bậc thứ 12 có 8 quẻ Bát
Quái không theo thứ tự Tiên Thiên của Phục Hy (Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm,
Càn, Khôn), mà cũng không theo thứ tự Hậu Thiên của Văn Vương (Càn, Khảm, Cấn,
Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài) theo chiều kim đồng hồ.
Bát Quái Cao Đài “CÀN,
KHẢM, CẤN, CHẤN, TỐN, LY, KHÔN, ĐOÀI” đổi chiều quay Bát Quái hậu thiên, 8 quẻ
đặt ngược chiều kim đồng hồ (tức cùng chiều với chiều quay trái đất quanh mặt
trời). Như vậy chỉ có 2 quẻ CHẤN (hướng Đông) và ĐOÀI (hướng Tây) không đổi.
Sự đổi chiều này mang ý
nghĩa phản phục, qui nguyên. Bát Quái Hậu Thiên là chiều vãng (đi ra) - của
Nhất kỳ và Nhị kỳ Phổ độ, Bát Quái Cao Đài là chiều lai (trở về) - của Tam kỳ
Phổ độ.
Khi đặt ngôi thờ Thượng Đế
(Thái Cực Thánh Hoàng - Đấng sáng tạo vũ trụ) ở hướng Đông thì tương ứng với
cung Chấn của Bát Quái - CHẤN là tiếng động, là tiếng nổ. Theo giáo lý Cao Đài:
Vũ trụ được tạo thành từ một tiếng nổ (Big bang). Hư Vô chi khí sinh ra Thượng
Đế và Thượng Đế tạo ra Càn Khôn vũ trụ, chúng sinh. Vì Thượng Đế vốn từ Hư Vô
chi khí nên không có hình ảnh nào mô tả nỗi.
Đức Thượng Đế chọn quả Càn
Khôn tạo Thiên Nhãn làm ngôi thờ thiêng liêng mang nhiều ý nghĩa sâu xa huyền
nhiệm, không thể lý giải được hết.
Ý NGHĨA VIỆC THỜ THIÊN
NHÃN:
Có thể tạm giải thích theo
những ý sau :
- Thờ Thiên Nhãn là thờ
cái Tâm của con người. Tâm đây là lương tâm, chơn tâm, thiên tâm có sẵn trong
chúng ta và giúp ta phân biệt phải trái, biết nhơn nghĩa đạo đức. Tâm Thánh
nhân giữ không để vật dục chi phối. Tâm được trau giồi trong sáng sẽ có trực
giác, giao tiếp được với cõi Thiêng Liêng vì Trời, Người đồng một Lý.
- Thờ Thiên Nhãn còn có ý
nghĩa thờ khối Đại Linh Quang mà con người là một Tiểu Linh quang. Chơn linh
hay thường được gọi là Linh hồn chính là khối ánh sáng bé nhỏ được chiết ra từ
khối ánh sáng vĩ đại của Thượng Đế. Đức Chí Tôn đã giải thích ý nghĩa việc thờ
Thiên Nhãn như sau:
"Nhãn thị chủ tâm.
Lưỡng quang chủ tể
Quang thị Thần.
Thần thị Thiên
Thiên giả ngã giả"
Ý nghĩa: Con mắt làm chủ
cái Tâm. Hai ánh sáng trong mắt là phần chủ tể. Ánh sáng ấy là Thần. Thần ấy là
Trời. Trời là Ta vậy.
- Việc thờ Thiên Nhãn còn
có ý nghĩa trong việc luyện Đạo vì Thần có hiệp cùng Tinh, Khí thì mới có thể
siêu phàm nhập Thánh. Người tu đoạt Pháp sẽ có thêm con mắt thứ ba gọi là Huệ
Nhãn, thấy được cõi vô hình. Mở Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn đã hứa sẽ ‘‘hườn
nguyên chơn thần các con đắc đạo’’
- Thờ Thiên Nhãn với con
mắt mở tượng trưng Trời thấy và hiểu tất cả những gì con người làm và nghĩ. Vẽ
con mắt trái vì bên trái thuộc Dương. Trời Dương, Đất Âm. Con mắt trái là hình
thể hữu vi. Thiên Nhãn là cái lý màu nhiệm huyền bí thuộc lãnh vực siêu hình,
biểu tượng sự sáng suốt tột cùng bao trùm cả Càn khôn vạn loại.
- Đạo Cao Đài có tôn chỉ
qui Tam Giáo, hiệp Ngũ chi nên việc thờ Thiên Nhãn có tính đại đồng và chỉ thờ
một con mắt vì số một là số khởi thủy của các số: Đạo sanh nhất, nhất sanh nhị,
nhị sanh tam, tam sinh vạn vật. Thế nên, thần học Cao Đài là “nhất nguyên
luận”.
D. BÊN NGOÀI ĐỀN THÁNH
Mỗi bên hông Đền Thánh có
6 cửa ra vào. Các bậc lên xây dựng như bậc thang mà hai bên có tượng Kim Mao
Hẩu.
Nóc của Cửu Trùng Đài lợp
ngói đỏ, có Nghinh Phong Đài. Đài cao 17m, phần dưới hình vuông, phần trên hình
vòm cầu trông giống kiến trúc của các nhà thờ Hồi giáo. Trên quả địa cầu có
tượng Long Mã mang Hà Đồ chạy về hướng Tây, quay đầu về hướng Đông. Bởi lẽ Á
châu là nơi phát sinh của nhiều tôn giáo “Đạo phát ư Đông, di ư Tây, phản hồi ư
Đông” (hình 17)
Dưới mái hiên Đài trang
trí các dây trái nho. Trên dây nho có vẽ đôi chim hạc bay trên biển vào lúc
rạng Đông. Đức Jesus đã giảng: “ Ta là cây nho, các con là cành.”. Ngài ban
phát sự sống và sức sanh sản cho các cành là chúng ta. Cây và trái nho tượng
trưng Hình Thể, nước nho tượng trưng Chơn Thần, và rượu nho tượng trưng Linh
Hồn (hình 18).
Nóc Bát Quái Đài cao 30m,
lợp ngói màu vàng, trên đỉnh đúc tượng Tam Thế Phật (hình 19) :
- Phật Brahma mặt nhìn về
hướng Tây, đứng trên lưng con Thiên Nga, tay mặt bắt ấn, tay trái cầm bửu châu
- Phật Chrisna (Krisna),
một hóa thân của Phật Vishnu mặt nhìn về hướng Nam, đứng trên con Giao Long,
một tay chống nạnh và một tay chống bửu kiếm.
- Phật Civa (Siva) mặt nhìn về hướng Bắc, đứng trên
Thất đầu xà và đang thổi sáo.
Tam Thế Phật tượng trưng
ba ngôi của Thượng Đế: sáng tạo, bảo tồn và hủy diệt. Đó là cơ tuần hoàn của vũ
trụ theo lẽ biến dịch. Theo Đạo Cao Đài, nhân loại đang ở vào Hạ nguơn tam chuyển, thời mạt
pháp. Đạo Cao Đài được sáng lập nhằm mục đích giác ngộ loài người hướng thiện,
mở một kỷ nguyên hòa đồng, hiệp đồng và đại đồng. Thánh giáo gọi đó là trở về
đời Thượng nguơn Thánh Đức.
Sau lưng Đền Thánh có dãy
nhà mà từ trên cao ta thấy chúng hợp với Đền Thánh thành chữ SƠN theo Hán tự.
Các công trình kiến trúc
khác trong nội ô Toà Thánh Cao Đài Tây Ninh
Trong nội ô Toà Thánh Cao
Đài Tây Ninh còn có nhiều công trình kiến trúc khác như Hạnh Đường (nơi hội họp
và mở khóa huấn luyện tu sĩ), Giáo Tông Đường, Hộ Pháp Đường, Nữ Đầu Sư Đường,
nhà làm việc của cơ quan Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài, nhà Vạn Linh, Bắc Tông,
Trung Tông, Tần Nhơn, bệnh viện, trường học, Khách đình, nhà Thuyền Bát Nhã, các
xưởng thợ. Đặc biệt là Đền thờ Phật Mẫu, nơi thờ Mẹ Thiêng liêng của nhơn loại
và Bá Huê Viên ở phía đối diện Đền. Đền thờ Phật Mẫu là nơi diễn ra Hội Yến
Diêu Trì Cung vào rằm tháng 8 âm lịch hằng năm.
Khu rừng nguyên thủy mang
tên “Rừng Thiên Nhiên” có tuổi gần trăm năm đã tạo nên sự hài hoà trong kiến
trúc với cảnh quan thiên nhiên.
IV. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ - NGHỆ
THUẬT - KIẾN TRÚC
Henri Regnault trong một
hội nghị về Thần Linh Học tại Lausane, Thụy Sỹ (1948) đã cho rằng:
" Trong tôn giáo Cao Đài, nghệ thuật có một vị
trí rất quan trọng. Kiến trúc trong và ngoài Đền Thánh có một vẻ đẹp mỹ thuật
đáng được chú ý đặc biệt."
Thật vậy, Đền Thánh có
kiến trúc kết hợp giữa Âu và Á. Với hai lầu chuông trống cao như tháp chuông
nhà thờ phương Tây, nhưng Đền cũng có mái lợp uốn cong nhẹ, mái kép kiểu “trùng
thiềm điệp ốc” của phương Đông (HÌNH 20). Chính giữa mặt tiền và ở trên nóc có
tượng Đức Di Lặc ngự trên tòa sen ... đã cho thấy triết lý Đạo Cao Đài có nguồn
gốc từ Phât giáo cổ xưa và nay giữ nhiệm vụ phổ độ chúng sanh trong kỳ hạ nguơn
này. Dãy cột rồng và hoa sen ở ngay cửa chính báo tin Long Hoa Hội do Đức Di
Lặc chưởng quản sẽ khai diễn tại nước Việt Nam.
Bên ngoài Đền Thánh nhìn
lên Nghinh Phong Đài có hình vòm cong, thường thấy trong kiến trúc của các nhà
thờ Ấn Độ và Trung Đông. Tuy được kết hợp bởi các lọai hình kiến trúc Âu Á khác
nhau như thế nhưng Đền Thánh vẫn nổi bật nét văn hóa Việt với Tứ Linh: Long,
Lân, Quy, Phụng và hình ảnh hoa sen.
Khi du khách đến viếng Đền
Thánh, ấn tượng đẹp đầu tiên đến với họ là khung cảnh hài hòa giữa kiến trúc
xây dựng với thiên nhiên xung quanh.
Công trình kiến trúc này
vừa mang dấu ấn Dịch lý và triết lý tôn giáo ẩn chứa bên trong, vừa có vẻ đẹp
hài hòa, kết cấu bền vững.
Được cất từ những năm 30,
40 của thế kỷ XX nhưng các người thợ xây dựng đã sáng tạo bê tông cốt tre, đã
biết dùng mái bê tông giả ngói với mái cong ba tầng. Các ngăn đều có hình ảnh
long giáng tạo nên vẻ thanh thoát.
Các cột được đắp hình
rồng, sen khiến công trình không còn đơn điệu. Gió và ánh sáng cũng được chú ý
để tràn ngập trong Đền sự thoáng mát, không lo đến sự ẩm thấp.
Tóm lại, trong vùng Đất
Thiêng (cuộc đất được coi là Lục Long phò ấn), không có máy móc, không một kiến
trúc sư hay một kỹ sư xây dựng nào, mà chỉ dưới sự chỉ dẫn của các Đấng Thiêng
Liêng, những người thợ xây dựng nghèo khó, ít học và giàu đức tin đã hoàn thành
một kiệt tác kiến trúc ẩn chứa bao nhiêu điều mầu nhiệm về bí pháp.
Đền Thánh Tây Ninh thực sự
là một kỳ quan, một di sản văn hóa của nhân loại.
Institute for Historic Caodai Religion