1 . Hội nghị quốc tế Thần linh học Barcelone (1934)
Người ta đọc trong tạp chí La Revue Spirite (số tháng 10 - 1934, trang 505)
trong một loạt các nguyện vọng được toàn hội chấp thuận :
"
- Mục thứ 8 : Phong trào Cao Đài : Do đề nghị của ông Gabriel Gobron, Tiếp Dẫn
Đạo Nhơn tại nước Pháp của Đạo Cao Đài (hay Phật giáo canh tân, hay Thần linh
học VN), Hội nghị quốc tế Thần linh học lần thứ 5 họp ở Barcelone (từ ngày 1
đến 10-9-1934) thỉnh cầu rất cung kính Chánh phủ Pháp vui lòng nhớ lại các lời
hứa long trọng vào tháng 3 năm 1933 tại Quốc Hội Pháp, của Thủ Tướng Sarraut,
lúc ông là Bộ Trưởng Thuộc địa, thiết lập với ân huệ cho những tín đồ Cao Đài
một qui chế cũng rộng rãi như qui chế được hưởng bởi những người theo Thiên
Chúa giáo hay các tín đồ Phật giáo trong các nước của Liên bang Đông Dương."
2. Hội Nghị thế giới về tôn giáo ở Luân đôn (1936)
Báo Le Cyne (ngày 20-9-1936) loan tin :
"
- Tại Hội nghị Quốc tế về Tôn giáo tổ chức ở Luân đôn, dưới sự chủ tọa của Ngài
Francis Younghusband, nơi đó ông Gabriel Gobron, Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại nước
Pháp của Đạo Cao Đài, tham dự theo lời mời của Tòa Thánh Tây Ninh, Đạo Cao Đài
được thừa nhận là tôn giáo khoan dung nhứt thế giới. Trước đông đảo hội viên
gồm đại diện của tất cả tôn giáo lớn trên thế giới và các đại diện báo chí quốc
tế, đại diện Cao Đài tại Pháp tuyên bố: " Đạo Cao Đài là một thực nghiệm
về sự hòa hợp các chủng tộc và các sắc dân, mà quí vị hội họp nơi đây là vì mục
tiêu ấy. Đạo Cao Đài hay Phật giáo canh tân chắc chắn là một thực nghiệm sống
của sự kết hợp và phục nhứt các tôn giáo." Nhiều tràng pháo tay nhiệt liệt hoan nghinh
câu kết luận ấy.
3. Hội Nghị Thần linh học thế giới ở Glasgow (1937)
Nhựt báo L’Annam nouveau (14-11-1937) loan tin:
" - Do đề nghị của ông
Gabriel Gobron, Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại Pháp của Đạo Cao Đài hay Thần linh học
VN, Hội nghị Thần linh học thế giới lần thứ 6 họp ở Glasgow (từ ngày 3 đến
10-9-1937), sau Hội nghị Thần linh học thế giới lần thứ 5 tại Barcelone, nêu ra
nguyện vọng là những người theo Thần linh
học VN trong các nước của Liên bang Đông Dương được hưởng những tự do tín ngưỡng
và thờ cúng như những người VN theo Thiên Chúa giáo hay đạo Tin Lành, dầu họ là
dân thuộc địa, dân bảo hộ, dân lai hay người ngoại quốc.
"Nguyện
vọng nêu ra trong Hội nghị Thần linh học quốc tế ở Baecelone đã mở ra thời kỳ
khá rộng rãi cho các tín đồ Cao Đài hay Thần linh học VN".
Nguyện
vọng nầy được trình bày và bàn cãi trong bộ phận triết học của Hội nghị, được
nhìn nhận bởi sự hoan nghinh trong buổi hội họp dân chúng tổ chức tại Phòng
Triển lãm mỹ thuật McLellan ngày 9-9-1937.
4. Hội nghị thế giới về Tín ngưỡng tại Ba-lê (1939)
Tóm tắt bài tường thuật của tạp chí La Revue
Spirite (Tạp chí Thần linh học) (Ba-lê,
8 - 9) :
" - Hội nghị thế giới về Tín ngưỡng đã được tổ
chức trước đây ở Luân đôn, Oxford, Cambridge, năm nay tổ chức tại Ba-lê. Cộng
sự viên của chúng ta là ông Gabriel Gobron, được ủy nhiệm bởi các tín đồ Cao
Đài hay Phật giáo canh tân ở Đông Dương, đến tham dự.
Những lời trách cứ mà ông đã đưa ra trong Hội Nghị
tại Luân đôn có thể được lập lại nơi đây và hơn thế nữa: Những người tổ chức, hầu
hết là người Anh, chỉ quan tâm đến các tôn giáo xưa có một quá khứ lâu dài và
phong phú (lời phát biểu của ông Lacombe ngày 10-7-1939) và như vậy là đặt ra
ngoài, các tôn giáo mới, những giáo lý mới và hơn nữa tôn giáo tổng hợp như Đạo
Cao Đài có chủ trương dung hợp cơ bản những tín đồ Phật giáo, Công giáo, Lão giáo,
Nho giáo, Hồi giáo, vv...
Vô ích để nói rằng Thần linh học, Thông Thiên học,
Nhân loại học, vv... đều bị bỏ ra ngoài Hội Nghị nầy, chỉ tìm kiếm sự hợp tác
trong “tôn kính” của những tôn giáo lớn và không bao giờ có sự dung hợp cơ bản
hay tổng hợp.
Không có một so sánh nào về sự cao trọng của các
tôn giáo được tha thứ. Giáo hội Công giáo, tuy chánh thức vắng mặt, nhưng được
đại diện rộng rãi (Giáo sư Maritain, ông Lacombe, vv. ..) và trong tất cả các
ngày, Công giáo đều nhận được sự tôn kính.
Hàng trăm người, phần nhiều là dân anglo-saxon, -
sĩ quan, viên chức, giáo sư, quí tộc, trưởng giả - tham dự các ngày Công giáo,
Do Thái giáo, Phật giáo, Tin lành, Hồi giáo, Ấn giáo, họ xen vào các cuộc tranh
luận, đôi khi ngoài các đề tài nêu ra: Làm thế nào ngự trị tinh thần huynh đệ
trên thế giới bởi sự tụ hội các tôn giáo ?
Sự bảo trợ chánh thức ban cho Hội Nghị (ông
Champetier de Ribes và ông Georges Mandel) sự tiếp nhận Hội Nghị tại trường đại
học Sorbonne bởi ông Viện Trưởng Roussy, với sự tham dự của các thuộc địa Pháp
(một vị tướng ở Tunis, một Tỉnh trưởng ở Syrie, vv...) một "Ủy ban Pháp" làm tăng uy thế của các buổi thảo luận long
trọng tại Giảng đường Richelieu từ ngày 2 đến 11-7-1939.
Ưu điểm của Hội Nghị - ngoài những giới hạn hẹp hòi
mà người ta qui định và những dự phòng chánh đáng - là kêu lên những quyền của
con người, mà hiện thời bị chà đạp trong tất cả các chế độ độc tài.
Một nguyện vọng là kêu gọi các nhà độc tài nên nhân
đạo hơn nữa, được Hội Nghị chấp nhận và vấn đề người tị nạn phải được ghi vào nghị
trình của Hội Nghị sắp tới tổ chức ở Hòa-lan. Một lời kêu gọi gởi đến các Giáo
hội chánh thức được đưa ra.
Những khách đến viếng thăm điện Versailles, các
viện bảo tàng Ba-lê, các trung tâm trí thức, Thánh đường Hồi giáo, nơi đó nhân
phẩm có tính cách của dân Ba-lê đón nhận một cách lịch sự các Hội viên, v.v...
đã theo dõi hội tập thường ngày. Quả thật, người ta nói nhiều nhưng người ta
cũng hành động: một Hội nghị như thế là một sự kiện đáng ghi nhớ. Người ta muốn
tuyên bố nó quan trọng hơn cả Hội nghị Quốc liên, tiếp theo một trong những
tiệc trà qui tụ nhiều Hội viên mà một ngày nào đó khơi lên ngọn lửa của những
tân tín đồ về lý tưởng tôn giáo.
Báo La Vérité ở Nam Vang, nơi đó có trụ sở của Hội
Thánh Ngoại giáo Đạo Cao Đài, có tường thuật gần giống như trên (ngày
26-7-1939) : Đạo Cao Đài trong Hội Nghị các tôn giáo tại Ba-lê (trang 1 và 5) :
Đạo Cao Đài hay Phật giáo canh tân đã được giới
thiệu vào năm nay trong Hội Nghị các tôn giáo tại Ba-lê (từ ngày 3 đến 11 tháng
7) bởi ông Gabriel Gobron, Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại Pháp của Đạo Cao Đài, ông gặp
lại các nhân vật lãnh đạo mà ông đã quen biết tại Luân đôn vào năm 1936, Ngài
Francis Younghusband là chủ tọa và ông Arthur Jackman làm thơ ký.
Chánh phủ Pháp đã tổ chức và bảo trợ Hội Nghị các
tôn giáo, chính các ông Georges Mandel, Bộ Trưởng Bộ Thuộc địa; ông Champetier
de Ribes, Bộ Trưởng Bộ trợ cấp; ông Viện trưởng Viện Đại học Ba-lê, Bác sĩ
Roussy, đã cung cấp Giảng đường rộng lớn Richlieu của Đại học Sorbonne làm nơi
hội họp cho Hội Nghị.
Một Ủy ban Pháp, dưới quyền của Giáo sư Louis
Massignon, gồm nhiều nhân vật: bà De Coral-Rémusat, ông Jean Herbert, bà
De Margerie, công chúa A. Murat, ông De Traz, ông Lacombe, giáo sư Daniel Rops,
vv... điều khiển các cuộc thảo luận, tập trung vào đề tài căn bản: Làm thế nào
mở mang tinh thần hợp tác huynh đệ trên thế giới bởi các tôn giáo ?
Chung quanh vấn đề đặt ra nầy, người ta chẳng những
ghi nhận các ngày Công giáo, Tin lành, Ấn giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Do Thái
giáo, vv ... tùy theo diễn giả chánh thức thuộc vào một trong những tín điều
nào.
Như thế, thứ ba ngày 4 tháng 7 là ngày Công giáo:
Giáo hội Công giáo chánh thức vắng mặt, không tham dự các công việc của Hội
nghị, nhưng Giáo sư Jacques Maritain, ông Lacombe và vài người Công giáo khác
đóng vai trò hàng đầu trong tuần lễ Hội nghị. Giáo hội Công giáo vô hình nhưng
hiện diện.
Nói thật ra thì tầm vóc của Hội Nghị không lớn lắm,
cũng không quốc tế như người ta mong ước. Điều nầy do vài hạn chế đặt ra cho
các Hội viên:
1 . Không một tôn giáo nào được bày tỏ ưu điểm của
mình để thu hút tín đồ của tôn giáo khác.
2 . Không có vấn đề thống nhứt hay dung hợp các tôn giáo, nhưng chỉ có sự hợp
tác giữa các tôn giáo khác nhau đã bị chia rẽ từ trước. Một tôn giáo thống nhứt
tổng hợp như Đạo Cao Đài cảm thấy khó chịu trong Hội Nghị; cũng thế, ông Tiếp
Dẫn Đạo Nhơn tại Pháp tuyên bố với ông Olivier Lacombe, Phó Chủ tịch Ủy ban
Pháp, rằng ông ta là người "tà giáo"
duy nhứt trong Hội nghị.
3 . Tiến trình của Hội nghị, theo nguyên tắc, được dành cho các tôn giáo lớn
và xưa chứng tỏ sự lớn mạnh của họ bởi quá khứ lâu dài. (Lời nói của ông
Lacombe ngày 1-7-1939).
Ngài Francis Younghusband lúc bấy giờ tuyên bố với
ông Gabriel Gobron rằng ông Gobron là người được trọng đãi, được tự do phát
biểu và bàn cãi như tất cả mọi người, sau khi ông trình ủy nhiệm thư của cấp
thẩm quyền Đạo Cao Đài với Phòng thư ký ở trường Sorbonne.
Ông Georges Mandel, Bộ Trưởng Thuộc địa, xác nhận
sự tham dự của các phần tử của Đế quốc Pháp tham gia vào các công việc và tranh
luận nơi Hội nghị. Do đó, tướng Hasan Husny Abdelwhab ở Tunis một Tùy viên của
Cao Ủy Phủ của Syrie, đã được lên trình bày về Hồi giáo.
Trái lại, ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại Pháp của chúng
ta không gặp các phần tử Pháp ở Á châu; Ấn giáo và Phật giáo chỉ được đại diện
bởi những người Anh: Tỳ Khưu Thittila (Tu viện Rangoon), Giáo sư Dasgupta
(Calcutta), vv…
Mỗi ngày, ở Ba-lê cũng như ở Luân đôn năm 1936, có
một bài thuyết trình vào buổi sáng, kế đó là tranh luận vào buổi chiều, sau đó
thì đi viếng thăm các cảnh lạ (Điện Versailles, các Viện Bảo tàng, vv...) và
đến các trung tâm trí thức của Ba-lê (Viện Văn minh Ấn độ, Hồi giáo, Hội Liên
hiệp Pháp Anh, vv...).
Ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại Pháp của chúng ta đã phê
phán tổ chức Hội nghị ở Luân đôn, nơi đó nhiều bậc trí thức đơn độc, không đại
diện cho ai cả (và đôi khi có một chút tự kiêu), đã chiếm diễn đàn trong 1 hoặc
2 giờ.
Nay thì Hội nghị ở Ba-lê dành cho những đại diện
của các cộng đồng, theo đúng từ ngữ của qui chế Hội nghị tại Sorbonne. Như thế,
các người không chuyên nghiệp và tài tử phải tránh ra để nhường chỗ cho những
đại danh như Giáo sư Jacques Maritain (Viện Công giáo Ba-lê), Giáo sư Dasgupta
(Ấn giáo), Bác sĩ Sié (Đại học Nam
kinh), tướng Hasan Husny Abdelwahab, Tử tước Samuel (Cựu Cao ủy ở Palestine),
Tỳ khưu Thittila (Tu viện Rangoon), Giáo sư Hauter (Đại học Tin lành
Strasbourg), vv. . .
Thứ ba, ngày 11 thì chấm dứt các công việc và tranh
luận trong tình huynh đệ lịch sự nhứt. Họ chia tay với sự bịn rịn và đau lòng,
sau khi biểu quyết những nguyện vọng, các giải pháp, xem xét các dự án, các cải
thiện, quyết định địa điểm cho Hội nghị sắp tới ở Hòa Lan, vv...
Trong số rất nhiều sự việc thú vị, đáng chú ý là
nguyện vọng yêu cầu các nhà độc tài cư xử nhân đạo hơn với dân chúng; những lời
khen ngợi về công trình hòa bình của ông Chamberlain; lời cảm tạ đối với nhà
cầm quyền Pháp đã đối đãi tốt đẹp với các tôn giáo mà không cần chứng minh, khả
năng chọn Strasbourg, Jérusalem, Genève,
vv... làm nơi Hội nghị sắp tới; sự kêu gọi các Giáo hội nên cho phổ biến các
công trình của Hội nghị mà một diễn giả đã nói rằng các chánh trị gia và những
người cổ súy họ. Vấn đề người tỵ nạn
được đặt ra cho năm tới.
Ủy ban Pháp quyết định tiếp tục tại Ba-lê công việc
làm cho các tôn giáo lớn xích lại gần nhau hơn và hiểu biết nhau hơn. Nhiều
Hiệp hội liên tôn được chú ý trong thủ đô, cung cấp cho các Hội viên thích tham
dự các cuộc hội họp và đóng góp các cố gắng.
Từ đây Hội nghị sẽ thay thế Hội Quốc liên, đã bị đả
phá bởi "Chúng tôi nghĩ rằng, không
bao lâu nữa, Đạo Cao Đài sẽ có vai tuồng quan trọng bởi cái gương mẫu sống động
của nó, trong các Hội nghị quốc tế về tôn giáo."
Các
Vị Giáo Tông của Đạo Cao Đài.
Tờ báo Le Populaire [Bình Dân] (xuất bản tại Sài
Gòn ngày 18-11-1935) loan tin: Ở Tây Ninh, Ngài Phạm Công Tắc kế vị Ngài Lê Văn
Trung và trở thành Giáo Tông của Đạo Cao Đài:
Nhơn dịp lễ kỷ niệm ngày mất của Ngài Lê Văn Trung,
Giáo Tông của Đạo Cao Đài (*), Tòa Thánh Tây Ninh tổ chức đại lễ trong ba ngày:
8, 9 và 10 tháng 11 vừa qua, có hơn 5 ngàn tín đồ dự lễ.
Một Đại hội gồm: Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh được tổ
chức vào hai ngày 11 và 12 tháng 11, sau khi chấm dứt các buổi lễ, để giải
quyết vấn đề khó khăn là việc kế vị Ngài Lê Văn Trung.
Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh đồng thanh tín nhiệm
giao chức vụ nặng nề nầy cho Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc. Tất cả kiến nghị tín
nhiệm đều được Đại hội biểu quyết đồng ý.
Như thế, một vấn đề gây ra sự chú ý nhiều lần của
công luận đã được giải quyết đúng qui tắc. Chúng tôi mong rằng, dưới quyền lãnh
đạo của vị Giáo Tông mới, Đạo Cao Đài sẽ tiến bước êm đềm.
(*) Chú thích của Dịch giả: Gọi Ngài Lê Văn Trung
là Quyền Giáo Tông (Pape intérimaire) thì đúng hơn, vì Ngài chỉ nắm quyền Giáo
Tông hữu hình tại thế. Giáo Tông chánh thức của Đạo Cao Đài là Đức Lý Thái
Bạch, nắm cả hai quyền: Vô vi và hữu hình.
Tờ báo còn thông báo các buổi lễ:
" - Nhơn dịp lễ Kỷ niệm ngày mất của Ngài Lê
Văn Trung, Quyền Giáo Tông của Đạo Cao Đài, các cuộc lễ lớn diễn ra trong các
ngày: 8, 9, 10 và 11 tháng 11 tại Tòa Thánh Tây Ninh. Đây là chương trình các buổi lễ:
- Ngày 8
tháng 11, lúc 14 giờ: Đại lễ mãn tang tại Giáo Tông Đường.
- Ngày 9 tháng 11, lúc 19 giờ: Thỉnh linh vị vào
Đền Thánh; 20 giờ: Cúng tế.
- Ngày 10 tháng 11, lúc 19 giờ: Thỉnh linh vị ra
Đại Đồng Xã.
- Ngày 11 tháng 11, lúc 6 giờ: Lễ Cúng tế trước Cửu
Trùng Thiên. Điếu văn của các Chức sắc Đại Thiên phong.
Nhơn dịp Lễ Kỷ niệm Khai Đạo lần thứ 10, tờ báo La
Presse indochinoise [Báo chí Đông Dương] (ngày 3-9-1936) nhắc lại cho công
chúng Đông Dương biết rằng, Đạo Cao Đài hay là Phật giáo canh tân:
" - Đạo Cao Đài, một Tân tôn giáo phát sanh
tại Đông Dương vào năm 1926, đã ban cho những người được khai tâm đầu tiên
những bài Thánh giáo của Đức Chí Tôn, Đấng Cao Đài, dưới hình thức là những
thông điệp huyền bí mà các đồng tử đã nhận được một cách thận trọng để lưu
truyền lại cho đời sau.
Vật làm thông công môi giới của Thần linh học cho
phép tiếp nhận nhiều thông điệp phát ra từ các bậc đại hiền triết của thời cổ,
từ cõi vô hình, giáng điển xuống Tòa Thánh Tây Ninh (Nam Kỳ) một cách đều đặng.
Các tín đồ của Đạo Cao Đài càng lúc càng nhiều,
được dạy cho biết các kiến thức về giáo lý và luật pháp của Ba Đấng Giáo chủ:
Đức Phật Thích Ca, Lão Tử, Khổng Tử.
Những điều giáo huấn tổng quát của Phật giáo là:
không sát sanh, không trộm cướp, không
muốn vợ của người khác, không làm chứng dối, không uống rượu. Phật giáo
còn tiến rất xa trong việc tìm đến sự toàn thiện, vì Phật dạy thương yêu kẻ
thù, lời giáo huấn mà phương Tây của chúng ta xem như là một chuyện buồn cười,
bởi vì nó đem đến một cảnh tượng đau buồn của lòng thù hận, của sự hung dữ, của
sự trả thù mà lịch sử đã ghi lại.
Lão giáo mà giáo lý lấy trọn trong sách Đạo Đức
Kinh, khai triển song song đến các tư
tưởng triết lý tuyệt diệu của Thiên Chúa giáo, mặc dù Lão giáo xuất hiện
trước Thiên Chúa giáo gần 600 năm. Lão giáo dạy tôn thờ sự thật và giữ gìn đức
tánh. Điều nầy chứng tỏ rằng người ta có thể gặp nơi các quốc gia (Á đông) xem
như còn mọi rợ đối với một Âu châu già nua của chúng ta, sự thực hành những câu
phương ngôn dịu hiền và nhân từ, cốt yếu giữ gìn sự hòa hợp và lòng lương thiện
giữa loài người.
Nho giáo (Khổng giáo) mà những lời giáo huấn không
phản đối tinh thần khoa học tân thời của chúng ta, luôn luôn tỏ ra lo âu là
muốn nâng cao nhơn loại lên trên các thú tánh bằng cách mở mang phát triển các
phẩm chất tốt đẹp, tạo ra một tinh hoa tinh thần và trí thức, để dẫn dắt đến
hạnh phúc cho những người bất lực, dốt nát, bởi họ thiếu các yếu tố ban đầu về
sự thông minh, lý trí và hiểu biết.
Giáo lý của Ba Đấng Giáo chủ thêm vào tôn giáo lòng
bác ái và nhân từ của Đấng Christ, sự kính trọng người chết và sự thờ cúng tổ
tiên.
Tóm lại, Đạo Cao Đài là bằng chứng của lòng khoan
dung đại độ đối với tất cả các tôn giáo hiện hữu, bởi vì nó bao gồm tất cả, nó
tự cho mình có mục đích là chống lại tà giáo, gieo vào dân chúng lòng thương
yêu điều thiện và thương yêu vạn vật của Thượng Đế, thực hành đạo đức, học tập
sự yêu mến công lý và sự nhẫn nhục, phát hiện về luật quả báo các hành động của
con người sau khi chết, sự tẩy trược tâm hồn.
Đối với tất cả lời chỉ dẫn, gởi đến cho:
- Ngài Phạm Công Tắc, lãnh đạo cao cấp của Đạo Cao
Đài, Tòa Thánh Tây Ninh.
- Ông Đặng Trung Chữ, Chủ trưởng Hội Thánh Ngoại
Giáo tại Nam Vang.
- Ông Trần Quang Vinh, Phó Chủ trưởng Hội Thánh
Ngoại Giáo tại Nam Vang.
- Bà Batrya (Trần Kim Phụng), Giáo Sư, Chủ trưởng
Nữ phái tại Nam Vang.
Hiệp
Thiên Đài:
"Ông Cao Đức Trọng, Tiếp Đạo (đồng tử) tại Nam
Vang.
Tại Âu Châu:
Ông Gabriel Gobron, Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại nước Pháp
của Phật giáo canh tân, được giải thưởng của Hàn Lâm Viện Pháp, ở số 12 đường
Thiers, Rethel (Ardennes), Pháp.
Thư từ quốc tế: tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Ý,
tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha.
Những đại diện khác:
- Ông Charles, cựu Giám đốc Sở Dân sự Đông dương,
số 8 công trường P. -Royal, Ba-lê.
- Ông Henri François, Văn khố thành phố Nantes (Loire-Inférieure) Pháp.
- Ông Gabriel Abadie, Giáo Hữu, Sở Tư pháp, Hà Nội.
- Ông Delagarde, Lễ Sanh, P.T.T. Hà Nội.
- Ông Bùi Quế, Lễ Sanh, làng An Cựu, thôn Nhi Tây,
Huế, Việt Nam.
- Ô. Mai Văn Nghĩa, Lễ Sanh,130 đường Huế, Hà Nội
- Nguyễn Văn Khỏe, Lễ Sanh, Chánh Thơ ký Sở Thương
chánh, vv ...
Nhiều nhựt báo loan tin: Đại lễ của Đạo Cao Đài Kỷ
niệm Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung :
Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh từ mấy ngày nay rất nhộn
nhịp. Hàng ngàn tín đồ ráo riết làm việc để hoàn thành các việc chuẩn bị lễ Kỷ
niệm người quá cố cho xứng đáng.
Cuộc lễ bắt đầu từ thứ năm ngày 26 tháng 11 lúc 19
giờ, kéo dài trong 3 ngày. Hội Thánh sẽ thiết lễ. Cũng trong dịp nầy, sự tự do
thờ cúng mà chủ nghĩa tự do của Chánh phủ Pháp được ban cho tôn giáo. Tất cả
địa phương của Đạo Cao Đài ở Đông Dương đều được kêu gọi về Tòa Thánh dự lễ.
Một chương trình vĩ đại được tiên liệu: "Đốt đuốc, cộ hoa rực rỡ, pháo bông. Một
đại lễ sắp diễn ra. Người ta quả quyết rằng, đây là cuộc lễ lớn nhứt từ khi lập
Đạo Cao Đài."
Tờ báo La Vérité [Sự thật] (ngày 20-11-1936) báo
cáo những sự việc vui vẻ bằng từ ngữ : "
Nơi Tòa Thánh Cao Đài, 20 ngàn tín đồ làm lễ Kỷ niệm Khai Đạo lần thứ 10 và lễ
mãn tang Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung."
Ngày 28 tháng 11, đặc phái viên của chúng tôi gởi
về: Từ tất cả các nơi ở Nam Kỳ, Cao Miên, cả vài bộ tộc thiểu số (Mọi), hàng
ngàn tín đồ đi đến Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh vào các ngày nầy để dự lễ Đại
Tường và tiếp theo là lễ mãn tang Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung.
Đúng 2 năm, Đức Quyền Giáo Tông của Đạo Cao Đài từ
trần - dùng một từ ngữ tỏ ý tôn kính qui Thiên.
Sự chia rẽ trong Đạo Cao Đài thành hai phe lớn đối
nghịch nhau sắp hoàn toàn tiêu hủy nhơn dịp bổ nhiệm người kế vị. Nơi Thánh
địa, Hội Thánh thận trọng chỉ định Ngài Phạm Công Tắc vào chức vụ lãnh đạo tối
cao tạm thời, nhưng không cho một danh hiệu chánh thức của tôn giáo.
Còn ở Mỹ Tho, ông Nguyễn Ngọc Tương được ban cho
danh hiệu Giáo Tông bởi vài trăm tín đồ. Vị Giáo Tông mới nầy được bổ nhiệm như
thế, được hộ tống bởi một đám đông ủng hộ, đến Tòa Thánh Tây Ninh để nhậm chức
và cũng để tham dự lễ Đại Tường.
Cổng vào Tòa Thánh của Đạo Cao Đài bị cấm, không
cho vị đứng đầu chi phái Mỹ Tho vào, bởi vì chỉ có nơi Thánh địa, lời nói chơn
thật và thiêng liêng (của Đức Chí Tôn) truyền dạy các Chức sắc cao cấp của Đạo
do cơ bút của đồng tử. Phải chăng Đấng Cao Đài đã chỉ định Ngài Phạm Công Tắc
vào phẩm vị lãnh đạo tối cao của Đạo ?
Người ta hiểu rằng, từ đây, tại sao các vị lãnh đạo
Cao Đài tổ chức lễ Đại Tường huy hoàng hiếm có. Những cộ hoa đi diễn hành trong
tỉnh lỵ Tây Ninh không bị Tỉnh trưởng ngăn cấm. Chúng tôi nghĩ rằng, sự ngăn
cấm đó không chánh đáng, bởi vì tất cả đều diễn ra trong bình yên ở khắp nơi.
Cộ hoa, rước đuốc, pháo bông trong 3 ngày lễ làm tăng thêm sự vui mừng của dân
chúng. Ánh sáng đèn điện rực rỡ làm cho vùng Thánh địa có vẻ là một thành phố
nhỏ náo nhiệt.
Chúng tôi có gặp các vị lãnh đạo cao cấp nhứt.
Người đứng đầu hiện thời của Đạo mà chúng tôi trước đây đã sát cánh cùng nhau
trước khi cải sang Đạo Cao Đài, đã làm việc trong Sở Thương chánh, trong lúc
đó, người bạn thời niên thiếu của chúng tôi là Lê Thế Vĩnh, Trưởng ban Nghi lễ,
đã chiến đấu như là "Thanh niên Việt Nam" để cải thiện số phận của
dân tộc Việt Nam.
Chiều nay là lễ mãn tang Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn
Trung, những bài diễn văn sẽ được đọc lên cho chúng ta biết về tình hình hiện
tại của nền Đạo Cao Đài, những khuynh hướng, những khả năng và về tương lai của
Đạo.
Người ta biết rằng, Đạo Cao Đài phát sinh từ năm
1926, dưới sự thúc giục của phong trào xây bàn nhập cảng từ nước Pháp. Nhưng có
điều quần chúng không biết là có một người Pháp lai, độc giả trung thành của
Léon Denis và Allan Kardec, đã bỏ tiền túi ra để đi truyền bá những tư tưởng về
Thần linh học trong thuộc địa, việc nầy góp phần không ít vào sự phát triển
nhanh chóng lạ thường của nền Tân tôn giáo, đặt trên cùng một hàng Bốn Đấng
Giáo chủ: Khổng Tử, Lão Tử, Thích Ca và Jésus Christ. Chủ nghĩa tổng hợp lạ
thường nầy giải thích rõ hơn nữa sự thành công mau lẹ của phong trào bên cạnh
những người VN và cả người Cao Miên nữa.
Chánh phủ Pháp có thể lo sợ trong một lúc nào đó về
nền Tân tôn giáo phát sinh chậm trễ giữa thế kỷ 20 nầy, nhưng về sau, những nhà
lãnh đạo tôn giáo của chúng ta được phép truyền đạo nơi Bắc Kỳ, những phái bộ
truyền giáo Cao Đài được đi Pháp, Trung hoa.
Sự biểu lộ hiện thời tại Tây Ninh, phải chăng là
điểm khởi đầu cho sự củng cố và bành trướng phong trào, đã bị ngưng trệ trong
suốt năm qua ?
Phải chăng các vị lãnh đạo tôn giáo Cao Đài nuôi
tham vọng trở thành những nhà lãnh đạo tinh thần của một phần Viễn Đông nhờ vào
sự phát triển của Đạo Cao Đài ?
Một tương lai không xa sẽ cho chúng ta cái chìa
khóa của những bí ẩn nầy.
Đặc phái viên SROK - SAROU
LỄ KHÁNH
THÀNH
Thánh Thất Nam Vang
Lễ Khánh Thành long trọng Thánh Thất Nam Vang được
tổ chức vào thứ bảy, ngày 22 tháng 5 năm 1937, trong đó bài diễn văn của Giáo
Sư Thượng Vinh Thanh, Phó Chủ trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo của Đạo Cao Đài (Phật
giáo canh tân) là phần chánh. (Người ta tin rằng
ông Vinh là François Hugo tái kiếp).
Sau đây là vài đoạn trích lục dài của bài diễn văn
trên:
Khi Hội Thánh chỉ định tôi mở lời hôm nay nhơn dịp
chúng tôi sắp khánh thành Thánh Thất đầu tiên được xây dựng trong thủ đô Vương
quốc Cao Miên, đã từ lâu tôi ngần ngại nhận lãnh cái danh dự đặc biệt nầy, sợ
rằng không đủ sức cho một sứ mạng nhiều khó khăn và tế nhị.
Phải cần có sự khẩn khoản của tất cả các hiền huynh
trong Hội Thánh, đặc biệt của vị niên trưởng, Giáo Sư Thượng Bảy Thanh, là
người đáng kính của chúng tôi, có công đầu trong Hội Thánh Ngoại Giáo của Đạo
Cao Đài hay Phật giáo canh tân, đã chỉ định tôi xuất hiện hôm nay trước đông
đảo quan khách dễ cảm kích và được chọn lựa.
Nói tiếng Pháp còn chưa chắc chắn và nhất là không
quen lên diễn đàn, tôi yêu cầu quí vị khoan hồng đối với tôi.
… Xin quí Bà và quí Ông tin rằng, trong ngôi nhà
nầy, quí vị sẽ tìm được sự hoà bình và hòa hiệp, sự khoan dung rộng rãi nhứt, ở
đây không có một tiếng nói nào có tính cách bất hòa được thốt ra, tất cả mọi
người nơi đây đều có bổn phận thương mến nhau như anh chị em ruột, vâng theo
một luật pháp duy nhứt của Thượng Đế, Đấng Tạo Hóa, Đại Từ Phụ của tất cả,
không phân biệt chủng tộc và quốc gia.
Chúng tôi chọn ngày khánh thành Thánh Thất đầu tiên
nơi đây là ngày Kỷ niệm thoát xác của một người Pháp vĩ đại, một nhân vật vĩ
đại: đó là Victor Hugo, mà từ năm 1927, Ngài là Chưởng Đạo thiêng liêng đáng
kính mến của chúng tôi. Chúng tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn nước Pháp, nước đã
sanh ra một nhà thơ vĩ đại mà chúng ta đã học và yêu mến khi còn trên ghế nhà
trường Pháp, một nước Pháp anh hùng, hào phóng và nhân đạo.
Chính năm 1927, vị lãnh đạo cao cấp của Đạo Cao Đài
hiện nay, Ngài Phạm Công Tắc, đã đến xứ Cao Miên và chơn linh Victor Hugo giáng
đàn trước tiên nhờ việc xây bàn, kế đó là nhờ một miếng ván nhỏ làm cơ và sau
cùng là cây Ngọc cơ. Nhờ đó thiết lập được Hội Thánh Ngoại Giáo của Đạo Cao Đài
mà chơn linh Victor Hugo trở thành Chưởng Đạo thiêng liêng của chúng tôi. Nhờ những lời giáo huấn của
Ngài, chúng tôi truyền bá giáo lý mới, trước tiên là trên lãnh thổ Cao Miên, kế
đó sang Pháp, rồi Lào, sau đó là Trung Kỳ và Bắc Kỳ."
"Tiếp theo xin bày tỏ lòng kính trọng đến
những vị thường xuyên vận động nơi nước Pháp hay nơi Đông Dương để binh vực Đạo
Cao Đài như: Luật sư Roger Laseaux, Luật sư Lortat Jacob, Thủ Tướng Albert
Sarraut, các Thống sứ Richome, Silvestre, Thibaudeau, các Dân biểu H. Guernut, Marius Moutet, E. Outrey, Paul
Ramadier, Marc Rucart, Jean Piot, J.-M. Renaitour, M. Voirin, A. Philip, Cô
Marthe Williams, Trung tá Alexis Métois, Félicien Challaye, ông E. Tozza,
Gabriel Abadie de Lestrac, Jean Laffray (Chủ nhiệm báo La Griffe (móng vuốt),
Charles Bellan, cựu Thống sứ Pháp tại Cao Miên, vv ... Chúng tôi xin cáo lỗi sự thiếu sót ngoài
ý muốn trong bài tường trình mau lẹ nầy.
Như vậy, chúng ta họp nhau đây trong sự long trọng
là để khánh thành "Ngôi nhà của
Thượng Đế" tại Nam Vang.
Thời gian đã qua khá xa, nơi đảo Phú quốc nằm trong
vịnh Thái lan, Đấng thiêng liêng giáng điển giống như đã giáng điển nơi đảo
Jersey, đối diện cái vô tận của biển cả, đối diện cái vô cùng của bí ẩn tâm
linh và số phận con người, qua các cuộc xây bàn của Bà De Giradin và Victor
Hugo.
Thời gian cũng đã khá xa, Đấng thiêng liêng giáng
điển xuống những nhóm nhỏ gia đình ở Sài Gòn, dẫn đến sự nhập đạo của Ngài Lê
Văn Trung và Ngài trở thành nhà lãnh đạo cao cấp đáng kính của Đạo Cao Đài hay
Phật giáo canh tân (Đại Ân Xá kỳ ba của Thượng Đế ở Đông phương).
Từ năm 1919, nhưng nhứt là từ năm 1925, phong trào
của chúng tôi không ngừng trở nên vững vàng và chiếm được lòng tín ngưỡng và
những tâm hồn mới trên khắp thế giới.
Quả thật, - giống như tất cả những cái mới nổi bật
của thế giới - Đạo Cao Đài đã gặp phải chủ nghĩa hoài nghi, sự nhạo báng, sự
ngờ vực, về những biểu tượng của Đạo có ý nghĩa nhứt: Thiên Nhãn mà người ta
thấy trong nhóm Thông Thiên học và Triết lý học, chữ Vạn có nguồn gốc từ tất cả
chủ nghĩa biểu tượng và từ tất cả khoa học bí truyền của nền văn minh thế giới.
Những biểu tượng ấy đáng kính nhứt của chúng tôi đã bị chế nhạo hay bị buộc tội
vô căn cứ, vì lý do dốt nát và không hiểu biết của những kẻ phàm tục, chỉ thấy
chúng tôi ở mặt ngoài.
Một câu tục ngữ xưa của Pháp: Nếu anh muốn nhổ cỏ
dại, trước hết anh phải bước vào vườn.
Nhưng nhứt là về căn bản tâm linh, tại sao lại sợ
hãi gọi con mèo là con mèo và Rollet là một tên bịp bợm, theo những câu thơ bất
hủ của Boileau ? Nhứt là về căn bản Thần
linh học của phong trào chúng tôi là đầu đề của những chế giễu dễ dàng nhứt và
dai dẳng nhứt. Ở đây, chúng tôi không biện hộ cho Thần linh học tân thời. Mặc
dầu bị tấn công không ngừng từ ba phần tư của thế kỷ, vấn đề Thần linh học
không ngừng thu hút những nhà bác học nổi tiếng, mà chúng tôi xin đơn cử một
thí dụ thôi, như Ngài Olivier Lodge, nhà vật lý nổi tiếng thế giới, Viện trưởng
Đại học Birmingham, hội viên Hàn Lâm viện Hoàng gia Anh quốc.
Thần linh học không ngớt lan tràn đến các đảo như
Porto Rico và Cuba (nước mà Thần linh học tỷ lệ với dân số, nơi đó những đài
phát thanh vô tuyến đã phát ra đều đặn những chương trình Thần linh học), toàn
nước Ba Tây, quê hương của Thánh kinh, nơi đó có 8 triệu người tự nhận theo
Thần linh học (200 ngàn tại Rio-de-Janeiro). Thần linh học không ngừng lan tràn
đến các Đại học đường - một sự kiện khó tin - bởi vì Utrecht, Leyde, Belgrade,
Lund, Buenos-Ayres, Londres, nhiều phân khoa đại học Mỹ đã có giảng đường dành
cho Thần linh học thực nghiệm.
Sau cùng nó không ngừng được thiện cảm ở tư tưởng
gốc trong thời đại của chúng ta, bởi vì sau khi nó quyết định một cách không
thể chối cãi được tính chất tiên tri sứ mạng và sự nghiệp của Victor Hugo, nó
đã ảnh hưởng đến những khảo cứu của Bác sĩ Hans Driesch, Giáo sư Đại học
Leipzig, lý thuyết gia Đức, về thuyết Tân sinh lực và những thử nghiệm sáng
chói của Allan Kardec và của Bergson nữa.
Còn bao nhiêu chuyện nữa mà chúng tôi có thể nói
lên để binh vực sự kiện Thần linh học, nhưng chúng tôi cần chỉ ra rằng, sự dốt
nát khi không có định kiến, rất thường vấp phải sự thiếu hiểu biết đau khổ của
con người. Một hiền triết Anh nói rằng: Thương hại cho những người nào không
giữ được nụ cười trước những lời chỉ trích nông cạn !
Vả lại, chúng tôi đã giữ kín cây ngọc cơ, để nhớ
đến Giáo hội Công giáo, những nhà Thần
linh học huệ trí, rằng việc thực hành Thần linh học (Cầu cơ) có thể đạt được
kết quả tốt đẹp khắp nơi trên địa cầu, cái điểm khởi đầu của một thời đại mới của
con người: thời đại Thần linh học; nhưng nó cũng có thể dẫn dắt những người
ngây thơ không thận trọng, những kẻ hư đốn, đến những kết qủa rất tai hại. (Có
nhiều nhóm Thần linh học trong vùng băng giá ở Alaska, trong những trang trại
thuộc đồng cỏ hoang ở Argentine, trong cảng thiên nhiên tươi tốt ở Ấn Độ).
Xưa kia, Thánh Paul khuyên bảo các môn đồ nên nhận
thức rõ các chơn linh. Và đây là Giáo hội Anh giáo lúc bấy giờ bị cả triệu tín
đồ đào ngũ, đã cho một số giáo sĩ tiếp
xúc với các hội Thần linh học để củng cố lại đức tin bởi chứng cớ, để củng cố
tôn giáo bởi khoa học, để liên kết trong chiều hướng mới được kêu gọi bởi nhơn
loại. (Một người lớn trên bảy còn lui
tới ở Giáo hội Anh giáo).
Nhưng, cái gì là đặc điểm của Đạo Cao Đài hay Phật
giáo canh tân ? Đó không phải là căn bản
thực nghiệm tâm linh hay thần linh, sự thông công giữa người sống và người
chết, tình huynh đệ vẻ vang cảm động của thế giới hữu hình và vô hình, mà là
cái năng lực tổng hợp các giáo lý mà chúng tôi đã thực hiện một cách đúng đắn
bằng cách tôn thờ các Đấng Thần linh Á châu
lẫn các Đấng Thần linh Âu châu.
Không một Ngôi nhà Thượng Đế nào sánh được với Ngôi
nhà Thượng Đế của chúng tôi, bởi vì người Âu châu cũng như người Á châu, người
có tín ngưỡng cũng như người không tín ngưỡng, đều có thể nâng cao linh hồn của
họ lên đến cái mức hy vọng ưa thích nhứt của họ, kẻ thì tôn thờ Đức Chúa Jésus,
người thì tôn kính Đức Phật Thích Ca, kẻ thì chiêm ngưỡng Đức Khổng Tử (như
những người tự do tư tưởng ở Tây
phương).
Hãy nói cho chúng tôi biết, hiện nay quí vị thấy ở
nơi nào, có sự tổng hợp tâm linh đó ?
trong cái thế giới bị chia rẽ bởi vật chất, nóng sốt bởi thù hận, đổ máu
bởi chiến tranh.
Không một nơi nào có thể hơn Thánh Thất Cao Đài, vì
nơi đây, người ta làm việc trong tình huynh đệ của con người, trong tình thân
hữu của các chủng tộc, trong sự liên hiệp các lục địa trong một tập hợp rộng
lớn của con người, viết lên lá cờ lịnh hai chữ: Tâm linh - Hòa bình, sáng chói
của những người thiện tâm.
Thế nên chúng tôi dám nói thẳng với người phương
Tây rằng : Chúng tôi vì hòa bình.
Hòa bình, đối với chánh quyền và những lãnh tụ của
đời, họ có sứ mạng thường bạc bẽo và khó khăn để làm thỏa mãn sự buông thả dục
vọng, trái ngược của con người. Hòa bình đối với những quốc gia láng giềng, hòa
bình đối với người ngoại quốc, bởi vì chiến tranh đem lại quá nhiều điều ác, để
không là mê tín hung tợn hay là tội ác của quỉ, với tiêu đề Pháp ngữ : Hòa bình
liên kết của một nền hòa bình không thể phân chia, hòa bình bởi hòa hợp, nằm
trong công thức của chúng tôi, mặc dầu trong thời buổi hắc ám. Đó là cái nghĩa
của sự tổng hợp tâm linh của chúng tôi.
Trở qua Âu châu, quả thật có một phiền trách nhỏ là
Đạo Cao Đài đã loại ra Mahomet và Hồi giáo khỏi các Thánh
Thất. Về phần chúng tôi không có sự loại trừ ấy.
Và chúng tôi cần lập lại nơi đây, một trong những
giáo huấn thần bí của Hồi giáo để nhận xét rằng, không một người Cao Đài nào
không từ chối nhận biết đó, bằng giai thoại của thuyết thần bí Hồi giáo, lịch
sử từ sự sanh ra của chính mình đến thiêng liêng, từ sự đảo nguợc giá trị tâm hồn người tu:
Một môn đồ đến trước cửa nhà của thầy và gõ cửa. Im
lặng. Người ấy gõ cửa lần nữa.
Một tiếng nói từ bên trong phát ra :
- Ai đó ?
- Tôi (Bản
ngã)
Im lặng. Cửa không mở . . . . .
Sau đó, người môn đồ lại đến trước nhà thầy lần nữa
và gõ cửa. Một tiếng nói từ bên trong phát ra :
- Ai đó ?
- Anh (Phi
ngã hay Vô ngã)
Và lần nầy cửa mở.
Thật ra, một tôn giáo biết truyền bá cái chơn lý
phổ quát như thế, một tôn giáo đã dạy các tín đồ những câu tuyệt diệu: "Tôi không là người Hồi giáo, không là
Thiên Chúa giáo, không là Do Thái giáo, tôi là bạn thân của Thượng Đế".
Tôi nói : Thật ra, tôn giáo nầy không phải là của riêng
phần chúng tôi, là của một âm mưu nào, là của một phép phù thủy nào; rằng những
người Hồi giáo ở Ấn độ, rằng những người Hồi giáo ở Pháp, xin hãy tín nhiệm
chúng tôi và hãy an tâm cho tất cả điều thiện.
Và vì chúng tôi vừa nói đến người Pháp Hồi giáo có
xây cất Thánh đường Hồi giáo tại Ba-lê, nơi đó mỗi ngày năm lần vang lên từ
tháp chuông cao, tiếng gọi của vị tu sĩ báo giờ cầu nguyện, làm chúng tôi cảm
thấy nhẹ nhàng, hôm nay xin cảm tạ tận đáy lòng, đầy tình chơn thật và biết ơn
nước Pháp của Đạo Cao Đài, nước Pháp mà với tinh thần độ lượng, với ý chí hòa
hiệp, đôi tay hữu nghị luôn luôn giúp đỡ những kẻ yếu thế mà họ không thể tự
mình thực hiện, cho phép chúng tôi hưởng được những gì mà chúng tôi hưởng được,
giúp đỡ chúng tôi trở nên cái gì mà chúng tôi sẽ được.
Tại nước
Pháp nầy, bao gồm Đại Ân Xá kỳ ba của Thượng Đế ở Đông phương, cái nền tảng tâm
linh mà khoa học có thể đạt đến sự phổ quát toàn cầu bởi tính chất tổng hợp tôn
giáo mà nó liên kết và thu gọn trong tình huynh đệ hằng hữu, trong hòa bình và
năng động.
Tại nước Pháp nầy, khuyến khích và tán trợ một
nguồn hy vọng mới trên thế giới mà hôm qua còn chào đón, không chỉ tờ tuần báo
như La Nature (Thiên nhiên) ở Ba-lê, tờ Religio của La Mã, và tờ Reformator ở
Rio-de-Janeiro.
Tại nước Pháp nầy luôn luôn sẵn sàng tán dương và
ca tụng những giá trị tinh thần có tính phổ quát, xây dựng và nhân đức. Đạo Cao
Đài hay Phật giáo canh tân, từ vị lãnh đạo cao cấp và từ Hội Thánh đến các tín
đồ thấp kém, hôm nay bày tỏ lòng biết ơn vô tận nước Pháp.
Làm việc với tinh thần tổng hợp, trong cái nghĩa
phổ quát, chúng tôi có ý thức góp công như một người Pháp, được gần gũi hơn nữa
với tâm hồn người Pháp, với những điều đó chúng tôi tin tưởng có được những
tương quan bí mật huyền diệu mà sự thông công giữa người sống và người chết
không thể tùy thuộc chúng tôi, mà sẽ được làm mạnh thêm và thí nghiệm ở tương
lai.
Trước nhận định lạc quan đó, chúng tôi mới dám bày
tỏ điều mong ước quí báu nhứt của chúng tôi đối với mọi người là : nước Pháp tự
do, đại lượng, giúp đỡ chúng tôi mở rộng việc hành thiện với tất cả cố gắng
trên tất cả dân Pháp hay dân bảo hộ, không phân biệt, bởi vì trước sự đói khát
của tâm hồn, phải có những khả năng tinh thần để cân bằng cho tất cả. Nơi đó là
công bình, nơi đó là chánh trực.
Tất cả có thể tự thực hiện đến tối đa và tất cả
cũng có thể hướng đến tất cả để làm việc tại lâu đài thiêng liêng, lầu đài của
tâm hồn, theo câu nói rất đẹp của Nữ Thánh Thérèse, trong con người bản xứ phù
du mà bánh xe đời sống ràng buộc tạm thời số phận vào những cõi Trời, nơi đó
địa cầu của chúng ta chỉ là một cục đá giữa hàng tỷ hòn đá khác trong không
gian vô tận. . . . .
Trước viễn cảnh vô tận ấy, những giới hạn hẹp
hòi làm chậm lại một cách đau khổ sự
phát triển của tâm hồn mà sự thức tỉnh chờ đợi một tia sáng hay một ánh lửa
? Vì vậy, chúng tôi tin tưởng rằng nước
Pháp sẽ hoàn toàn tin cậy chúng tôi và ban cho chúng tôi những quyền hành giống
như các tôn giáo khác, để mời đến dự bữa tiệc có nhiều thức ăn thiêng liêng,
những huynh đệ của chúng tôi mà họ chưa đến được với chúng tôi hay chúng tôi
chưa đến được với họ.
Nước Pháp, trung thành với truyền thống cao cả,
trước hết chúng tôi xin cảm tạ, đã cho chúng tôi phụng sự nhơn sanh, đó là bổn
phận đầu tiên và lớn nhứt của tất cả tín đồ Cao Đài.
Cuộc lễ khánh thành nầy gây được nhiều tiếng vang
trong giới báo chí Đông Dương.
Nhựt báo La Presse indochinoise ngày 22-4-1937 nói
về cuộc viếng thăm Thánh Thất Cao Đài Nam Vang:
Thánh Thất Cao Đài Nam Vang tọa lạc gần góc đại lộ
Pasquier và đường Verdun. Khi xưa, cách nay 8 năm, Thánh Thất nầy chỉ là một
ngôi nhà lá đơn giản làm chỗ trú ngụ cho những nhà truyền giáo đầu tiên.
Sau nhiều cố gắng đáng khen của việc truyền giáo,
số tín đồ Cao Đài tại Nam Vang có được hơn hai chục ngàn người nam nữ, trong đó
đếm được nhiều người Âu châu và cả ngàn người Tàu.
Nhờ lòng hy sinh và thiện tâm của tất cả tín đồ mà
ngôi đền thờ hôm nay trở thành một tòa nhà lộng lẫy.
Lễ Khánh Thành diễn ra ba ngày : 21, 22, và 23
tháng 5, cũng trong dịp nầy, lễ Kỷ niệm hàng năm của Victor Hugo được cử hành.
Nghi lễ của hai cuộc lễ hợp lại làm một làm cho cuộc lễ trở nên vĩ đại.
Những vị lãnh đạo cao cấp của Đạo Cao Đài Tây Ninh
như Ngài Phạm Công Tắc, Bà Huyện Xây (?) sẽ hiện diện trong cuộc lễ. Ông Đặng
Trung Chữ, lãnh đạo Cao Đài tại Nam Vang, hẹn gặp chúng tôi tại Thánh Thất hôm
nay, nhưng ông bị gọi cấp tốc đi Châu Đốc nên ông Hương thay thế, hướng dẫn
chúng tôi đi viếng Thánh Thất mới vừa xây dựng lại. Ông Hương, người ốm với
gương mặt trái xoan, trán cao, có một chòm râu đen dưới càm, tượng trưng hình
dáng của một kiểu mẫu Chức sắc của Đạo Cao Đài.
Rất tháo vác, ông đưa chúng tôi đi viếng Thánh Thất
vừa được trang trí mới và cho chúng tôi những lời giai thích thỏa đáng. Nơi cửa
lớn vào đền thờ, một bức hình lớn của Victor Hugo với dáng điệu cổ điển của nhà
tư tưởng, làm cho người ta chú ý ngay.
Bên cạnh Ngài trên cùng một bàn thờ là
hình của Bác sĩ Tôn Dật Tiên, người cha của cách mạng Trung hoa. Một vị tượng
trưng người canh tân của Đạo Cao Đài, vị kia là người truyền đạo tuyệt vời.
Ở giữa là chánh điện trang nghiêm, sắp đặt một cách
giản dị. Không trang trí dư thừa, có một quả địa cầu bằng giấy, một Con Mắt vẽ
lên trên, kế đó, theo thứ tự đẳng cấp, sắp đặt các tượng của Đức Phật Thích Ca,
Đức Chúa Jésus, các vị Thánh. Bên phải của chúng tôi là tượng Quan Công với
gương mặt đỏ tươi đang đọc sách, bên trái của chúng tôi là tượng Đức Phật Quan
Âm đang cầu nguyện. Cuối cùng, đối diện với chánh điện, có một tấm cẩm thạch
lớn treo trên tường, khắc các tên : Moutet, Guernut, Albert Sarraut, Félicien
Challaye, vv. . .
… Bên cạnh tôn giáo nói riêng, tín đồ Cao Đài còn
chăm lo việc giáo dục trẻ em. Chúng tôi viếng một lớp học, điều khiển bởi một
giáo viên trẻ, có độ 20 học sinh, đang đọc bài học thuộc lòng với giọng lớn và
nhịp nhàng đáng khen. Tất cả đều là con em nhà đạo. Ông Hương nói với chúng tôi
trong sự thỏa mãn, vừa đưa chúng tôi ra về.
Vừa rời khỏi Thánh Thất và người hướng dẫn, chúng
tôi có cảm tưởng rằng những người điều khiển Đạo Cao Đài tại Nam Vang có công
rất nhiều cho sự đắc thắng của nền đạo, những kết quả đạt được là bằng cớ tốt
nhứt cho công trình bền vững của họ, nó còn tôn vinh những thành công trong lễ
Khánh thành sắp tới.
Tờ báo L’Opinion (Công luận) ngày 24-5-1937 thuật
lại Lễ Khánh Thành như sau :
Theo chương trình dự thảo, Thánh Thất Cao Đài Nam
Vang được khánh thành vào ngày thứ sáu bởi nhiều cuộc lễ, chúng tôi sẽ trở lại
những cuộc lễ nầy, bởi vì trên tờ báo hôm nay chúng tôi thiếu chỗ đăng bài
tường thuật chi tiết.
Tuy nhiên đây là bài diễn văn ngắn của Ngài Thượng Chữ
Thanh, Chủ trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo của Đạo Cao Đài trong ngày lễ đầu tiên :
Tôi hoàn toàn tri ân quí vị đến dự đông đảo lễ
Khánh Thánh Thánh Thất đầu tiên của Đạo Cao Đài tại Cao Miên, mà cũng là ngày
lễ kỷ niệm hằng năm của vị Chưởng Đạo thiêng liêng của chúng tôi : Victor Hugo.
Nhơn danh Hội Thánh Đạo Cao Đài, tôi xin gởi đến
quí Bà quí Ông lời cảm tạ nồng nhiệt nhứt của chúng tôi đối với tấm lòng chiếu
cố tốt đẹp của quí vị.
Có lẽ quí vị đã biết sự phát sinh của Đạo Cao Đài
hay Phật giáo canh tân bởi những đường lối công khai khác của chúng tôi. Quí vị
đã thấy cái nguồn gốc của nó được phát sinh từ sự liên hiệp của triết lý Đông
phương và triết lý Tây phương. Đó là sự tổng hợp tất cả đức tin của thế giới.
Chúng ta hiểu thế nào về triết lý Đông phương ?
Phải chăng triết lý ấy đến từ những tư tưởng triết lý cao siêu của tất cả các tôn
giáo Á châu mà phần lớn ở nước Trung
hoa, trừ ra Phật giáo thì nguồn gốc ở Ấn độ, nhưng Phật giáo đã có hàng ngàn
năm nhập tịch vào Trung hoa và VN.
Triết lý làm nền tảng đạo đức Á châu đã cho các nước phương Đông một nền văn minh
nhiều ngàn năm mà nước Trung hoa được xem là then chốt. Nước Việt Nam hưởng lợi
của nền văn minh nầy một cách rộng rãi.
Nhờ dụng cụ thông công của Thần linh hoc, chúng tôi
nhận ra rằng một sự cải cách tình trạng đạo đức của toàn nhơn loại là cần thiết
cho sự tiến hóa tâm linh của nhơn loại.
Tinh thần của nhơn loại đã đến một thời kỳ, nơi đó
những giáo điều và giáo lý xưa không thể thỏa mãn sự bành trướng tự do hơn và
siêu việt hơn. Một kỷ nguyên mới dành cho nhơn loại; kỷ nguyên mới nầy cho nhơn
loại một chân trời rộng rãi hơn về tự do tín ngưỡng. Một đức tin mới phải được ban cho nhơn loại.
Đức tin nầy phải bao hàm tất cả đức tin hiện hữu, tất cả được bảo tồn trong cái
thanh khiết triết học, nơi đó danh từ Cao Đài (Đền thờ cao hay Đức tin lớn của
thế giới) được sáng tạo bởi Đấng thiêng liêng.
Đạo Cao Đài hay Phật giáo canh tân thực hành sự
khoan dung rộng rãi đối với tất cả các tín ngưỡng. Nó tôn kính tất cả tín
ngưỡng của con người cũng như tôn kính
cái Tâm của vũ trụ, sự biểu thị của Thượng Đế. Biểu tượng con Mắt trên bàn thờ
của chúng ta là hình ảnh của cái Tâm cá nhân và cái Tâm vũ trụ. Sự thờ phượng
của chúng tôi là thờ Thượng Đế và nhơn loại. Sự biểu hiện bên ngoài của tôn
giáo mới của chúng tôi cốt gom tất cả tư
tưởng về số 1 ban đầu : cái Tâm của chính mình và cái Tâm của Thượng Đế.
Một tiếng nói trong nội tâm cho chúng tôi biết rằng
: nhơn loại là một : một ở quốc gia, một ở tư
tưởng, một ở tôn giáo. Ý nghĩ thống nhứt hoàn toàn nhơn loại trong một
quan niệm mới của lòng Bác ái và Công bình, có thể sẽ cho thế giới một nền hòa
bình lâu dài để thực hành điều thiện.
Đạo Cao Đài hay Phật giáo canh tân có khuynh hướng
kết tình huynh đệ với tất cả chủng tộc và thống nhứt các tâm hồn bằng cách
thuyết giảng cho mọi người nghe về hòa bình và hòa hợp. Đó là những hàng chữ
lớn trong Hiến pháp thiêng liêng (Pháp Chánh Truyền) của chúng tôi, đã được thi
hành bởi các Chức sắc của Đạo.
Kính thưa quí Bà quí Ông, quí huynh tỷ thân mến,
Tôi xin chấm dứt bằng lòng tin và cầu chúc ơn huệ
thiêng liêng ban cho quí vị và toàn cả nhơn loại.”
Tờ báo La Presse indochinoise ngày 25-5-1937, với
một phóng sự khá dài trình bày chi tiết những giai đoạn quan trọng của cuộc lễ,
chúng tôi chỉ trích ra vài nhận thức mới:
Lễ Khánh thành Thánh Thất Cao Đài Nam Vang, đã cử
hành từ ba ngày qua, đạt được thành công rực rỡ trong dân chúng của thủ đô Cao
Miên và là dấu ấn của tính chất vĩ đại và long trọng.
Hàng ngàn khán giả, hàng ngàn tín đồ, đến từ Nam Kỳ
và các vùng hẻo lánh của Cao Miên, tràn ngập hoàn toàn ngôi đền thờ và phạm vi
của nó trở nên quá hẹp để chứa đám đông không ngừng lớn thêm.
Vì thiếu chỗ nên người đứng dày đặc dài theo lề
đường và trên mặt đại lộ Đỗ Hữu Vị, cũng chứa đầy người bán hàng rong có dịp
hốt bạc. Trong lúc đó, không có một biến cố đáng tiếc nào xảy ra trong suốt ba
ngày lễ, ban trật tự được đảm bảo bởi các tín đồ Cao Đài làm cho dễ dàng ban
trật tự của nhà nước. Với nụ cười trên môi và khá dễ mến, họ hướng dẫn các quan
khách và những người hiếu kỳ.
Buổi chiều, quốc kỳ các nước, cờ hiệu, những tấm
biểu ngữ, cờ phướn, đủ các màu sắc, tạo thành một trang trí lộng lẫy với ngôi
đền thờ sáng rực và những khán đài kết hoa đẹp mắt, nơi đó để nghinh tiếp nhà
cầm quyền Pháp và bản xứ, những đại diện báo chí và những quan khách.
Bên trong đền thờ, tại chánh điện có một vẻ trang
nghiêm đặc biệt, không loại trừ vẻ đẹp giản dị. Bên phải và bên trái của chánh
điện là hai bàn thờ : một thờ Đức Quan Thánh Đế Quân, một thờ Đức Quan Âm Bồ
Tát.
Ở bên ngoài, có hai chữ Vạn lớn được chiếu sáng rực
rỡ, bao quanh Thiên nhãn mà con ngươi là một bóng đèn điện màu xanh. Đối diện
Thánh Thất có đắp lên một cái sân cao gọi là đàn "Bạch Vân" trên đó có một bàn thờ lớn với chơn dung
Victor Hugo ngồi chống khuỷu tay lên bàn, có hai hàng tín đồ mặc áo dài với ba
màu : vàng, xanh, đỏ.
Trong một cái sân rộng ở khoảng giữa đàn Bạch Vân
và đền thờ, có nhiều nhân vật Pháp, Cao miên, Việt Nam, Trung hoa, Ấn độ, tham
dự nhiều trò giải trí khác nhau, đặc biệt là đốt pháo bông, múa lân và múa long
mã theo điệu nhạc Tần, nhạc Pháp và Việt Nam, thi đua trổ tài tạo ra những
tiếng ầm ĩ điếc tai.
. . . Tiếp theo bài diễn văn khai mạc là bài thuyết
đạo có ý nghĩa cao siêu của Ngài Phạm Công Tắc, đọc bằng tiếng Việt Nam. Ngài
hiện diện từ lúc đầu làm cho cuộc lễ thêm phần long trọng. Sau bài thuyết đạo
mà các tín đồ lắng nghe là sự hoan hô rất lâu bởi những thính giả hâm mộ.
Thật vậy, lễ Khánh thành nầy đánh dấu một thành
công tốt đẹp của những tín đồ Cao Đài tại Nam Vang, đã tận dụng hết sức mình để
làm cho đền thờ, trước đây là ngôi nhà lá bình thường, thành một Thánh Thất
xứng đáng và đáng kính phục.
Tờ báo La Dépêche (Tin điển) ngày 26-5-1937 cũng có
bài tường thuật khá chi tiết mà chúng tôi chỉ thuật lại vài đoạn chĩ rõ
những hình dạng mới của cuộc lễ :
"Trên đại lộ Pierre Pasquier, trong khu phố mà
một cộng sự viên của chúng tôi mới đây đặt tên là “Cư xá trên hồ của Nam Vang”,
tại vị trí của một ngôi nhà thờ nhỏ bằng lá hiến làm đền thờ cho Phật giáo canh
tân, những tín đồ Cao Đài tại Cao Miên xây dựng lên một Thánh Thất lộng lẫy mà
kiểu vở giống một cách lạ lùng kiểu vở của Thánh đường Saint-Mexmes ở Chinon.
Sau khi mô tả chi tiết Đền thờ, chúng ta đọc tiếp :
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đã rời Tòa Thánh Tây Ninh
đến Nam Vang, ngụ tại một ngôi nhà cất trong phạm vi Thánh Thất, đến giờ hành
lễ, Ngài đi đến Thánh Thất, mặc đại phục Hộ Pháp, được che dưới những cây tàn
vàng, đi trước Ngài là một dàn nhạc và theo sau là đoàn tùy tùng đông đảo.
Tại cửa vào Thánh Thất, Đức Hộ Pháp được tiếp đón
bởi vị Chủ trưởng của Hội Thánh Ngoại Giáo, bao quanh bởi các Chức sắc địa
phương. Ngài được hướng dẫn đến một cái bụt danh dự đặt sau cửa chánh, trên đó, Ngài đứng suốt
buổi lễ cúng đàn, tay cầm cây Kim tiên làm cho bọn tà thần yêu quái sợ hãi lánh xa nơi thờ phượng thiêng liêng.
Khói của các cây nhang cắm trong lư hương bay lên
làm như tấm màn trước Quả Càn khôn và các Đấng thiêng liêng. Những Chức sắc mặc
áo rộng đỏ, xanh, vàng; những tín đồ trong đạo phục trắng, quì trên những chiếc
chiếu theo hàng dài, chiếm gian giữa và hai gian bên của Thánh Thất.
Những người xướng lễ cất cao giọng xướng lên những
câu khác nhau trong buổi lễ cúng đàn.”
Khi lễ cúng đàn chấm dứt, Đức Hộ Pháp được đưa về
nhà nghỉ với cùng một nghi thức như lúc rước.
Khi ấy, Ngài được nhựt báo La Dépêche mở một cuộc
phỏng vấn nhanh :
Đức Hộ Pháp là một trí thức tinh anh, Ngài nói và
viết tiếng Pháp một cách đáng khen. Ngài đọc nhựt báo La Dépêche khi chúng tôi
được ông Khâm Trấn đưa vào phòng khách.
Tức thì Ngài đứng dậy bắt tay chúng tôi như một vị quí phái, và nụ cười trên
môi, Ngài chỉ ghế mời chúng tôi ngồi.
E ngại vất vả phải chịu một cuộc phỏng vấn dài,
Ngài khởi đầu nói cho chúng tôi biết Ngài là độc giả trung thành của tờ báo
chúng tôi và Ngài đặc biệt chú ý đến lần xuất bản nói về Cao Miên, bởi vì trên
đất Miên, có hơn 40 ngàn đồng đạo của Ngài.
Đối với Ngài, Đạo Cao Đài là một tôn giáo có năng
lực hòa hợp và hòa bình xã hội. Sự tiếp đãi tử tế mà các tín đồ Cao Đài Việt
Nam đã thấy được ở Cao Miên, làm cho Ngài cảm động sâu xa. Ngài hết lòng mong
ước những động bào của Ngài biết bày tỏ lòng tri ân sâu xa đối với nhà cầm
quyền bản xứ và tiếp tục làm việc nơi đây hay những nơi khác trong sự tôn trọng
luật pháp và phong tục bản xứ.
Nhưng Ngài tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy rằng, những
mệnh lệnh, do hiểu lầm, không nghi ngờ gì nữa, đã ban ra trong dịp các ngày lễ
nầy, cấm thần dân của vua Miên Monivong không được tham dự các trò giải
trí bình dân tổ chức trong chu vi Thánh Thất Cao Đài. . . .
Ông Thượng Chữ Thanh,
Chủ trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo, trụ sở tại Nam Vang, mở lời trước để thông báo
: Bà Lâm Ngọc Thanh, một Chức sắc cao cấp nữ phái của Đạo Cao Đài đã tắt hơi tại Vũng Liêm
và yêu cầu những vị hiện diện một phút
mặc niệm.
Kế đó Ngài ca tụng những vị sáng lập Đạo Cao Đài ở
Nam Kỳ, đặc biệt là công đức của Cố Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung và của một
Chức sắc khác rất thương tiếc là Ngài
Cao Quỳnh Cư.
Tiếp theo, Ngài kể lại lịch sử của nền Tân tôn giáo
tại Cao Miên, rồi thông báo với cử tọa rằng, lễ Khánh Thành Thánh Thất Nam Vang
trùng hợp với lễ Kỷ niệm ngày mất của Victor Hugo, Chưởng Đạo thiêng liêng của
Hội Thánh Ngoại Giáo của Đạo Cao Đài.
Ba bài diễn văn đọc bằng tiếng Quảng Đông, tiếng
Triều Châu và tiếng Cao Miên, trình bày mô phỏng theo bài diễn văn của ông
Thượng Chữ Thanh. . . . .
Buổi chiều, lúc 16 giờ 30 phút, lễ rước các Đấng
thiêng liêng diễn ra trong châu vi Thánh Thất. Dẫn đầu đám rước là lân, tiếp
theo là rồng, đi theo thứ tự là cộ Đức
Phật Di-Lạc mà tượng của Ngài với nụ cười cởi mở điềm nhiên nơi Cực Lạc Niết
Bàn, bàn thờ Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, chơn dung của Victor Hugo, tượng
Cô Jeanne d’Arc, chơn dung của Cao Quỳnh Cư, của Tôn Dật Tiên, người sáng lập
nước Cộng hòa Trung hoa, và sau cùng là một cái cộ lớn có một ngọn núi thiêng,
trên đó có tượng của nhà đại hiền Lý Thái Bạch ngự trên ngai, bên phải có Nữ Bồ
Tát Quan Âm, và bên trái có tượng của vị anh hùng Quan Công.
Dưới chân núi ấy là Cố Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn
Trung đang ban phép lành cho đám đông.
Đoàn cộ đi trước, theo sau là những dàn nhạc huyên
náo, đi biểu diễn ba vòng chung quanh Thánh Thất, đi ngang qua khán đài, nơi đó
có Đức Hộ Pháp, các nhân vật và các Chức sắc của Đạo.
Trong một phần của khán đài, chúng tôi để ý thấy
nhiều phụ nữ Trung hoa mới nhập môn vào đạo mặc đạo phục trắng như những người
Việt Nam, với những cổ pháp và phù hiệu theo phẩm tước.
Ở bên Pháp tờ báo Le Fraterniste, ở Cao Miên tờ báo La Vérité ngày 20-10-1937 đăng cảm tưởng tổng quát:
Những tranh ảnh của các báo, những ảnh in trên báo,
dưới mắt tôi, chứng tỏ rằng cái vẻ huy hoàng hiếm có của các buổi lễ đã diễn ra
dưới sự chủ tọa của Đức Hộ Pháp.
Hàng ngàn tín đồ lớp lớp từ các nơi đổ về : 15, 20,
25 ngàn người ? Khó mà thẩm định có bao
nhiều người trong đám đông Á châu như thế.
Những bài diễn văn đã được đọc và truyền trên đài
phát thanh, như của “ Charles ”, Chủ
trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo, của "François", người chủ chốt của phong
trào. Các diễn văn nầy phản ánh một số tư
tưởng làm cho tôi chú ý để ghi lại.
Sự bảo hộ của Đấng Victor Hugo đủ để nhấn mạnh tính
chất siêu phàm Thần linh học của Đạo Cao Đài mà người lãnh đạo cao cấp nhứt
hiện nay là vị Chưởng quản của cơ quan
đồng tử tại Tòa Thánh Tây Ninh
(Nam Kỳ).
Sự liên kết tinh thần giữa các tôn giáo Đông phương
và các tôn giáo Tây phương, xác nhận mỗi nơi mỗi lúc, bởi vì các Thánh Thất Cao
Đài được mở ra để tôn thờ Đấng Christ, Đức Phật, Đức Lão Tử, Đức Khổng Tử, Giáo
chủ Mahomet và tất cả những Thiên sứ của Thượng Đế khắp địa cầu, như những nhà
Thần linh học (Victor Hugo, Camille Flammarion) hay những ân nhân của nhơn
loại.
Vào lúc mà ít nhiều người đã vận động liên kết trên
tất cả các mặt của cái nhãn hiệu bề ngoài để chia rẽ con người và gieo rắc hận
thù, chúng ta nên khuyến khích phong trào nầy của sự hòa giải, thống nhứt toàn
cầu.
Vào lúc mà ít nhiều người lấy lại công thức độc
đoán và các lời bài xích của thời trước :“Các người chỉ có thể được cứu vớt tại
đây.” Dường như tốt đẹp để nhắc lại rằng, cả với người điếc, điều đó không bao
giờ chấm dứt những trò đùa đáng thương hại của nghi thức : điều quan hệ duy
nhứt không phải là tín điều, mà là hành động. Allan Kardec phát biểu một cách
minh bạch : Ngoài phước đức, không có gì
cứu vớt.
Tinh thần hòa bình và chủ trương hòa bình của Đạo
Cao Đài đáng được khen ngợi. Những tín đồ Cao Đài phản đối sự phân biệt các
chủng tộc, các tôn giáo, các màu da,
muốn có sự hòa hợp các chính phủ và chấm dứt chiến tranh, điều đó luôn
luôn được tuyên bố bởi các chính phủ.
Đối diện với Tây phương, tín đồ Cao Đài kêu lên :
Chúng tôi vì hòa bình; tình huynh đệ giữa con người, tình thân hữu giữa các dân
tộc, sự hợp tác giữa các chủng tộc. Chúng tôi tránh xa chánh trị tàn ác của các
nước độc tài, của người ác đen, nâu hay đỏ, và những người liều mạng bị mua
chuộc trong mỗi nước, tìm cách bắt chước bọn Badinguet mới.
Người ta thấy sự tổng hợp về tâm linh là đáng kính
phục, nơi đó người không tín ngưỡng cũng tìm thấy thức ăn tinh thần, bởi vì
trong một Thánh Thất Cao Đài, người ta có thể cầu xin các nguyên tắc hướng dẫn
của triết gia Khổng Tử, hay hiền triết Lão Tử.
Thật vậy, Thánh Thất Cao Đài không thừa nhận những
kho châu báu tâm linh. Chúng tôi xa lánh những người chuyên dán nhãn hiệu,
những môn phái, những phe đảng nhỏ của các quan chức và phó quan chức lạc hậu,
vô giá trị.
Thời khắc biểu cho thấy sự quan trọng của ba ngày
lễ :
Chương trình ngày 21-5-1937
BUỔI SÁNG :
5 giờ 15: Chức sắc và tín đồ tập hợp nơi Thánh Thất.
5 giờ 30: Rước Đức Hộ Pháp vào Thánh Thất.
6 giờ: Cúng đại đàn và trấn thần Quả
Càn khôn.
9 giờ: Rước Đức Hộ Pháp lên cái sân cao dành cho Chức sắc và giới thiệu Hội Thánh.
9 giờ 30: Đồng nhi tụng kinh cầu nguyện.
- Diễn văn khai mạc bằng tiếng Việt của Giáo Sư
- Thượng Chữ Thanh, Chủ trưởng HT Ngoại Giáo.
- Diễn văn bằng tiếng Trung hoa và tiếng Cao Miên.
11 giờ 30: Cầu nguyện trên máy vi âm để cầu chúc
hòa hiệp và hòa bình cho toàn thế giới.
- Giữa trưa: Cúng đàn cầu nguyện những người quá
vãng.
BUỔI CHIỀU :
16 giờ: Chức sắc tập hợp tại cái sân cao phía
trước.
16 giờ 30: Rước chơn dung Victor Hugo đi quanh
Thánh Thất và sau đó đem đặt
trên đàn Bạch Vân.
17 giờ 30: Lễ cúng thời Dậu thường lệ, đồng nhi
tụng kinh cầu nguyện.
- Thuyết đạo bằng tiếng Miên của Chánh Trị Sự Phạm
Văn Châu.
- Thuyết đạo bằng tiếng Việt của Nữ Giáo Sư Hương Phụng (Bà Trần Kim Phụng), Tiếp Đạo Cao
Đức Trọng và Khai Pháp Trần Duy Nghĩa.
- Diễn văn bằng tiếng Pháp của Chủ Trưởng HTNG.
23 giờ: Đại lễ kỷ niệm Victor Hugo : Chưởng Đạo
HTNG.
Chương trình ngày 22 tháng 5
BUỔI SÁNG :
5 giờ: Lễ cúng thời Mẹo thường lệ.
8 giờ: Cầu nguyện cho sự an nghỉ các vong linh và
cầu nguyện cho sự hòa hiệp và hòa bình thế giới.
11 giờ : Lễ cúng thời Ngọ thường lệ.
BUỔI CHIỀU:
16 giờ: Các Chức sắc tập hợp tại đàn phía trước.
16 giờ 15 : Rước Đức Hộ Pháp đến tại đàn phía
trước.
17 giờ: Rước quan khách thuộc chánh quyền Pháp và
bản xứ, đại diện báo chí và những khách mời.
17 giờ 15 : Đồng nhi tụng kinh tôn vinh nền tôn
giáo.
- Diễn văn Khánh thành Thánh Thất do ông
- Phó Chủ trưởng HTNG đọc trên máy vi âm.
18 giờ :
Quan khách viếng thăm Thánh Thất.
18 giờ 15 : Ký tên vào Sổ Vàng lưu niệm.
18 giờ 30 : Tiệc trà danh dự.
20 giờ: Diễn văn của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc.
- Thuyết đạo của Ngài Thượng Chữ Thanh.
- Thuyết đạo của các Chức sắc khác.
23 giờ: Lễ cúng thời Tý thường lệ.
Viết tắt: HT : Hội Thánh.
HTNG : Hội Thánh Ngoại Giáo.
Chương trình ngày 23 tháng 5
BUỔI SÁNG :
5 giờ: Lễ cúng thời Mẹo thường lệ.
6 giờ: Tập hợp các cộ bông, bàn lễ, rồng, lân, dàn
nhạc v.v... trên đại lộ Pierre Pasquier, đối diện Thánh Thất.
6 giờ 45 : Khởi hành đám rước biểu diễn trong thành
phố.
11 giờ: Lễ cúng thời Ngọ thường lệ.
BUỔI CHIỀU :
16 giờ : Tập hợp các Chức sắc tại sân cao phía
trước.
16 giờ 30 : Phát thưởng cộ bông, rồng, lân, bàn lễ,
dàn nhạc.
17 giờ: Đồng nhi tụng kinh tôn vinh nền tôn giáo,
có nhạc.
- Lễ cúng thời Dậu thường lệ.
18 giờ: Chức sắc thuyết đạo.
- Diễn văn bế mạc của Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh.
22 giờ: Đồng nhi tụng kinh cầu nguyện cho sự an
nghỉ các vong linh và cầu nguyện cho sự hòa hiệp và hòa bình thế giới.
23 giờ: Đại lễ cúng đàn ngày 15 tháng 4 năm Đinh
Sửu.
Ông Charles Bellan, cựu Thống sứ Pháp tại Cao Miên,
từ Ba-lê gởi đến cho chúng tôi ngày 1-9-1937 cảm tưởng tổng quát của ông:
"Tôi có đọc
một cách rất thích thú các tài liệu mà quí bạn đã gởi cho tôi, về lễ
Khánh Thành Thánh Thất Cao Đài tại Nam Vang. Tôi có trao tài liệu ấy cho vài thân
hữu và nhân sĩ, mà họ chú ý đến phong trào nầy với khuynh hướng thống nhứt các
tôn giáo và tình huynh đệ đại đồng thế giới.
Trải qua nhiều thời gian, những sự chống đối của
các tôn giáo khác nhau đã làm cho máu chảy thành sông, ước mong rằng các tôn giáo
có một sự hiểu biết lẫn nhau cần thiết cho hạnh phúc của nhơn loại.
Sự tiến bộ của khoa học phế bỏ càng ngày càng nhiều
các khoảng cách, nhưng nếu các dân tộc hiểu rõ nhau hơn thuở xưa, không ít sự
thật mà họ thường bị lừa gạt bởi những lãnh tụ độc ác, nhưng than ôi ! vẫn còn
tồn tại nhiều hiểu lầm giữa họ.
Nếu Đạo Cao Đài bành trướng, người ta hy vọng sẽ có một kỷ nguyên hòa bình và yên ổn, nếu không là hạnh phúc, vì
hạnh phúc không có ở thế gian.
Cho nên, mỗi người cần phải làm việc theo chiều hướng đó. Về phần tôi, tôi thực sự rất
sung sướng biết rằng sự ngược đãi đáng ghê tởm mà người tín đồ Cao Đài là nạn
nhân, đã chấm dứt.
Như thế, sự cố gắng giúp đỡ của mỗi người, người ta
không thể ngăn chận sự truyền bá một giáo lý mà như lời Phật dạy - không phải
là hận thù, mà là tình thương yêu mới hiệp nhứt các trái tim - được ngự trị sự
yên ổn trên mặt địa cầu còn quá loạn động nầy.
Tình thân ái huynh đệ. (Ký tên: Charles Bellan)