Minh xác giáo lý.
Trong lễ Khánh thành Thánh Thất Cao Đài Nam Vang, người ta thấy rằng, Hồi giáo
không là đối tượng sùng kính đặc biệt trong Đạo Cao Đài, mà lại bị đánh đổ và
xa lánh.
Có lẽ người ta lầm lỗi khi xa lánh Hồi giáo từ Đạo
Cao Đài :
1. Lý do là gần bên trung tâm Hồi giáo rất hoạt
động tại Ấn Độ (không nói tới trung tâm Hồi giáo ở các đảo thuộc vùng đông nam
Á Châu);
2. Lý do là thế lực của trung tâm Hồi giáo ở Phi
châu : sự tái sinh tôn giáo của những vị bác sĩ Thần học Hồi giáo ở Algérie; sự
ảnh hưởng của Hồi giáo phục hưng ở Ai cập đối với Hồi giáo Bắc phi; sự thức
tỉnh toàn diện của chủ nghĩa Đại Hồi giáo trên thế giới; sự phát triển không ngừng
của Hồi giáo ở Phi châu da đen, vv . . .
Hồi giáo, trong các thuộc địa của Pháp, bao gồm không
chỉ ở những vùng đất Bắc phi, nước Syrie, Liban, mà lan rộng ra trên phần lớn
các thuộc địa của Pháp ở hải ngoại.
Do đó, trong toàn Phi châu đến đảo quốc Madagascar,
đến Ấn độ, không quên kể đến Đông dương với những người Chàm, Hồi giáo đều có
nhiều tín đồ.
Tại Phi châu da đen, Hồi giáo rất bành trướng. Nếu
ở tại góc nhọn của Somalie, số tín đồ Hồi giáo chỉ có 60 ngàn, ở Ấn độ 18 ngàn,
ở Đông dương 80 ngàn, ở vùng Phi châu xích đạo thuộc Pháp, ở nước Togo,
Caméroun có 1 triệu 200 ngàn và ở Tây Phi châu thuộc Pháp, số tín đồ lên tới
hơn 6 triệu.
Hồi giáo trong các thuộc địa của Pháp có tính chất
của Phi châu. Nó bành trướng bởi sự xâm nhập trong hòa bình hay bởi sự chinh
phạt bằng vũ lực. Lịch sử của sự phát triển và sự trở ngại của Hồi giáo được
giải thích trái ngược nhau về sự phân phối địa dư.
Một trong những vùng quan trọng nhứt mở rộng từ Đại
Tây Dương đến phía Tây Éthiopie và những sa mạc Sahara và Libye ở vĩ tuyến 10
độ bắc. Nó bao gồm đến phía Tây khu vực Sénégal, Gambie, Haute-Volta, Trung
Niger và tại trung tâm khu vực hồ Tchad.
Hơn nữa, tôi nhìn nhận rằng, quan niệm bày tỏ ra
đây về Hồi giáo là phản ảnh của cá nhân tôi, một người Algérie (6 năm trong
tình huynh đệ sâu xa ở các đất Hồi giáo: Sidi-Bel-Abbès, Tlemcen, Oran, Alger)
mà sự mong muốn dự tính của Hội Thánh Cao Đài, nguồn gốc của nền Tân tôn giáo,
ít khi nghĩ đến Hồi giáo.
Phần nối thêm vào cái bàn tâm linh là một ước vọng
cá nhân hơn là nhận thức chín chắn bởi vị lãnh đạo cao cấp và các Chức sắc của
Đạo Cao Đài. Điều nầy là thực tế và chơn thật của thái độ và trách nhiệm.
Thấy cảnh khốn cùng của những người Hồi giáo
Algérie, thí dụ như thế, người ta có cảm tưởng tôn giáo nầy đã chấm dứt, nói
một cách chánh đáng nếu người ta mơ tưởng cảnh rực rỡ của nền văn minh Á Rập
vào thời kỳ mà Tây phương còn chìm trong bóng tối và bùn lầy.
Nhưng, phải nhớ rằng, Hồi giáo tự nó là một tổng
hợp tôn giáo (Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, Bái Hỏa giáo) nơi đó người ta sùng
bái, không chỉ Mahomet như tin tưởng một người dốt nát, mà còn sùng bái cả:
Moise, Jésus, Zoroastre, và những nhà Đại Tiên tri; rằng chủ nghĩa Thần bí
(Soufisme) là chủ yếu của người Hồi giáo mặc dầu có những trạng thái Tây
phương, tân thời hay phổ quát; rằng nó biết nắm lấy cơ hội để không khinh
thường cái năng lực hoạt động vốn có của nó.
Không chỉ những vị bác sĩ Thần học Hồi giáo hiện
nay đang bận rộn tạo ra chất men Hồi giáo và làm dậy lên chất bột, mà có rất
nhiều trường hợp riêng lẻ chứng tỏ sự lên men không thể tin được trong một tôn
giáo mà người ta tưởng là nó đã mệt mỏi, hết hoạt động, chấm dứt.
Như thế, tại sao, riêng tôi, tôi có một điều không
hài lòng khi thấy vị lãnh đạo cao cấp và Hội Thánh của Đạo Cao Đài xa lánh Hồi
giáo ra khỏi cộng đồng tôn giáo của họ ?
Tôi kể ra đây trường hợp vị Tù trưởng Ben Aliona
như là một bằng chứng về khả năng tâm linh của Hồi giáo: Một người thợ giày ở
Mostaganem đến khoảng 40 tuổi, thì đứng vào hàng Tiên tri Hồi giáo, và ông mất năm 1934.
Ông thiết lập một hội đoàn Thần bí gồm rất đông
người, đây là một nhánh cấp tiến có đẳng cấp cao của trường phái Thần bí Hồi
giáo mà Chadeliya-Darquaoua là một trong những người thượng đẳng. Nhờ chủ nghĩa
Thần bí nầy ông biết được Bí pháp (giáo lý bí mật) của Hồi giáo và bởi đó, khuynh hướng tiến lên một siêu tôn giáo (bao
gồm: Do Thái giáo + Bái Hỏa giáo + Thiên chúa giáo + Hồi giáo. . .) đang có
sẵn trong tâm hồn của tất cả tín đồ Hồi
giáo.
Những khải thị liên tiếp tự bổ sung, bởi vì tất cả
đều được kết nối bởi sự thống nhứt tư tưởng siêu phàm. Ngạn ngữ nói về người
Hồi giáo thần bí bình thường: "Những
nhà Tiên tri, phải chăng là 10 ngàn, chỉ là một hay nhiều tia sáng của cùng một
ngọn lửa ?"
Tiên sinh Ben Aliona đã nghe tất cả những lời trách
cứ, chịu đựng tất cả những lời chỉ trích. Đó là lịch sử của tất cả tu sĩ, của
tất cả những phong trào tôn giáo.
Sự tầm thường và sự thô lậu làm trở ngại và phong
tỏa các tu sĩ trong tất cả các mặt.
Hồi giáo bị đóng kín và đông cứng trong giáo lý
công truyền, vị Tù trưởng Á rập đã chống đối một Hồi giáo mở rộng đang tiến
hóa, đang vận động tương lai, thay vì than van trên quá khứ.
Đó là vào năm 1912 khởi đầu sứ mạng của vị Imam,
nghĩa là một khất sĩ nghèo, vào con đường Thần bí để dẫn dắt ông ta đến Thượng
Đế, người đứng đầu, người huấn luyện, không khác những vị Đại Thánh của Hồi
giáo xưa: "Tôi trong thung lũng của
tôi, anh trong thung lũng của anh." người Á rập nói như vậy.
Sự đắc đạo có thể đạt đến được tùy theo thể chất,
huyết thống, hoàn cảnh địa phương, bởi các phép tu của phái Du già (Yoga), Lão giáo, phép tu luyện tâm
linh của Thánh Ignace de Loyola, của những người theo phái Thần bí Hồi giáo.
Hình thức thì có thay đổi khác nhau nhưng tinh thần chỉ có một, luôn luôn như
vậy.
Giáo lý của Ben Aliona
? Tính đơn nhứt của Thượng Đế. (Đối với chúng ta, thế giới vật chất chỉ là một
tập hợp các tấm màn để che giấu cái thế giới chơn thật : Vô Cực. . .)
Vũ trụ được tạo ra từ
Thượng Đế (trái ngược với thuyết sáng tạo vạn vật trong Kinh Coran đối với khối
tín đồ bình thường, người ẩn mặt được dự bị cho số tín đồ có khả năng nắm bắt được lẽ
huyền bí); chủ nghĩa sáng tạo vạn vật của Thượng Đế phù hợp với chủ nghĩa nội
tại (chủ nghĩa nầy có thể biết được số phận của nó, biết được Thượng Đế; nó cẩn
thận dò xét Thượng Đế và đến gần Thượng Đế); lý thuyết nội tại không loại trừ tính siêu việt;
sự phát huệ mà các vị thượng đẳng Hồi giáo dựa vào: Avicenne, Ghazali hay Ibn
Thofail, nhưng không giới hạn rõ ràng giữa cơ năng tình cảm và
thuyết chủ lý trí, những ngôi nhà tâm lý giả tạo của những Đại học đường Tây
phương mà với cái tâm của lý trí, vv ...
Vị Tù trưởng ở Mostaganem,
một người thần bí tân thời, có khuynh hướng về sự thăng hoa tâm hồn, một nhánh
của Hồi giáo hướng về ánh sáng và tình huynh đệ chơn thật (Zohar của người Do Thái,
Ennéades của Plotin, vv...): Sự ban phúc của vị Tù trưởng, chuỗi chuyển giao
những năng lực huyền bí nơi những vị Thánh Hồi giáo, những bằng cấp ban cho
những tín đồ được huấn luyện, những cái đó chỉ là bước đầu, tương đối dễ dàng
sắp đặt trên con đường tu huệ, nơi đó người ta trước tiên phải đi đến việc "Thực
hiện sự hiện hữu của Thượng Đế".
Ấy là vì người thợ giày đã đi khá xa và khá cao mà
người ta xem ông ấy như là nhà thôi miên và là một giáo sư của khoa học huyền bí, sự phát huệ chủ yếu
cũng thế, tự phân biệt đối với mỗi trường hợp thần bí.
Ben Aliona dùng sự ngưng tụ và sự phát tán, hai
thời điểm của tiết điệu tâm lý của những người Thần bí Hồi giáo, sự lần chuỗi
niệm kinh trong căn phòng tu tịnh yên ổn thiếu ánh sáng dành riêng cho trực giác
và thần nhãn, những hình ảnh thấy được và nghe được, tiếng nói và ánh sáng
không thể tả được.
Nơi những giáo đường Hồi giáo ở Mostaganem,
Saint-Eugène, Alger, những khách xá miễn phí trong tu viện, Ben Aliona sống một
cách nghèo khổ, chỉ đòi hỏi khách viếng thăm một việc làm hay một công việc hữu
ích trong tu viện, cho lần đi qua, với giá tiền bằng với sự ở trọ.
Ông giảng đạo về tình huynh đệ trong tôn giáo, được
các vị linh mục Công giáo rất quí trọng, dập tắt lòng thù hận của các gia đình
ở Kabylie.
Chủ nghĩa Đại Hồi giáo khuyên nhủ nên hòa hợp với
người Âu châu : từ Ai cập đến Maroc, Ben Aliona đã làm cảm động một số đông tín
đồ từ 150 đến 200 ngàn người. Trong một vùng mà Hồi giáo được báo hiệu như là
đặc biệt đình trệ, thì sự tăng tiến ấy
tuy có giới hạn, nhưng cũng tạo ra được một bằng chứng có ý nghĩa.
Do đó, ở mặt khác trên những nền tảng mạnh mẽ hơn,
một ngày nào đó, Hồi giáo sẽ lấy lại cái công trình như là Thuyết Thần bí ở
Mostaganem, sẽ mở rộng sự hợp tác gặp những người Hồi giáo và Thiên chúa giáo,
sự thân ái giữa người Hồi giáo và Do Thái giáo (đầy ác cảm và ngờ vực trong
những nước Hồi giáo).
Ben Aliona, những cái nhìn quay về Ấn Độ, bài xích
các cuộc Thánh chiến. Như thế, người ta nhìn nhận sự giải thích Kinh Coran một
cách sáng suốt hơn, tình nghĩa huynh đệ hơn, mong muốn một tôn giáo tiến bộ không ngừng, tự vứt
bỏ những điều quá lỗi thời và những thứ
của quá khứ. Và như thế thì không
quản ngại nỗi đau khổ thể xác của khối người bản xứ bị bốc lột bởi những người
Công giáo.
Vị Tù trưởng gần như ăn chay trường, không bao giờ
bằng lòng về sự hy sinh của những con vật thiếu tri giác. Ông mở rộng lòng nhân
đến vạn vật. Vài việc, ông như là Thánh
François d’Assise. Ông khai tâm cho một số tín đồ Công giáo (chừng 20 ngàn
người ở Pháp và ở Algérie), không bắt buộc họ phải gia nhập một cách hình thức
vào Hồi giáo, theo đó thì ông là một gương mẫu trong nhiều vị Thần bí Hồi giáo
vĩ đại trên thế giới : Khodja Hassan Nizami...
Nhận xét tổng quát :
Đến một đẳng cấp cao của tâm linh, các tu sĩ phi
thường đều đứng trên bực tầm thường của tôn giáo và họ thừa nhận như là "Bạn của Thượng Đế" tất cả
những người chơn thật và có lòng tốt và kết tình anh em với họ : Kherreddin ở
Tunis đã khai tâm cho những người Công giáo Tunisie. Những người Thần bí Hồi
giáo khác cũng đã làm như thế, đáng kể là Inayat Khan.
Tóm lại, Ben Aliona là sự xuất hiện rất hiếm của
một vị Thánh Hồi giáo trong thời đại của chúng ta, một trong những người thầy
sau cùng của những người Thần bí Hồi giáo: Sứ mạng của ông là thực hiện sự
khoan dung tổng quát, hòa bình, từ thiện, thương yêu và tình huynh đệ trung
tín. Ông có dự tính làm sống lại thời kỳ Thần bí Hồi giáo của những thế kỷ rực
rỡ, bằng cách tự mình sống gần gũi hơn với dân chúng, tự mình tỏ ra thân thiện
hơn và mềm dẽo hơn. Ông giảng đạo về sự hòa hợp các bất đồng, bác sĩ
Probst-Biraben nói như thế, vì bác sĩ biết ông khá rõ và có gặp một số bạn bè
và các tín đồ của ông.
Ông đã thành công trong một nơi hạn hẹp, điều đó đủ
để chứng tỏ rằng cái nhiệt tâm của những người Hồi giáo cổ không mất và nó còn
có thể thi hành trong những con đường rõ ràng hơn, mặc dầu có những ngộ nhận
đáng tiếc và sự lạm dụng của chủ nghĩa thực dân duy vật và trầm trọng.
Người thợ giày khiêm tốn và cao cả ở Mostaganem đã
dẫn dắt các tín đồ đi ra khỏi sự nô lệ tiền bạc, sự xa xỉ, danh vọng, kiêu căng
và thù hận.
Nhờ Bergson, nhờ những tín đồ đạo Bahai, ông đã
chứng minh rằng, vũ lực không được biết đến, khả năng tiến hóa và phát triển
của Hồi giáo mà một số người phán đoán là nó đã chết, không bao giờ xảy ra trên
mảnh đất Hồi giáo nghèo nàn nầy.Đạo Cao Đài có quyền đặt Hồi giáo ra ngoài tình
huynh đệ không trước những bằng chứng
như thế ?
NỐI TIẾP NIỀM ĐAU
Theo sự khảo cứu của Hiền Huynh Lê Văn Bảy, chúng
tôi rút ra được vài lời chỉ dẫn về những vị bất phục tùng, những người anh thù
địch, than ôi !
Ông Phủ Chiêu, khi không thắng nổi sự thử thách mà
ông bị bắt buộc nhận chịu, Đấng thiêng liêng tự xưng Cao Đài yêu cầu các vị phò
loan đi tìm ông Lê Văn Trung, Nghị viên của Hội Đồng Chánh phủ, để ông nhận
chức Đầu Sư phái Thượng. Đạo Cao Đài đã được khai sanh.
Nhưng ông Phủ Chiêu, trước khi tách riêng ra, ông
đã thành lập một chi phái ở thành phố Cần Thơ dựa vào Đấng Cao Đài và Thần linh
học, xây dựng một Đền thờ mà nơi đó ông có vài trăm tín đồ. (*) Ông Phủ Chiêu
mất năm 1932 và từ đó đoàn thể tôn giáo nầy phát triển.
Sau khi Ngài Lê Văn Trung tạo lập một Thánh Thất
Cao Đài tại Chợ Lớn, những tín đồ ở Sài Gòn lập nên một Thánh Thất tại Cầu Kho.
Nhưng sau một thời gian, những tín đồ Cao Đài tại Cầu Kho lại tự tách riêng ra
khỏi Tòa Thánh để lập thành một chi phái thứ nhì bất phục tùng. Vài cố gắng
truyền đạo ở Trung Kỳ (1930-1932) với sự giúp đỡ của Ngài Chưởng Pháp phái
Ngọc. Thế lực của những kẻ bất phục tùng gom lại chỉ vài trăm người ở Sài Gòn
và cũng bằng chừng ấy ở Trung Kỳ.
(*) Đính chánh của dịch giả: Ngài Lê Văn Trung đã
kết hợp với nhóm phò loan gồm 3 Ngài: Cư, Tắc, Sang, trước khi gặp Ngài Chiêu.
Ngày 27-1-1926, do lịnh của Đức Chí Tôn, 4 Ngài: Trung, Cư, Tắc, Sang đến gặp
Ngài Chiêu tại nhà riêng, xem Ngài Chiêu là Anh Cả. Khi Đức Chí Tôn dự định
phong Ngài Chiêu vào phẩm Giáo Tông thì Quỉ Vương đòi thử thách Ngài Chiêu. Sau
5 ngày thử thách, Ngài Chiêu thua nên đành mất ngôi Giáo Tông. Ngày 25-4-1926,
Ngài Chiêu tự ý tách riêng ra và sau đó xuống Cần Thơ lập Chi phái Chiếu
Minh.
Năm 1934, Cầu Kho trở thành trung tâm của một chi
phái khác, có thể gọi bằng tiếng Pháp là "Union
de toutes les sectes Caodaistes" (Hiệp nhứt các chi phái Cao Đài), ông
Nguyễn Phan Long làm Chủ tịch. Ông Long là Cựu Nghị viên Hội Đồng Thuộc địa,
hiện nay là ký giả của báo La Dépêche tại Sài Gòn. Tòa Thánh Tây Ninh (TTTN)
trách cứ những người bất phục tùng nầy vì họ theo chủ nghĩa xu thời chánh trị,
nên đã từ chối tất cả những cuộc giảng hòa.
Nguyễn Văn Ca
Năm 1930, một chi phái khác: Minh Chơn Lý do ông
Nguyễn Văn Ca lập ra ở Mỹ Tho. Ông Ca là Quận trưởng hành chánh ngoại hạng, tự
xưng là Chưởng Pháp, sau khi hành đạo tại TTTN từ năm 1927 đến 1930, với chức
vụ: Chủ trưởng Chức sắc và Chưởng quản Nam Tông đạo. Năm 1930, ông Ca ở Mỹ Tho
trong một Thánh Thất được xây dựng do tài sản riêng của ông mà ông đặt tên là "Tòa Thánh Trung Ương". Được
sự giúp đỡ của ông Krauthei-mer, Thống đốc Nam Kỳ, ông Ca chuyên chú vào công
việc truyền đạo, thâu nhận nhiều tín đồ, nhứt là trong vùng Tây Nam Kỳ. Nhờ
người em khá trẻ của ông (rất được ông Krautheimer yêu mến), kẻ đối nghịch kịch
liệt của Ngài Lê Văn Trung, mà Tòa Thánh Trung Ương chiêu mộ.
Một cách cá nhân, tôi (tác giả) có mối liên hệ anh
em với ông Ca, ở thời kỳ mà tôi không muốn mọi người can thiệp vào những bàn
cãi nầy, biết rất rõ tất cả sự chia rẽ tôn giáo, tất cả những khoe khoang,
những cái hư vinh, tất cả cái vô giá trị của chi phái và tiểu chi phái, có
trong Đạo Cao Đài và không phải không có lý do ! Sự khinh thường sâu sắc của nhà
cầm quyền, có giá trị chỉ thấy trong sự lan tràn vô nghĩa lòng kiêu căng mà sự
biểu lộ chắc chắn của đám người bịp bợm hay tham vọng.
Lúc đó tôi không biết sự ganh đua giữa Ngài Trung
và ông Ca đã lên cao trong thời gian trước đây khá xa:
"Vào năm 1895, ông Nguyễn Văn Ca học lớp năm
thứ năm trường Trung học Adran, tại Sài Gòn, trong lúc đó ông Lê Văn Trung, ít
hơn ông Ca 5 tuổi, học lớp năm thứ ba trường Trung học Chasseloup-Laubat, cũng
tại Sài Gòn.
Trường Trung học Adran, được điều khiển bởi các
Huynh Công giáo và được chánh phủ trợ cấp, lúc đó bị bãi bỏ. Người ta tổ chức
một kỳ thi chung cho các học sinh lớp năm thứ tư và thứ năm của trường Adran
với các học sinh lớp năm thứ ba của trường Chasseloup-Laubat (trường nầy chỉ
được lập ra từ 3 năm nay). Lê Văn Trung đậu hạng nhì, trong lúc đó học sinh Nguyễn
Văn Ca ở lại lớp thi chỉ đậu hạng sáu. Cả hai ông cũng như nhiều thí sinh thi
đậu khác được bổ nhiệm làm Thơ Ký cho chánh phủ Nam Kỳ.
Ông Lê Văn Trung nổi tiếng là tinh nghịch và ông
Nguyễn Văn Ca thì hay cau có và thù vặt. Ông Trung rất được cấp trên yêu mến,
nên được thăng tiến nhanh.
Năm 1906, ông Trung được bầu làm Nghị viên Hội Đồng
Thuộc địa và vài năm sau, ông đạt danh hiệu mong muốn nhứt là Nghị viên Hội
Đồng Chánh Phủ (một nhân sĩ hạng nhứt Việt Nam), địa vị nầy trở nên trống bởi
cái chết của Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương ở Chợ Lớn [Ông Đỗ Hữu Phương là quan chức
cao cấp nhứt của Nam Kỳ], trong lúc đó, ông Ca tiếp tục làm nghề Thơ Ký tầm
thường. (*)
Năm 1926, hai cựu học sinh trung học lại gặp nhau
trong nền Tân tôn giáo. Ông Trung trở thành Đầu Sư Thượng Trung Nhựt và ông Ca
chỉ được phẩm Phối Sư Thái Ca Thanh, ở địa vị thuộc cấp của ông Trung.
Nhưng ông Trung tinh nghịch thuở trước, nay thì
khôn khéo hơn và trở nên một Chức sắc gương mẫu. Ông tỏ ra rất tôn trọng Thái
Ca Thanh và đối đãi với ông Ca.
(*) Dịch giả đính chánh: Ông Ca trước khi nhập vào
Đạo Cao Đài, đã được thăng lên ngạch Đốc Phủ và có lần làm Quận Trưởng ở Châu
Đốc. Như người anh lớn tuổi hơn.
Để chứng tỏ thiện cảm của mình đối với Thái Ca Thanh, ông Trung tín nhiệm giao
phó cho ông Ca điều khiển Hội Thánh và bổ nhiệm ông làm Chủ tọa Hội Thánh mặc
dầu phẩm trật của ông Ca không được dành cho những chức vụ cao như vậy.
Cái vẻ bề ngoài của hai vị làm cho người ta tưởng
rằng, Thượng Trung Nhựt và Thái Ca Thanh sẽ cùng nhau đi qua những ngày cuối
của cuộc đời tại Tòa Thánh và từ đây sống với nhau trong tình huynh đệ không
thể phân ly.
Tuy vậy, cuối năm 1930, vâng Sắc lịnh của Đức Giáo
Tông, qui định các Chức sắc từ phẩm Phối Sư trở lên phải ở hẳn tại Tòa Thánh.
Ông Thái Ca Thanh đến lúc nầy vẫn đi lên xuống như con thoi giữa Tây Ninh và
gia đình ở quê nhà tại Mỹ Tho. Ông Ca yêu cầu Ngài Thượng Trung Nhựt cho phép
ông trở về gia đình trong 15 ngày để thu xếp việc nhà một lần cho tất cả, để rồi
có thể tiếp tục trở lại Tòa Thánh và ở
hoàn toàn cố định nơi đó.
Vậy là ông Ca đã tự ý từ bỏ các bạn tốt.
Nhưng lạ lùng thay số phận của Thái Ca Thanh !
Mặc dầu có lời hứa chánh thức là ông không dừng lại
ở Thánh Thất bất phục tùng Cầu Kho (Sài Gòn), khốn khổ thay ông bị lôi kéo bởi
những người cầm đầu chi phái Cầu Kho và ông không có can đảm chống lại. Ông Ca
ở lại Cầu Kho trong vài tuần, nơi đó ông bị thay đổi hoàn toàn.
Phần khác, không nghi ngờ gì nữa, ông Ca được cố
vấn sái quấy bởi những người bất phục tùng tại Cầu Kho, nhứt là bởi Cựu Ngọc
Chưởng Pháp Trần Đạo Quang, ông nầy tổ chức chống lại Ngài Thượng Trung Nhựt,
và phần khác, ông Ca có nhiều sự buồn phiền trong gia đình (vợ và các con của
ông không chịu theo Đạo Cao Đài, làm cho ông rất khổ sở), ông Ca không trở về
Tòa Thánh nữa.
Lúc ấy ông
Ca lập chi phái Minh Chơn Lý và ông xem Tây Ninh là chi phái dối trá và là tác
phẩm của ma quỉ ! Chúng tôi xin kể thêm:
- Các Thần linh tinh quái, ban cho Thánh Thất của
Thái Ca Thanh cái tên là: Tòa Thánh Trung Ương. Bởi cơ bút của những đồng tử
ấy, Cựu Chưởng Pháp Trần Đạo Quang được cất nhắc lên làm Đại diện của Đức Giáo
Tông Vô Vi Lý Thái Bạch, phẩm tước thuần túy là danh dự hàm, nhưng thực tế thì
Ngài Trần Đạo Quang dùng làm bù nhìn cho ông Ca, ông Ca mới là lãnh chúa, người
chủ duy nhứt.
Ông Thái Ca Thanh được chỉ định là Đầu Sư Thái Ca
Nhựt. Ngài Lê Văn Trung mang Thánh danh là Thượng Trung Nhựt: Thượng (phái
Tiên), Trung (tên), Nhựt (mặt trời), Thánh danh ấy có nghĩa là: đạo đức của
Ngài được so sánh với ánh sáng rực rỡ của mặt trời. Ông Thái Ca Thanh tưởng
rằng, khi được chỉ định làm Đầu Sư thì đổi chữ Thanh phía sau thành chữ Nhựt.
Ngài Lê Văn Trung tự thấy mất cái danh hiệu Đầu Sư của Ngài và mất luôn Thánh
danh Nhựt (mặt trời).
Ước vọng của ông Ca được tràn đầy vì nó không còn
chịu đựng tình trạng thấp kém thể hiện đối với Thượng Trung Nhựt mà mặc cho tất
cả, cái tên Lê Văn Trung vẫn còn trong trí não của ông Ca, là địch thủ may mắn
năm 1895 và là nhân sĩ hạng nhứt trong hạnh phúc phi thường.
Chỉ có những kẻ phàm tục sống xa các trung tâm tôn
giáo, tỏ ra ngạc nhiên về bài đọc nầy. Những Thánh Thất, Tịnh Thất, những giáo
hội và phái tu khác, những người tu đạo và những người thế tục, những hệ thống
Chức sắc mà với những sự ganh đua và thù hận bi thảm.
Lúc ấy, Mỹ Tho rõ ràng là được nâng đỡ bởi những
đồng minh cao cấp trong chánh quyền, mưu toan phá hủy Tây Ninh đúng vào lúc có
những cơn biến động của cộng sản: ông Krautheimer luôn luôn không chịu ảnh
hưởng, cũng không hành động, vì xem ông Lê Văn Trung là Nghị viên của Hội Đồng
Chánh phủ ......
Sự thịnh vượng ấy rất ngắn ngủi, hơn thế nữa.
Từ năm 1936, Mỹ Tho không còn biết những thành công
lớn của thời trước và những đổi thay tận gốc rễ có tính cách mạng của Đạo Cao
Đài, bởi hận thù Tây Ninh, không chỉ là một kỷ niệm lịch sử.
Tôi khổ tâm khi viết ra các việc nầy. Cá nhân tôi
với ông Ca chỉ có các liên lạc thân ái tuyệt vời. Nhưng tôi thử viết lịch sử,
điều đó rất khó khăn đối với tất cả mọi người, lịch sử của một tôn giáo với
những khó nhọc và say mê buổi khởi đầu.
Một chi phái khác du nhập từ Trung hoa (Minh
Đường), thành thạo về Yoga, lợi dụng sự khao khát những điều kỳ diệu và thần bí
của người Việt Nam:
- Trong một đàn cơ, THẦY (Đức Chí Tôn) biết được
ông Trần Đạo Quang còn ham danh lợi và muốn lập một nhóm gồm nhiều người phe
mình để dự bị việc phân chi lập phái, nên THẦY nói với ông bằng các câu nầy:
"
Đạo Quang, hãy biết rõ rằng, THẦY xem người nào tìm cách gây chia rẽ là kẻ thù
của THẦY."
Đó là một lời cảnh cáo !
Để làm cho tất cả con cái của Đức Chí Tôn thấy rõ
rằng, đạo đức không ở trong một thân hình đẹp hay trong bộ râu rậm, hay trên
một dáng ngoài đáng kính, THẦY ra lịnh làm bảy cái ngai cho các chức vụ Giáo
Tông, Chưởng Pháp và Đầu Sư để đặt trong Tòa Thánh Tây Ninh, ngay sau chánh
điện và hướng mặt ra các Chức sắc và tín đồ.
Vào một ngày nhứt định cho lễ khánh thành, Ngài
Trần Đạo Quang và các vị Chưởng Pháp và Đầu Sư khác, lên ngồi trên những cái
ngai nầy để tham dự một đại lễ. Những Chức sắc và tín đồ phía trước đều quì
xuống hướng mặt lên các ngai nầy. Những vị Chưởng Pháp và Đầu Sư khác lên ngồi
trên ngai một cách yên ổn, về phần Ngài Trần Đạo Quang thì khó nhọc lắm mới
ngồi được trên ngai của ông, thì một lực vô hình đẩy ông té xuống đất: ông
không xứng đáng với phẩm vị của ông. Lúc ấy, những người dự lễ xét đoán được
cái giá trị đạo đức thực sự của Ngài Chưởng Pháp Trần Đạo Quang.
"Không thể tạo ra một phương kế nào nơi Tòa
Thánh, mà nơi đó ông phải cư trú luôn luôn cho đến khi thoát xác và là nơi mà
sự tu luyện Yoga không được chấp nhận, Ngài Trần Đạo Quang liền bỏ đi, trước
tiên ông liên kết với Thánh Thất Cầu Kho vào năm 1928 và sau đó năm 1930, ông
đến với người chiếm đoạt Thái Ca Nhựt, để sang năm sau ông đến Giồng Bướm (Rạch
Giá) để xây dựng một Thánh Thất mà ông là chủ từ đấy.
Có một sự chia rẽ trong chi phái nầy, làm cho các
nổ lực truyền đạo ở Hà Nội và Hải Phòng trở nên vô ích, và nó bước vào thời kỳ
đình trệ.
Chi phái Bến Tre hiện nay được kể là đối nghịch
nhứt. Bến Tre oán hận Tây Ninh, nơi đó họ nói rằng:
"
Tây Ninh không còn là Đạo Cao Đài đúng nghĩa do Thượng Đế lập nên, mà là chi
phái Phạm Môn do Ông Hộ Pháp Phạm Công Tắc lập ra. Vị nầy đã chiếm đoạt Tòa
Thánh để thiết lập nơi đó một chi phái từ lúc cái chết của vị cựu lãnh đạo Lê
Văn Trung. Những người nào trong Đạo Cao Đài, Chức sắc hay tín đồ, nếu từ chối
nhập vào chi phái Phạm Môn thì bị bỏ riêng ra khỏi Tòa Thánh một cách không
thương tiếc."
Đây là nguồn gốc của chi phái Phạm Môn mà nhiều tín
đồ Cao Đài hiện nay còn lầm lộn với Đạo Cao Đài đúng nghĩa, bởi vì Phạm Môn
được dựng ra ở Tòa Thánh để làm thiệt hại Tòa Thánh và ông Phạm Công Tắc được giao phó Tòa Thánh bởi
sự chiếm đoạt chức vụ lãnh đạo tối cao của Đạo Cao Đài.
Từ năm 1931,
ông Phạm Công Tắc, chưởng quản các đồng tử, không bằng lòng Hội Thánh
Cao Đài trong thời kỳ nầy dưới sự điều khiển của vị cựu lãnh đạo Lê Văn Trung
nên ông Phạm Công Tắc thiết lập chi phái Phạm Môn, gọi theo họ Phạm của ông.
(*)
Những người theo Phạm Môn, số lượng chừng 400 đến
500 người, liên kết với nhau bằng lời thề. Họ luôn luôn hiềm thù những tín đồ
Cao Đài thuần túy. Ông Phạm Công Tắc được họ gọi là Sư Phụ, kế dưới Đại Từ Phụ,
ông gọi những người Phạm Môn là "con"
giống như Thượng Đế gọi chúng ta trong các Thánh giáo của Ngài.
Cố lãnh đạo Lê Văn Trung hoàn toàn chống lại việc
thành lập Phạm Môn mà ông coi như là "quốc
gia trong một quốc gia" rất nguy hiểm đối với Đạo Cao Đài, bởi vì nó
theo đuổi một mục đích tuyệt đối vật chất và vụ lợi. Do đó, nó chính là một
loại hiệp hội của những tín đồ Cao Đài, phần nhiều những người dốt nát, chung
góp tài sản và công sức để lợi dụng tôn giáo vào lợi ích chung của họ.
Giáo lý của Đạo Cao Đài trừ bỏ sự thù hận và thuyết
giảng lòng bác ái, xem tất cả mọi người như anh em được sanh ra bởi cùng một
Cha chung thiêng liêng. Phạm Môn thực hành sự ích kỷ và tuyên truyền sự thù
hận, chống lại tất cả những người không cùng một phe với họ. Đạo Cao Đài qui
định luật lệ về Ngũ giới cấm của Phật giáo, Phạm Môn không biết đến những luật
lệ nầy và thường dùng sự xảo trá và nói dối để sống và truyền bá.
Chánh phủ thuộc địa luôn luôn thiện cảm và tử tế
với Đạo Cao Đài từ lúc thành lập năm 1926. Một số lớn Thánh Thất được phép hoạt
động trong tất cả các tỉnh Nam Kỳ. Sự cúng kiếng được hoàn toàn tự do, không
bao giờ có một ngăn trở có hệ thống nào.
Trái lại, giữa nhiều chi phái của Đạo Cao Đài bao gồm cả Phạm Môn, có thu hút sự chú ý của
công quyền bởi các hành động khả nghi. Thí dụ như, một chi phái như thế, đã tổ
chức một cuộc lể để phong tặng như một ông vua, một đứa bé sơ sinh, con của một
vị (*)
Dịch
giả đính chánh:
Phạm Môn (PM) không phải là chi phái, mà là tổ chức
của những người tu chơn, không mang phẩm tước Chức sắc, tự làm ăn sinh sống để
tu hành chớ không thâu nhận của thập phương. Phạm là Phật, không phải họ Phạm.
PM là Cửa Phật. Ngày 5-3-1934, 500 tu sĩ PM giữ gìn chặt chẽ TTTN, không cho
nhóm của ông Tương Bến Tre, từ Sài Gòn kéo lên dùng bạo lực đánh chiếm Tòa
Thánh, nên ông Tương rất oán hận PM và Đức Hộ Pháp. Do đó mà có những lời vu
cáo rất nặng nề nầy. Trong những vị lãnh đạo và ban cho nó nhiệm vụ Tổng Chỉ
Huy quân đội. Phần khác, người Phạm Môn được hứa bằng cách đóng góp tiền bạc,
sẽ được ban cho phẩm tước và đất đai mà vị lãnh đạo của họ do Thượng Đế giáng
sanh, sẽ sắp đặt trong nay mai.
Như thế, tất cả chi phái đều được sanh ra từ Thần
linh học phàm tục mà các chi phái ấy đã lạm dụng, làm đối tượng cho sự giám sát
của cảnh sát, và do sự giám sát nầy, các chi phái đôi khi bị những khó khăn.
Đó là những chi phái làm biến thể giáo lý đẹp đẽ
của Đạo Cao Đài và họ làm những điều tổn hại lớn. Những chi phái ấy xé nát Đạo
Cao Đài thành nhiều mảnh và họ đã làm giảm giá trị trước mắt nhơn sanh. Không
sanh ra nhiều lần và bất hạnh, tôn giáo thiêng liêng nầy đã cải hóa toàn xứ Nam
Kỳ và đã tự do truyền bá giáo lý trong tất cả các phần khác của Liên bang Đông
Dương. (Tài liệu đã được ký tên nhìn nhận của các đại diện Hội Thánh ngày
15-9-1938)
Như phần trên chúng ta đã thấy, người ta phải nghĩ
rằng, đó là những lời tố cáo độc ác nhứt. Bài khảo cứu của Hiền Huynh Lê Văn
Bảy rất nghiêm khắc đối với vị Giáo Tông của chi phái Bến Tre, bạn thân của ông
Pagès mà ông nầy nhận được nhiều báo cáo bí mật của Bến Tre.
Nhưng ở đây, chúng tôi không muốn lợi dụng tất cả
tài liệu mà chúng tôi có được dưới mắt. Bao nhiêu đó có giá trị ném dầu vào lửa.
Khốn khổ thay cho cái yếu đuối của con người ! Nếu những tâm hồn của người tu
còn đó, làm thế nào để ngạc nhiên thấy rằng, những người tà giáo và kẻ phàm tục
đến đó tàn hại nhau một cách có định kỳ ?
Chúng tôi chỉ thuật lại cái lịch sử rất đau lòng ấy
trong đoạn sau đây (Những lời than phiền, mục số 3, 4, 5) :
3. Tiếp theo những cuộc vận động của những ông Juda
mới, cuộc thông mưu với một viên chức trẻ đã chỉ ở trên, Tỉnh trưởng Tây Ninh
đã ra lịnh chánh thức cho các thân hào nhân sĩ trong làng Long Thành (nơi đặt
Tòa Thánh) hoàn toàn từ chối giúp đỡ những vị điều khiển Tòa Thánh khi họ yêu
cầu và chỉ can thiệp khi có đổ máu, để rồi có thể nghiêm trị những người điều
khiển Tòa Thánh và đóng cửa Đền thờ, cả trường hợp những người nầy hay đồng đạo
của họ là nạn nhân.
4. Từ Tòa Thánh đi ra vài trăm thước là một nơi gọi
là Thái Bình Thánh Địa (một làng hòa bình nơi Thánh địa), với diện tích 80 mẫu
rừng, được khai khẩn bởi sự chăm sóc của Hội Thánh, Đức Quyền Giáo Tông Thượng
Trung Nhựt tạo lập một ngôi làng kiểu mẫu, nơi đây chỉ chấp nhận những gia đình
tín đồ Cao Đài mà tất cả người trong gia đình đều ăn chay trường hoàn toàn, có
đời sống lương thiện và tập quán tốt, và nhứt là những tín đồ đức hạnh, biết
phục tùng luật pháp của giáo hội. Đó là một thị trấn với hơn 500 nhà có hơn
2000 người (nam và nữ) cư trú, không kể trẻ con, trong đó xây dựng một cái chợ
chỉ bán toàn thực phẩm chay, không một miếng thịt, không một miếng cá, cũng
không cả nước mắm.
Những người trong ngôi làng nầy là một hiện hữu
chơn thật, thực sự hòa bình và hạnh phúc, không biết kẻ thù, cũng không biết kẻ
đối nghịch, luôn luôn đi cúng và dùng thời giờ nhàn rỗi để trau luyện đức tánh.
Ông Thượng Tương Thanh, lúc ấy đại diện Đạo Cao Đài
bên cạnh chánh quyền, tự để bắt buộc phá hoại cái chợ nầy. Tỉnh Tây Ninh liền
cất một cái chợ công cộng trên một mảnh đất công cách nơi ấy chừng vài trăm
thước, nơi đây, các thực phẩm ăn mặn được bày bán đầy đủ.
Với sự giúp đỡ của chánh quyền, Thượng Tương Thanh
và Ngọc Trang Thanh thúc giục những cư dân trong làng kiểu mẫu nổi lên chống
lại quyền hành của Giáo Tông. Lợi dụng việc đứng tên làm chủ miếng đất cất chợ,
Thượng Tương Thanh cất lên tại miếng đất ấy, với sự
tán thành của chánh quyền, một cái nhà liên hiệp dành cho những người nổi loạn
đến nơi đó để tạo ra những rối loạn khác, chửi mắng Đức Quyền Giáo Tông và
những Chức sắc khác, tìm cách làm hại tất cả những người nào còn mến mộ Ngài
Thượng Trung Nhựt. Người ta đi đến Tòa Thánh để giục loạn nơi đó.
Kể từ lúc đó, ngôi làng kiểu mẫu trở thành một nơi
tiêu khiển phàm tục, những sòng bạc được lập ra và hoạt động thường xuyên bởi
đủ các hạng người. Tòa Thánh không thể kiểm soát được và có rất nhiều người ăn
chay thuở trước trở thành người ăn mặn một cách đau khổ !
Những người chơn thật phải rời bỏ làng nầy và đi
đến ở trên những mảnh đất khác chung quanh Tòa Thánh hay trở về xứ sở của họ.
Chẳng bao lâu sau, những kẻ chống đối bị lôi cuốn vào cuộc sống phóng đãng,
trụy lạc, sự vô đạo còn đi xa hơn nữa, xa khỏi đất Thánh. Một số người trong
bọn họ từ bỏ tôn giáo hay tập hợp vào một chi phái chống đối khác. Hiện nay,
nơi ấy chỉ còn chừng 30 nhà và các tín đồ nhìn ngôi làng ấy từ thời phồn thịnh,
không thể cầm giọt lệ trước một khung
cảnh điêu tàn.
Như thế, ngôi làng kiểu mẫu đã bị tàn phá mà Cố
Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt đã lắm nhọc nhằn tạo lập ra và làm cho nó
phồn thịnh.
Ngài Thượng Trung Nhựt lập ra ở Tòa Thánh những
tiểu thủ công nghiệp để dạy nghề các tu sĩ và con cái của họ, nhứt là các trẻ
mồ côi, có một cái nghề để cho chúng mưu sinh một cách lương thiện. Thượng
Tương Thanh đã nhận lãnh sứ mạng phá tan tất cả công trình của Thượng Trung
Nhựt và tìm kiếm các lý do cho cái hiệu quả đó. Ông Tương giảng đạo cho những
người mới đến rằng, muốn đạt đến cuộc sống của một tu sĩ thật sự, chỉ cần tụng
kinh từ sáng đến chiều mà không cần làm việc như người thế tục và người ta có
thể nên bắt chước các nhà sư khất thực của Cao Miên hoặc Thái Lan.
Có nhiều tu sĩ công quả làm nghề trồng rau trong
khu vực Thánh địa. Dưới cái cớ là hiệu quả thấp, không lợi nhiều, tiền nhân
công mắc hơn các sản phẩm thu hoạch, nên ông Thượng Tương Thanh cho ngưng lại
tất cả các nghề nầy và gởi trả tất cả tu sĩ làm vườn về gia đình của họ. Sự bãi
bỏ các nghề thủ công và ngưng lại các nghề trồng trọt có hai mục đích:
- Thứ nhứt là vâng theo lịnh của chánh quyền.
- Thứ nhì là làm nãn lòng tất cả tín đồ Cao Đài ở
tại Tòa Thánh để cho họ trở về nhà của họ, bởi vì phần lớn những người nầy đều
tiếp tục ái mộ Ngài Thượng Trung Nhựt (1) và họ tôn sùng Ngài như Thượng Đế,
mặc cho tất cả những xác tín, những áp lực và đe dọa.
5. Vài tín đồ ở chung quanh Tòa Thánh không thể trả
tiền thuế kịp thời, họ bị bắt và bị kiện trước tòa án vi cảnh. Tòa kết án họ bị
phạt tù và phạt tiền và người chịu trách nhiệm dân sự về tiền phạt vạ là Ngài
Thượng Trung Nhựt, thay vì là Ngài Thượng Tương Thanh, đại diện tôn giáo lúc ấy
bên cạnh chánh quyền.
Để phản kháng bản án bất công, Ngài Thượng Trung
Nhựt không trả các món tiền phạt ấy và Ngài để cho họ bắt bỏ tù Ngài với tấm
huy chương Bắc Đẩu Bội Tinh của Ngài !!
Trong sự mong muốn làm nhục Ngài Thượng Trung Nhựt,
ông Vilmont Tỉnh trưởng Tây Ninh đã không dùng một nghi thức nào để tước bỏ tấm
huy chương nầy.
(1) Để cho rõ ràng bài tường thuật nầy, chúng ta
lưu ý rằng: Lê Văn Trung là tên của Ngài Thượng Trung Nhựt trong tôn giáo.
Người ta không có một sự tôn trọng nào đối với Ngài
Lê Văn Trung, một nhân sĩ bậc nhứt của Việt Nam, cũng không tôn trọng tấm huy
chương cao quí nhứt của nước Pháp mà dưới con mắt của Ngài Lê Văn Trung, nó
không có một giá trị nào hết. Ngay khi ra khỏi khám đường, Ngài Lê Văn Trung
liền viết một văn thơ gởi Tổng Thống nước Cộng Hòa Pháp để hoàn trả tấm huy
chương Bắc Đẩu Bội Tinh (một sự kiện lịch sử rất quan trọng).
Để phản đối sự bất công nầy và sự chửi mắng vào
nhân phẩm của người Anh Cả cao cấp đáng kính, tất cả tín đồ Cao Đài nam nữ và
nhi đồng trú ngụ nơi Tòa Thánh và vùng phụ cận chung quanh, làm một cuộc tuyệt
thực phản kháng kéo dài 48 giờ, đây là khoảng thời gian bị bắt bỏ tù Ngài
Thượng Trung Nhựt và chính Ngài cũng bằng lòng tuyệt thực trong tù, chỉ uống
một ly nước mát mỗi ngày. Đó là sự phẫn nộ toàn thể.
Trong tủ sắt của người Thủ Bổn của Tòa Thánh, để
bảo toàn những tài liệu của đạo được ông Lê Bá Trang (Ngọc Trang Thanh) giao
lại, để dẫn chứng những lời oán trách chống lại Ngài Thượng Trung Nhựt, ông Lê
Văn Bảy (Giáo Sư Thượng Bảy Thanh) lúc đó là Chánh Từ Hàn của Thượng Hội, bị
ông Lê Bá Trang theo đuổi và lừa gạt.
Ông Trang đòi hỏi, nói rằng những giấy tờ nầy là
của riêng ông, ông đòi Lê Văn Bảy trả lại cho ông vì Lê Văn Bảy giữ những giấy
tờ nầy không hợp pháp, trong lúc ông vắng mặt tại Tòa Thánh. Một giấy đòi triệu
tập gởi ông Lê Văn Bảy nhưng ông Bảy không nhận.
Người ta lợi dụng việc nầy để chống lại ông Lê Văn
Bảy bằng một trát đòi. Ông Bảy ở Nam Vang, phải mướn một chiếc xe hơi để tự vận
chuyển về Tây Ninh, dưới sự hộ tống của một nhân viên an ninh. Ông Bảy bị còng
hai tay và được chở đi trong một chiếc xe có mui thông thường để chở người bị
bắt. Nhưng với sự can thiệp của Trạng sư Lortat-Jacob, người binh vực Đạo Cao
Đài, đã phản kháng cách xử trí đó và bảo đảm với quan tòa rằng, ông Bảy là
người rất được kính trọng tại Cao Miên.
Dù rằng các tài liệu được tìm thấy một cách chắc
chắn niêm phong nguyên vẹn trong tủ sắt của Tòa Thánh, nhưng vị quan tòa Tây
Ninh vẫn gởi ông Lê Văn Bảy đến chỗ trắc lượng và chụp hình, tất cả giống như
đối với một kẻ cướp đường. Sự oán than được sắp hạng sau đó, nhưng vì khinh
thường công lý, quan tòa trả lại cho Lê Bá Trang những giấy tờ đáng ra phải
thuộc quyền sở hữu của Đạo. Chúng ta đã ở vào thời buổi của sự ngược đãi khởi
phát chống lại tất cả những người nào ái mộ Cố Quyền Giáo Tông, trong lúc đó,
Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang cùng những người phe cánh của họ cho đó là
điều cấm kỵ.
Tuy luật pháp tôn giáo cấm các tín đồ kiện cáo
những vụ án dân sự, nhưng các Chức sắc lớn thì tự cho phép mình khởi tố về tội
nhẹ những Chức sắc khác đối với một vụ việc thuộc tôn giáo. Những tài liệu tôn
giáo là thuộc sở hữu của Hội Thánh, chớ không phải của cá nhân Giáo Tông hay
của một tín đồ nào, trong mọi trường hợp.
Ông Lê Bá Trang muốn sử dụng những thứ đó vào cuộc
vận động báo chí chống lại Ngài Thượng Trung Nhựt, để rồi thử làm mất danh dự
của Thượng Trung Nhựt.
Những mưu toan làm ra là để chiếm đoạt ngôi vị Giáo
Tông của TTTN vì lợi ích cho chi phái Bến Tre, làm hiện ra những sự thỏa mãn
khá đau khổ và những kẻ đồng mưu. Những phương thức áp dụng thật quỉ quái. Thời
kỳ tiếp theo sau cái chết của Ngài Lê Văn Trung chịu nhiều đau khổ. Đây là kết
luận của Hiền Huynh Lê Văn Bảy:
"Hiện nay, tiếp theo những lời phê bình chỉ
trích, bao nhiêu thân hữu và người ủng hộ Nguyễn Ngọc Tương, không gọi ông là
Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương, mà gọi đơn giản là Anh Cả. Thời gian vừa qua, ông
Tương ký tên vào các văn thư và các Châu tri với phẩm cấp Đầu Sư Thượng Tương
Thanh.
Từ năm 1938, ông tự giam mình trong căn phòng ở lầu
một của Thánh Thất Bến Tre, chỉ ăn một bữa cơm mỗi ngày vào giờ Ngọ (ăn Ngọ),
tu luyện Yoga và đắm mình vào Thần linh học: năng lực thông công bởi sự hiệp
nhập. Đáng thương hại thay ! Ông tưởng rằng chơn linh Đức Lý Thái Bạch hiệp
nhập vào ông để làm những điều kỳ diệu !
Từ năm 1932, ông Tương có những sự nghi ngờ về khả
năng thông công của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc (người lãnh đạo hiện nay), nhưng
từ năm 1935, ông tin tưởng hoàn toàn vào vào khả năng thông công của một mục
đồng trẻ tuổi có tên là "CHO",
đồng tử ứng khẩu.
Sự trừng phạt chính xác: Người ta bị trừng phạt bởi
những gì mà người ta phạm tội. Ông Tương muốn giam hãm Cố Quyền Giáo Tông
Thượng Trung Nhựt, và bây giờ tới phiên ông bị giam hãm: Công lý hằng cửu !
Chi phái "Thiên sứ Đại Đạo" đếm được
những Nguyên soái và những Nữ chiến sĩ. Chắc chắn không ? có những người trong
chi phái nầy viết ra trong tờ giấy nào đó các lời khiêu khích, dù rằng có những
cây kiếm bằng gỗ mà họ mang theo và họ nhớ lại họ là những chiến sĩ Trung hoa
cổ trong tiền kiếp của họ. Những đền thờ kỳ quái của họ có những cái tháp giống
như những pháo đài bằng gỗ.
Chi phái Tuyệt Cốc gồm những người tà giáo mà họ
tưởng rằng, muốn trở thành Phật thì cần phải cữ ăn ngũ cốc: gạo, bắp, đậu nành,
đậu, mè.
Năm 1932, một nhóm chừng 12 người (gồm nam, nữ, nhi
đồng) ở tại TTTN trong một cái nhà gọi là Nhà tịnh (chỗ thiền định) được tạo
lập bởi sự coi sóc duy nhứt của ông Thượng Tương Thanh, được dành cho những người
nào muốn thực hành thiền định và tu luyện Yoga. Đó là sở thích của ông Tương.
Nhà tịnh nầy tiếp giáp với một ngôi nhà khác cũng của ông Tương mà nơi đây ông
rất thích đắm mình vào thần bí và tà đạo. Những người nầy đều nhịn ăn ngũ cốc
và chỉ nuôi sống bằng rau cải. Đàn ông, đàn bà và trẻ con đều cạo đầu trọc và
mặc áo thầy chùa nhưng bằng vải đen. Họ thường tụng kinh Phật giáo.
Vào lúc đó, họ đều lên đồng vào mỗi buổi chiều và
đôi khi kéo dài suốt đêm, đến cả ngày mai. Ban ngày họ không làm gì cả hay gần
như vậy.
Ông Tương xem những người nầy như là những tu sĩ
thực sự và ông đặt họ dưới sự che chở của ông. Trong lúc đó, họ đốt nhiều lần
ngôi nhà mà họ ở và trò chuyện, bởi tà đạo của họ. Những sự rối loạn như thế
nên Đức Quyền Giáo Tông tự thấy bắt buộc phải làm cho họ rút lui khỏi Tòa
Thánh. Họ đi cất một ngôi chùa trên miếng đất kế cận đất của Tòa Thánh. Như thế
đó là do ông Tương, một trong các đối tượng bất đồng ý chống lại Quyền Giáo
Tông.
Trưởng nhóm Tuyệt Cốc ấy tên là Điền tự xưng là
Nguyên soái, ông nầy bị bắt ba lần đưa vào nhà thương điên Biên Hòa, nơi đây
sau vài ngày quan sát, người ta thả ông ra vì thấy ông là một người điên vô
hại.
Cuối năm 1932, vào một đêm, tất cả nhóm Tuyệt Cốc
đi đến Tòa Thánh, mưu tính lên ngồi trên những cái ngai của Giáo Tông, Chưởng
Pháp và Đầu Sư, vì họ nói rằng họ đã đắc đạo thành Phật sống.
Hiện nay, nhóm của họ chỉ còn chừng 30 người (gồm
nam, nữ và nhi đồng) và họ tiếp tục đời sống tà đạo. Thỉnh thoảng họ tạo ra một
câu chuyện làm trò cười cho quần chúng và Tòa Thánh Tây Ninh (TTTN) phải chịu
khốn khổ vì người ta xem họ là những tín đồ Cao Đài.
Từ bi kịch
đến hài kịch như người ta thấy . . .
Nhưng, mối lo âu cho sự thật buộc chúng ta nói thêm
rằng, vài Chức sắc đã trải qua việc bất phục tùng Hội Thánh, cứ theo hành vi
xét đoán thì đó là những lời thề giả dối. Họ đã phản bội lời thề và những lời
hứa khác, được họ thừa nhận một cách tự do giữa họ.
Nay thì họ không còn đời sống dân sự, cũng không
còn thánh thiện, không vâng theo (dù thế nào) Thánh giáo đã được ban cho, không
lòng trung thành (rất cứng cỏi) vào chữ ký tên đã ký của mình. Từ sự cám dỗ bởi
lời hứa hợp đồng (mặc kệ anh !) đến người công kích, người nầy đã xâm phạm khế
ước long trọng nhứt và thiêng liêng nhứt mà nó ký nhận, trải qua làm kẻ mắc nợ biếng
nhác và gian trá. Đó là sự trở lại tính hung ác dã man, sự trở lại tính vô nhân
đạo !
Những Chức sắc, trừ ra các tín đồ, không biết lau
sạch vết nhơ do đạo đức giả và do trọng tội.
MINH
TRIẾT ĐÔNG PHƯƠNG.
Tạp chí Religio, la Rivista di Studi Religiosi tại
La Mã do Ernest Buonainti làm Giám đốc đã nêu ra một bài báo về Đạo Cao Đài. Ông G.
Mingiano viết như sau (trang 478):
"Victor Hugo và Đạo Cao Đài:
Một
trong những bạn thân của tôi làm một cuộc hành trình đến Viễn Đông, viết thơ
cho tôi từ Sài Gòn:
" Anh biết chăng, Victor Hugo đã được phong Thánh ? Đó là một tôn giáo
ở Nam Kỳ gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, có một tư tưởng lạ lùng là cấp cho một
đại thi sĩ Pháp những vinh dự thiêng liêng. Anh nói thế nào ?"
Đương lúc ấy, ở nước
Pháp, người ta phải lập một nghị quyết, cho biết làm cách nào cho xứng đáng
nhứt cuộc lễ kỷ niệm 50 năm của Victor Hugo, trong khi các buổi lễ khác được
diễn ra tại Panthéon (Công Thần miếu), tại trường Đại học Sorbonne, tại đảo
Guernesey, được duy trì trong sự bình thường đúng mực của những vinh dự chính thức, thì đây là một
tôn giáo ở Nam Kỳ ban cấp cho nhà thơ những vinh dự thiêng liêng và ghi danh ông vào
hàng phẩm Thần linh. Như thế, một người được vinh dự tôn thờ (hay gần như vậy)
mà trong di chúc nổi tiếng của ông không nhìn nhận tất cả giá trị và nội dung
tôn giáo ở những giáo hội đã được thiết lập và chỉ nhận lãnh lời cầu nguyện của
những người khiêm tốn. (1)
(1) Vâng, có lẽ ! nhưng đừng quên rằng V. Hugo là
một nhà Thần linh học (TLH) và sự ảnh hưởng TLH đối với ông làm cho đời sống
của ông chia làm hai phần: trước và sau khi gia nhập TLH.
" Chúng ta hãy cho vào cử chỉ của người Cao Đài cách đối xử đúng của nó: Sự
tán dương một thiên tài dĩ nhiên như là sự biểu lộ của ánh sáng thiêng liêng;
sự tán dương thơ văn dĩ nhiên như là sự biểu lộ của loài người trong sự điều
hòa thiêng liêng. Hình thức tôn vinh tự đóng khung một cách tự nhiên trong
những quan niệm căn bản của một tôn giáo mới, mà chưa đầy 10 năm đã tập hợp
được gần một triệu tín đồ.
Ở Ba lê, vào cuối năm 1931, tôi có quen biết một
sinh viên Nam Vang, theo học Văn khoa tại Đại học Sorbonne. Cậu là một tín đồ
Cao Đài. Cậu cho tôi biết rằng:
- Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có nghĩa chính xác là Đạo
Cao Đài, được thành lập vào tháng 11 năm 1925 và phô bày một sự tổng hợp ba tôn
giáo lớn ở Đông phương: Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo, hợp với Thiên Chúa
giáo và Thần giáo, tượng trưng Ngũ Chi Đại Đạo mà Đấng Cao Đài (Thượng Đế) mở
ra cho nhơn loại để phát triển và tiến hóa tâm linh. Như người ta thấy, Hồi
giáo không có chỗ đứng trong các con đường dẫn tới Đấng Tối Cao. Trái lại, Đức
Chúa Jésus Christ được tín đồ Cao Đài xem là Sứ giả của Thượng Đế, giáng trần
để hướng dẫn một phần nhơn loại vào con đường tu hành, con đường tương xứng với
khả năng hiểu biết những giá trị tâm linh.
- Với ý thức tôn kính sâu xa, cậu sinh viên trẻ
tuổi Đông Dương ấy gọi tên Đấng Christ với sự vâng phục, cậu nói với tôi về
nghi lễ của Thiên Chúa giáo mà cậu biết cái ý nghĩa huyền bí, đối với tôi, tôi
thú thật, là bài học cao nhứt, hiệu quả nhứt về sự dung thứ, đồng thời là một
gương mẫu của tình huynh đệ chơn thật dâng lên Đấng Tối Cao, nơi đó sự khác
nhau của các danh từ mà người đời cầu nguyện không làm thay đổi gương mặt luôn
luôn rực rỡ bác ái.
Những tín đồ Cao Đài được phân làm hai hạng:
- Bực thứ nhứt (Thượng thừa) gồm tất cả Chức sắc từ
phẩm tột đỉnh (Giáo Tông) đến hạng thấp nhứt là tín đồ mới vào tu, tất cả bị
bắt buộc tuân theo chế độ ăn chay nghiêm khắc, nghèo và thanh đạm (họ tự nuôi
sống duy nhứt bằng rau cải và trái cây), được xem xét gắt gao. Hội Thánh là nơi
căn bản truyền thụ và gồm 7 cấp truyền thụ: Cấp cao nhứt là những anh lớn, có
ưu thế tuyệt đối thông công với các sứ giả của Thượng Đế, những chơn linh cao
cấp của ánh sáng mà họ nhận được khí lực, những lời giáo huấn và khuyên nhủ.
- Bực thứ nhì gồm khối đông đảo tín đồ, ngoài bổn
phận giữ gìn Ngũ giới cấm, họ còn phải khiêm tốn, thật thà, vâng phục quyền
hành bề trên mà họ trực thuộc và vâng lời Hội Thánh.
- Sự thờ cúng không chỉ bao gồm việc tụng kinh chung,
nơi đó, các tín đồ được cầu nguyện trước một bàn thờ, trên đó đặt một quả cầu
lớn trong suốt, trong đó đốt một cái đèn tượng trưng ngọn lửa thiêng. Trên quả
cầu ấy vẽ một hình tam giác tượng trưng sự toàn hảo và sự tổng hợp các năng lực
thiêng liêng, trong tam giác là Thiên Nhãn.
Trong tôn giáo nầy, hai trạng thái mà tôi xem là cơ
bản nhứt :
- Thứ nhứt: đã là một tín đồ Cao Đài, họ không cần
bày tỏ một đức tin nào, không cần liên hệ bởi một lời thề nào: Tự do tín ngưỡng
là tối thượng ở nơi đây. Sự giáo dục thấy được và phát triển, không có ý bắt
buộc các tín đồ, nhưng họ ưng thuận một cách tự do, sự gia nhập tự nhiên và tự
nguyện.
- Thành thử, không một người nào bị trục xuất khỏi
tôn giáo mà không tiếp đãi, không đi theo người nào mà nó quyết định mưu toan
đường khác.
- Lời cầu nguyện của tất cả mọi người, trái lại,
giúp nó được dễ dàng hơn cho những nổ lực mới.
- Và điều đó, bởi vì các tín đồ Cao Đài không chỉ
thừa nhận, mà còn cảm thấy rằng, cuộc sống nơi cõi trần, cuộc sống trong thời
gian và không gian, là bằng chứng, là thử thách, là kinh nghiệm mà mỗi người
phải thực hiện, để rồi tiến bước vào con đường dẫn đến Đấng Cao Đài, Đấng Tối
Cao. Và mỗi người có quyền lựa chọn con đường đi của mình.
- Việc tìm kiếm sự giàu có, sự chiếm đoạt và bành
trướng của thế lực vật chất, đều bị các tín đồ Cao Đài lên án, bởi vì với họ,
cõi Thiên đường chớ không phải cõi trần gian. Nhưng đối với họ, bổn phận và
quyền lợi đồng thời liên đới với nhau trong thời gian, sự giúp đỡ vật chất và tinh thần.
Và đó là lý do của những người ở trạng thái thứ nhì
gốc của Đạo Cao Đài: về mặt dân sự hay hơn nữa về hoạt động xã hội, Đạo Cao Đài
có những trường học đặc biệt dạy các nghề thủ công, giáo dục văn hóa, ngoại
giao, canh nông, vv. . . cách thức bành trướng một công trình dự phòng và giúp
đỡ, có tổ chức và hiệu quả.
Tạp chí Religio đăng tiếp bài của ông G. Mingiano
có những dòng nhan đề là: "Minh
triết Đông phương", ông kết
luận rất đặc sắc :
“ Bạch Thế Thiên (Pai-te-tien) là một thi sĩ Trung hoa. Lúc làm quận trưởng, ông đến
viếng một nhà hiền triết, một đại tín đồ Thiền tông, ông nầy chọn nơi ở trên
những cành cây kết lại của một cây to. Họ Bạch thoạt thấy nhà hiền triết thì
kêu lớn lên: "- Chỗ ở trên cái cây
nầy nguy hiểm quá !"
Nhà hiền triết cãi lại: "- Cái gì ! Cái chỗ ở của ông còn nguy hiểm nhiều hơn chỗ ở của
tôi."
Và tiếp theo là cuộc đối thoại :
- Tôi là Quận trưởng, tôi không thấy một mối nguy
hiểm nào cả.
- Thế là ông không tự biết mình ! Không nguy hiểm
nào lớn bằng dục vọng đốt cháy ông và trí não tối tăm.
- Thế nào là lời Phật dạy ?
- Chư ác mạc tác (không làm các điều ác),
Chúng thiện phụng hành (các điều thiện vâng làm).
- Nhưng, cái đó con nít 3 tuổi cũng biết.
- Đúng, con nít 3 tuổi cũng biết, nhưng người già
80 tuổi như tôi rất khó khăn mới áp dụng kết qủa.
" Hàn Sơn (Han-Shan), thi sĩ, là một người điên,
ông đi đến chùa Quốc Kinh thu nhặt những đồ ăn thừa để nuôi sống. Những thầy tu
chế nhạo ông là một người điên nghèo nàn, ngây ngô và không nguy hiểm. Một ngày
kia, trong một ngôi nhà hẻo lánh, Hàn Sơn kêu lên: Ta nghĩ rằng tất cả những
năm qua, ta đi một cách lặng lẽ đến chùa Quốc Kinh, nơi đấy mọi người nhìn ta
nói rằng: "Hàn Sơn là một người điên".
Hiện thời ta suy nghĩ: "Ta có phải
là một người điên không ? Ta không giải quyết được vấn đề, chính ta không biết
cái Ta riêng của mình, thế thì tại sao những người khác có thể biết ta hơn ta
?”
"
Không nên là một người nói nhiều, để rồi tìm được Thượng Đế trong yên lặng. Hãy
cầu nguyện, cái tâm đầy dục vọng, nhưng không nên nói một lời nào. Lúc ấy,
Thượng Đế sẽ ban cho anh những thứ cần thiết, sẽ nghe tiếng nói của anh, và sẽ
thâu nhận cúng phẩm của anh. Giống như một cái giếng trong sa mạc mà nước rất
dịu ngọt cho ai cháy cổ vì khát, Đấng thiêng liêng đóng cửa khi anh nói và mở
cửa ra khi anh giữ im lặng."
Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Gabriel Gobron