Đời Sống Của Người Tín Đồ Cao Đài - 3 / 3 (Nguyễn Long Thành)

 III - NGUYÊN VĂN TỜ KHAI ĐẠO BẰNG PHÁP NGỮ

Saigon, le 7 Octobre 1926
Monsieur le Gouverneur,
Les soussignés,
Ont l'honneur de venir respectueusement vous faire connaitre cequi suit:
Il Existait en Indochine trois -Religions (Bouddhisme, Taoisme, Confucianisme). Nos ancêtres pratiquaient religieusement ces trois doctrines et vivaient heureux
en suivant strictement les beaux préceptes dictés par les Créateurs de ces religions.
On était, pendant cet ancien temps, tellement insoucieux qu'on pouvait dormir sans fermer les portes et qu'on dédaignait même de ramasser les objets tombés dans la rue (Gia vô bế hộ, lộ bất thập di di, tel est l'adage inscrit dans nos annales)
Hélas! ce bcau temps n'existe plus pour les raisons suivantes:

1 . Les pratiquants de ces religions ont cherché à se diviser tandis que le but de toutes les religions est le même: faire le bien et éviter le mal, adorer pieusement le créateur.
2 . Ils ont dénaturé completement la signification de ces saintes et précieuses doctrines.
3 . La course au confort, à l'honneur, l'ambition des gens, sont aussi des causes principales des divergences d'opinions actuelles.

Les Annamites de nos jours ont completement ABANDONNÉ les bonnes moeurs et traditions de l'ancien temps.

Ecoeurés de cet état de choses, un groupe d' Annamites, fervent traditionalistes et religieux, ont étudié la refonte de toutes ces religions, pour n'en former qu'une seule et unique appelée CAODAISME ou ĐẠI ĐẠO.

Le nom "ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ", qui signifie la troisème Amnistie générale, est donné par L'Esprit suprême qui est vennu aider les soussignés à fonder cette nouvelle religion.

L'Esprit Suprême est venu sous le nom de NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ dit CAO ĐÀI ou "Le Très Haut, DIEU TOUT PUISSANT".

Par l'intermédiaire de médiums écrivant, NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ transmet aux soussignés des enseignements divins ayant pour but de concentrer et d'enseigner les beaux préceptes de ces trois anciennes Religions.
La Nouvelle Doctrine enseignera aux peuples:

1 . La haute morale de Confucius;
2 . Les vertus dicteés dans les religions bouddhique et taoiqe. Ces vertus consitant à faire le bien et éviter le mal, aimer l'humanité, pratiquer la concorde, éviter totalement la dissention et la guerre.
Les soussignés ont l'honneur de vous soumettre:

1. Quelques extraits du recueil des "Saintesparoles" de NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾÙ, paroles estimées plus précieuses que tuot qui existe ici-bas.
2 . La traduction de quelques passages du livre de prières que NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ nous a enseigneés.

Le but poursuivi par les soussignés est de ramener les peuples à l'ancien temps de paix et de concorde. On sera ainsi dirigé vers une époque nouvelle tellement heureuse qu'il est difficile de la décrire.

Au nom de très nombreusx Annamites qui ont entièrement approuvé ces études et dont la liste est ci-joite, les soussignés ont l'honneur de venir respectueusement vous déclarer qu'ils vont propager à l'humanité entière cette Sainte Doctrine.

Persuadés d'avance que cette nouvelle religion apportera à nous tous la Paix et la concorde, les soussignés vous prient de recevoir officiellement leur déclaration.

Les soussignés vour prient d'agreér, Monsieur le Gouverneur, l'assurance de leurs sentiments respectueux et dévoués".

BẢNG DỊCH TỜ KHAI ĐẠO:
Saigon, ngày 07 tháng 10 năm 1926
Kính cùng quan Thống Đốc Nam Kỳ Saigon.
Chúng tôi đồng ký tên dưới đây, kính cho quan lớn rõ:

Vốn từ trước tại cõi Đông Dương có ba nền tôn giáo là: Thích Giáo, Lão Giáo và Khổng Giáo. Tiên nhơn chúng tôi sùng bái cả ba Đạo ấy, lại nhờ do theo tôn chỉ quí báu của các chưởng giáo truyền lại mới được an cư lạc nghiệp. Trong sử còn ghi câu: "gia vô bế hộ, lộ bất thập di", nghĩa là con người thuở ấy an nhàn cho đến đỗi ban đêm ngủ không đóng cửa nhà, còn ngoài đường thấy của rơi không ai lượm.

Nhưng buồn thay cho đời thái bình phải mất vì mấy duyên cớ sau:
1 . Những người hành đạo đều phân chia ra nhiều phe, nhiều phái mà kích bác lẫn nhau, chớ tôn chỉ của Tam Giáo đều như một là làm lành lánh dữ và kỉnh thờ Đấng Tạo Hóa.
2 . Lại canh cải mối chánh truyền của các Đạo ấy làm cho thất chơn truyền.
3 . Những dư luận phản đối nhau về tôn giáo, mà ta thấy hàng ngày cũng tại bã vinh hoa và lòng tham lam của nhơn loại mà ra, nên chi người Việt Nam bây giờ đều bỏ hết những tục lệ tận thiện tận mỹ ngày xưa.

Thấy tình thế như vậy mà đau lòng, cho nên nhiều người Việt Nam vì căn bổn, vì tôn giáo đã tìm phương thế hiệp Tam Giáo lại làm một (qui nguyên phục nhứt) gọi là Đạo Cao Đài hay là Đại Đạo.

May mắn thay cho chúng sanh, thiên tùng nhơn nguyện, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế hằng giáng đàn dạy đạo và hiệp Tam Giáo lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại cõi nước Nam nầy.

Tam Kỳ Phổ Độ nghĩa là đại ân xá lần thứ ba, những lời của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ dạy chúng tôi, đều cốt để truyền bá tôn chỉ Tam Giáo.

Đạo Cao Đài dạy cho biết:
1 . Luân lý cao thượng của Đức Khổng Phu Tử.
2 . Đạo đức của Phật Giáo và Tiên Giáo là làm lành lánh dữ, thương yêu nhơn loại, cư xử thuận hòa mà lánh cuộc ly loạn giặc giã.
Chúng tôi gởi theo đây cho Quan Lớn nghiệm xét:
1 . Một bổn sao lục Thánh Ngôn của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế.
2 . Một bổn phiên dịch Thánh Kinh.
Chủ ý của chúng tôi là muốn làm sao cho nhơn loại được cộng hưởng cuộc hòa bình như buổi trước. Được như vậy chúng sanh sẽ thấy đặng thời kỳ mới mẽ cực kỳ hạnh phúc không thể nào tả ra đặng.

Chúng tôi thay mặt cho nhiều người Việt Nam, mà đã nhìn nhận sở hành của chúng tôi và đã ký tên vào tờ Đạo Tịch đính kèm theo đây, đến khai cho Quan Lớn biết rằng:
Kể từ ngày nay, chúng tôi đi phổ thông Đại Đạo khắp cả hoàn cầu.
Chúng tôi xin Quan Lớn công nhận Tờ Khai Đạo của chúng tôi. (Trích trong Tiểu Sử Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt)

GIÁO TÔNG ĐƯỜNG

BA CON ĐƯỜNG THĂNG TIẾN

Tiến trình tu tập của người tín đồ Cao Đài là nhập môn, giữ gìn giới luật, thờ cúng, làm công quảû, phổ độ chúng sanh, trau tâm sửa tánh, tự xét mình có đủ tiêu chuẩn tam lập (lập đức, lập công, lập ngôn) mới bước vào giai đoạn tịnh luyện, thiền định để tự giải thoát lấy mình. Tiến trình này liên tục và từng giai đoạn thăng tiến đều có sự hướng dẫn đúng lúc.

Về phương diện hữu hình gọi là thể pháp của Đạo: có ba con đường để các chơn linh xuống thế lập vị mình.

I - CON ĐƯỜNG THỨ NHỨT
Lấy quyền hành phẩm tước hữu hình làm phương tiện hành Đạo, phẩm tước ấy phải do công nghiệp hành Đạo và đức hạnh mới có được. Tùy theo công nghiệp phụng sự vạn linh và tài năng đức hạnh có được nhiều hay ít sẽ được thăng phẩm từ tín đồ lên Giáo Tông, ấy là con đường lập quyền Đạo để nương nhờ vào quyền hành ấy làm phương tiện phổ độ chúng sanh.

Các phẩm tước hữu hình trong Hội Thánh chỉ là những nghi thức đối phẩm với các Đấng Thiêng Liêng trong thế giới vô hình, nó đòi hỏi người thọ nhận phải làm tròn thiên chức của mình, khi chết linh hồn mới xứng đáng được gọi là Thần Thánh Tiên Phật. Chẳng hạn phẩm Giáo sư, Pháp Chánh Truyền buộc phải lo lắng cho tín đồ như anh ruột lo cho em. Ôi! được bao nhiêu người có tâm đức ấy, chẳng trách nào Đức Chí Tôn định chỉ có 72 Giáo Sư hành quyền trên toàn thế giới. Hay là phẩm Giám Đạo của Hiệp Thiên Đài đòi hỏi người chức sắc phải có đủ quyền năng tâm linh để tự mình hay biết những vụ vi phạm về luật pháp Đạo đã hay đang xảy ra ở một nơi nào đó mà về phương diện hữu hình chưa lộ tông tích mới đúng nghĩa Giám Đạo, đúng với câu trong Pháp Chánh Truyền "chẳng ai qua luật mà Hiệp Thiên Đài chẳng biết".

Vì vậy phẩm tước hữu hình chỉ là giả tạm và trạng thái sống thực của chơn thần có tinh tấn hay không mới là yếu tố quyết định giá trị của hai tiếng đối phẩm. Con đường đó là Cửu Trùng Đài. Khi chết Chơn Thần rời khỏi xác thân trở về cùng Đức Chí Tôn. Con đường thứ nhất này bao gồm cả những chức sắc cấp dưới của Hiệp Thiên Đài mà sở hành của họ cũng lấy quyền Đạo làm phương tiện lập công.

II - CON ĐƯỜNG THỨ HAI
Con đường thứ hai là Phước Thiện với thập nhị đẳng cấp thiêng liêng cũng có phẩm tước hữu hình để đối chiếu với Thiêng Liêng từ Minh Đức đến Phật Tử.

Sở hành của họ chú ý nhiều đến việc lập đức, tạo ra nhiều của cải vật chất để tế khó trợ nghèo, yểm trợ đời sống hữu hình cho chức sắc hành đạo bất kỳ ở cơ quan nào, nuôi nấng binh vực trẻ mồ côi, người già cả, tật nguyền. Cũng phải đợi đến khi chết chơn thần mới rời khỏi thân xác trở về cùng Đức Chí Tôn.

III - CON ĐƯỜNG THỨ BA
Con đường thứ ba Đại Đạo là tu chơn, tức là con đường tịnh luyện, thiền định, chú ý tới sự rèn luyện, năng lực sống trong nội thân mình theo tiến trình tinh hóa khí, khí hóa thần, thần huờn hư đến chỗ chơn thần có đủ khả năng rời khỏi xác phàm trước khi chết trở về cùng Đức Chí Tôn được. Đây là con đường đi tắt trong kiếp sanh, dĩ nhiên chơn thần xuất ngoại xác thân được thì phải trở về được và sống trọn kiếp người của mình theo đúng Thiên ý. Có rất nhiều lầm lạc vì ảo tưởng ảo giác trong loại sinh hoạt này.

Nếu như ở con đường thứ nhứt và thứ hai người ta có thể lầm lạc chạy theo danh, lợi, quyền trong tôn giáo, cũng là ảo ảnh của cuộc đời, nhầm lẫn phương tiện với cứu cánh làm biến tướng nền chơn giáo thành tả đạo bàn môn thì ở con đường thứ ba này nhầm lẫn chính là ảo tưởng và ảo giác rất tinh vi.

Trong phép thông công của con người với thế giới thần linh cũng có vô vàn những điều đáng tiếc như vậy xảy ra, hậu quả của nó đối với đời sống tín ngưỡng của một số đông người cũng rất đáng thương tâm. (Trích: "Tu Chơn")

LỜI THỀ CỦA CHỨC VIỆC

Tên họ ........... Phẩm vị ......... thề rằng
"Giữ dạ vô tư hành đạo dầu cha mẹ, anh em vợ con cũng chẳng đặng phép tư vị, gìn dạ chơn thành thể thiên hành hóa".

Đây là thủ tục hành chánh và thần quyền mà phẩm Chánh Trị Sự và Thông Sự trong hàng chức việc phải thi hành khi nhận lãnh trách nhiệm hành đạo tại một địa phương.

Lễ tuyên thệ được tổ chức tại Thánh Thất sở tại trước Thiên Bàn, trước sự chứng kiến của Thần Linh, chức sắc cấp trên và đồng đạo, dĩ nhiên lời tuyên thệ này phải được phát âm thành tiếng nói rõ ràng, không phải chỉ nguyện trong tâm. Hai phẩm Chánh Trị Sự và Thông Sự bắt buộc phải tuyên thệ như vậy. Vì hai phẩm này có quyền về luật lệ của Đạo do Hiệp Thiên Đài ban cho.

Pháp Chánh Truyền không buộc phẩm Phó Trị Sự tuyên thệ nhưng trên thực tế ở nhiều nơi người ta vẫn tổ chức lễ tuyên thệ luôn cho phẩm Phó Trị Sự vì xét ra vẫn tốt về phương diện đức tin và tâm lý.

LỜI CẦU NGUYỆN HẰNG NGÀY

I - NỘI DUNG
Ngoài những bổn phận về thế tục phải làm việc để trả nợ áo cơm đã nương vào nhơn quần xã hội cho thân xác được tồn tại, hằng ngày người tín đồ Cao Đài còn có bổn phận về tinh thần phải cầu nguyện năm điều chung sau đây( ):

1 . Đạo Cao Đài được truyền bá sâu rộng.
2 . Chúng sanh biết thức tỉnh tu hành và giải thoát.
3 . Oan nghiệt tội tình của đệ tử được ân xá.
4 . Thế giới được hòa bình.
5 . Nơi thờ phượng Thượng Đế được an ninh.

Những lời cầu nguyện này được dâng lên Đức Chí Tôn và chư Thần Thánh Tiên Phật vào các thời cúng Tý Ngọ Mẹo Dậu (12 giờ khuya, 12 giờ trưa, 6 giờ sáng, 6 giờ chiều). Lời cầu nguyện được đặt sẵn, giống nhau thành lời Kinh Ngũ nguyện là phần chót của kinh cúng Tứ Thời. Những làn sóng tư tưởng phát xuất tự đáy lòng thành khẩn của người tín đồ Cao Đài ở khắp mặt địa cầu hiệp sức lại, cộng hưởng, tạo thành một sức mạnh tâm linh tác động trên tinh thần của nhơn loại theo chiều hướng thánh thiện. Hiện tượng này cũng giống như chúng ta ghép nhiều cục pin nhỏ lại để có được một dòng điện mạnh đủ thắp sáng bóng đèn.

Các Đấng Thiêng Liêng nơi Bát Quái Đài đón nhận những làn sóng tư tưởng của khối tín đồ Cao Đài dâng lên như một dòng thần lực chứa đựng nhơn ý, các Ngài cảm nhận và cho hòa nhập vào trong tâm thức của mình gọi là chứng lòng chúng sanh và tức khắc gởi trả ngược lại chúng sanh sau khi cho thêm thần lực của các Ngài làm gia tăng thánh chất chứa đựng nhiều thánh ý trong đó.

Hiện tượng này gọi là sự chuyển pháp của quyền năng thiêng liêng tuy vô hình mà có thật và người nào nhận được ân huệ thiêng liêng này sẽ có thêm sức sống tâm linh thánh thiện và đời sống hữu hình của thân xác cũng sẽ thay đổi tốt đẹp dần. Sinh hoạt của giới vô hình này nối tiếp rất gần với loài người, chỉ cách một xác thân.

Ngoài năm điều chung trên đây thỉnh thoảng cũng có những vấn đề riêng của cá nhân mà sức phàm không giải quyết nổi, người tín đồ cũng cầu nguyện với các Đấng Thiêng Liêng để xin hộ trì. Tuy nhiên không phải điều cầu xin riêng tư nào cũng được thỏa mãn bởi lý do con người thường hay cầu nguyện theo nhơn dục, mà hễ thuận cùng nhơn dục thì thường nghịch với Thiên Điều.

II - BÍ PHÁP CẦU NGUYỆN
Bí quyết trong phép cầu nguyện là phải thành ý, chánh tâm, có đức tin mạnh mẽ, thần trí phải thật yên tĩnh và lập lại nhiều lần lời cầu nguyện trong một thời gian nào đó và điều cầu xin không quá hơn những gì mà định mệnh đã an bày cho mỗi cá nhân trong mỗi kiếp sanh mới có cảm ứng được. Cũng có những kẻ mà đời sống đầy những tham vọng cá nhân phàm tục, không biết lẽ dinh hư tiêu trưởng là gì, quên câu luân hồi nghiệp báo tiền khiên vay trả chỉ vụ lấy điều lợi trước mắt, họ đi vào cửa Đạo, lễ bái nhiệt tình trong buổi đầu với một thâm tâm mong cầu sự đổi chác có lợi bội phần đối với thế giới Thần Linh. Họ cũng cầu nguyện rất nhiều nhưng chỗ mong cầu vụ lợi phàm tục không được đáp ứng bèn mất đức tin cho rằng Trời Phật không linh. Lợi dụng tâm lý thấp thỏi nầy một số đồng cốt cùng với những tâm linh xấu tìm cách dẫn dụ đức tin của họ xa dần chánh giáo và chung cuộc họ đã lạc bước vào con đường tả đạo bàn môn lúc nào không hay. Thật đáng tiếc và con số tín đồ này cũng không phải là ít.

Lời cầu nguyện chắc chắn được đáp ứng dù ít hay nhiều là những lời cầu nguyện Hội Thánh đã đặt thành pháp trong kinh điển như:

Ngũ nguyện, dâng Tam Bửu, kinh Thế Đạo: trước và sau khi ăn, khi đi ngủ, lúc thức dậy, khi đi ra đường, lúc trở về v.v...

Tất cả đều mang ý nghĩa một tinh thần hướng thượng vô biên, sẵn sàng phụng sự vạn linh sanh chúng để sau một kiếp mang xác phàm chơn thần nhập vào cõi hằng sống được. Chẳng hạn như:
"Nên người con nguyện ra tài lợi sanh"
"Con mong mượn xác đoạt quyền vĩnh sanh" (Kinh ăn cơm rồi)
"Bước ra một bước cảm hoài căn tu" (Kinh đi đường)
"Bồng lai cực lạc chỉ chừng
Đẩy đưa xác tục dựa gần cõi linh" (Kinh đi ngủ)

Hay lời cầu nguyện khi dâng Tam Bửu nội dung tóm tắt như sau:
" Con xin dâng cả hình hài, trí não và linh hồn con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng". (Trích LTĐ của ĐHP Q1 tr 115)

III - THỂ THỨC ÁP DỤNG KINH THẾ ĐẠO
Về thể thức áp dụng kinh Thế Đạo trong sinh hoạt hằng ngày của người tín đồ, người ta thường dùng lối tâm pháp nghĩa là chỉ cầu nguyện trong tâm trí của mình bằng tư tưởng, không phát âm thành lời nói.Chẳng hạn như khi ngồi vào bàn ăn để chừng một phút đồng hồ cắt đứt mọi tạp niệm, cầu nguyện trong tâm theo lời kinh ăn cơm, không làm ra vẻ gì khác biệt với những người xung quanh về hình thức bên ngoài. Ăn xong rồi cũng áp dụng như vậy.

Nếu áp dụng đầy đủ trung bình cứ một ngày 24 giờ người tín đồ Cao Đài đánh thức đời sống tâm linh mình 10 lần cứ cách vài tiếng đồng hồ họ lại hướng tâm về Đức Chí Tôn và Thần Thánh một cách sâu kín bên trong: 3 bữa ăn là 6 lần, đi và về 2 lần, ngủ thức 2 lần tổng cộng 10 lần. Sinh hoạt nầy không mấy khó khăn nặng nhọc nhưng đòi hỏi phải có đức tin mãnh liệt, sự thành tâm, trì chí liên tục mới có kết quả tạo được sự cảm ứng thường xuyên với quyền năng thiêng liêng của Đức Chí Tôn và các Đấng. Hiệu ứng rõ rệt nhất của nó là quan niệm sống, tánh tình của người cầu nguyện sẽ thay đổi tốt đẹp dần theo chiều hướng thượng.

Điều cần lưu ý về kinh đi đường là không nên cầu nguyện trong lúc đang lái xe để tránh bị phân tâm dễ gây tai nạn, phải cầu nguyện trước khi lái.

Toàn bộ sinh hoạt tâm linh loại này đòi hỏi phải sống thật với lòng mình. Với nội dung, ý nghĩa của lời kinh như nói chuyện với Thần Thánh trước mặt mình vậy. Nếu chỉ áp dụng lấy lệ cho có hình thức như trả bài sẽ không có kết quả.

Nguyện kinh Thế Đạo theo lối tâm pháp này dễ dàng áp dụng trong mọi hoàn cảnh, mọi lứa tuổi đều thích hợp vì nó chỉ diễn ra trong nội tâm của từng cá nhân người cầu nguyện. Tuy nhiên trong những môi trường sinh hoạt thuần tôn giáo và có tính cách cộng đồng như ở tại Thánh Thất, Điện Thờ Phật Mẫu các cháu đồng nhi thường đọc kinh thành lời khi ăn cơm, hình thức này còn có thêm tác dụng về phương diện truyền giáo, nhưng đối với người lớn không mấy thích hợp vì nó nặng nề về hình thức nên phần đông đều chọn lối tâm pháp nhẹ nhàng hơn. Vả chăng ngoài xã hội trong những sinh hoạt thế tục hằng ngày người tín đồ phải chung đụng với nhiều người không cùng tín ngưỡng thì hình thức cầu nguyện sâu kín bên trong vừa với tâm lý nhiều người hơn.

Tóm lại, dù hình thức nào đi nữa khi áp dụng Kinh Thế Đạo trong phép tu thân thì vấn đề chính là tâm linh của người tín đồ phải có tiến bộ. Còn nếu như không có tiến bộ ắt phải có một nguyên nhân sai lầm ở một điểm nào đó trong chu trình chuyển hóa nguồn năng lực sống từ tiên thiên đến hậu thiên và từ hậu thiên đến tiên thiên nơi nội thân của mỗi con người. Chẳng hạn đức tin không chánh lý nên thiếu sự trợ thần của Bát Quái Đài hoặc không biết trụ thần khi cầu nguyện hoặc biết trụ thần nhưng cường độ không đủ mạnh v.v... Trong trường hợp đó phải học lại lý đạo cho sâu và điều chỉnh chỗ sai pháp ấy.



CẦU NGUYỆN TRONG VIỆC LÀM ĂN

I - NỘI DUNG
Trong lãnh vực đức tin con người được tự do cầu khẩn với các Đấng Thiêng Liêng nào mà mình tin tưởng và cảm thấy dễ dàng linh ứng. Sự chọn lựa ấy có những lý do sâu xa ở những liên hệ tiền kiếp của linh hồn họ.

Trong công việc làm ăn sinh sống hằng ngày một số người tín đồ Cao Đài vẫn có thói quen cầu khẩn sự phò hộ của Thần Linh để giúp họ dễ dàng đạt đến mục đích mà họ mong muốn. Họ thường kêu gọi đến quyền năng Thiêng Liêng của hai phẩm: Thần Thổ Địa và Thần Hoàng Bổn Cảnh.

Nếp sinh hoạt tín ngưỡng dân gian này đã có từ lâu đời trước khi khai mở Đạo Cao Đài và người tín đồ Cao Đài vẫn tiếp tục tin tưởng như thế. Tuy nhiên khi hòa nhập chung vào nghi lễ của nền tôn giáo mới này, vẫn có vài biến đổi. Chẳng hạn tập tục tín ngưỡng cúng Thần thờ ở các Đình làng tức là Thần Hoàng Bổn Cảnh người ta cúng cả chay lẫn mặn, còn người tín đồ Cao Đài chỉ cúng toàn đồ chay mà thôi. Vì vậy đây không phải là một sinh hoạt tín ngưỡng đặc thù của Cao Đài giáo mà là nếp tín ngưỡng dân gian mà người Cao Đài đồng hóa. Họ thường kêu gọi đến sự giúp đỡ của Thần linh trong những trường hợp như: Khởi đầu một công trình xây cất, khai trương một cơ sở làm ăn, mở đầu công việc mùa màng trồng trọt ở một vùng đất mới đặt chân đến đầu tiên v.v...

Nội dung lời cầu nguyện thường gồm bốn điểm chính.
1 . Danh tánh và địa chỉ của người cầu nguyện.
2. Công việc đang làm hoặc sắp làm.
3 . Yêu cầu Thần linh phò hộ cho mình điều chi, về phương diện nào.
4 . Để làm gì, tức là lời khấn nguyện mình sẽ sống như thế nào với sự giúp đỡ của các Đấng ấy và đây là điều rất hệ trọng.
Không phải tất cả những gì cầu nguyện đều được Thần linh phò hộ.

II - QUAN NIỆM THẦN LINH
Trong sự tín ngưỡng của người theo Đạo Cao Đài, Thần linh là những Đấng tác động trên đời sống của người tín đồ để phò hộ cho họ những sinh hoạt về phần xác lẫn phần hồn theo chiều hướng giúp họ biết tu thân lập đức đi đến chỗ giải thoát, thành thử chỉ có những lời cầu nguyện nào mà nội dung phù hợp với trách nhiệm thiêng liêng của các Ngài mới mong được dễ dàng chấp thuận. Trách nhiệm ấy là dạy dỗ dân làng biết làm lành lánh dữ, sống an cư lạc nghiệp, đủ sức chịu đựng sự trả quả mà mỗi cá nhân đã gây ra từ trước. Chỉ có các Đấng ấy mới quyết định chấp thuận những lời cầu khẩn hay không, còn người tín đồ chỉ theo những tập tục lâu đời của ông bà để lại họ cầu nguyện một chiều theo lòng tin của họ. Ở đây chúng ta cần loại bỏ những khía cạnh mê tín dị đoan trong các hình thức tín ngưỡng. Chẳng hạn trường hợp sau đây:

Một người sống chủ trương không cần lễ nghĩa chi cả, chẳng cần trí tín gì hết, chỉ làm sao có nhiều tiền, nhiều của cải vật chất, thỏa mãn được dục vọng giác quan của mình là hạnh phúc rồi. Y cũng theo đạo Cao Đài rồi mở một quán rượu, trịnh trọng cầu khẩn Thần linh phò hộ cho mình làm ăn phát đạt. Lấy lý trí bình thường của một người chúng ta xét thử trường hợp nầy.

Nếu như lời cầu nguyện của y được giúp đỡ có hiệu lực, nghĩa là bán rượu chạy, thì sẽ có nhiều người phải say sưa gây ra những bất hạnh cho xã hội. Thử hỏi Thần linh là những Đấng có trách nhiệm dạy dỗ người dân hiền lành hướng thiện có thể giúp cho y đạt được mục đích giàu sang do bán rượu thật chạy để nhiều người phải khổ hay không? Rồi khi có thật nhiều tiền, nhiều vật chất, y lại sống theo dục vọng của giác quan, đời sống của y càng sa đọa và tiếp tục đào tạo con cái ăn chơi hư hỏng. Thử hỏi, đứng ở cương vị Thần linh các Ngài có thể tác động theo lời cầu xin đó để cho linh hồn y tạo nhiều ác nghiệp và đi nhanh vào cõi đọa được không?

Đây chỉ là trường hợp mê tín dị đoan mà thôi. Vận dụng năng lực thần quyền vào công việc làm ăn cần loại trừ khía cạnh mê tín dị đoan nầy. Theo quan niệm của người tín đồ Cao Đài Thần linh là những Đấng vô hình đứng trong hàng chánh giáo, khác hẳn với các vong linh thấp. Vì vậy chúng ta không nên khấn nguyện với tâm trạng mong cầu sự đổi chác bằng những lễ vật cúng bái hay nói khác hơn là lo lót để được Thần linh phù hộ.

Trường hợp thứ hai nầy vẫn thấy xảy ra ở một số người tín đồ không hiểu lý sâu của Đạo. Cũng có những lời cầu nguyện rất chính đáng xét về nội dung, rất đáng được giúp đỡ nhưng trạng thái nội tâm của người cầu khẩn chưa có một tâm ý hướng thiện rõ rệt, các Ngài vì lòng từ bi cũng độ rỗi trong một thời gian, sau đó xem xét lại. Nếu như chơn thần của y chưa thức tĩnh theo chiều hướng thiện, nghĩa là quên lời khấn nguyện ban đầu, tinh thần rơi vào trạng thái mô tả qua câu kinh sám hối:
"Lâm nguy nguyện vái làm lành
Tai qua rồi lại dạ đành phụ vong"

Các Ngài sẽ ngưng phò hộ, công việc làm ăn thấy trôi chảy trong buổi đầu, sau đó mất hẳn đi những phần may mắn, lý do không còn sự phò hộ của Thiêng Liêng nữa mà chỉ còn năng lực của trí phàm con người tranh đấu nhằm đoạt lợi ở thế gian mà thôi.

Tóm lại, theo quan niệm của người tín đồ Cao Đài, Thần linh là những Đấng rất gần gũi với những sinh hoạt của con người, các Đấng ấy luôn giúp đỡ cho người tín đồ thăng tiến trên con đường tu thân lập đức và đủ sức chịu đựng sự trả quả của mình đã gây ra từ trước. Vì vậy họ không ngần ngại vái van cầu khẩn các Đấng này phò hộ cho họ trong đời sống hằng ngày.

Về hình thức lễ bái không có qui định nào rõ rệt, có khi chỉ đơn thuần là một lời khấn, có khi là một nén hương, có khi là một đĩa trái cây hay một mâm cơm chay. Tuyệt nhiên không dùng đồ mặn trong khi cúng Thần Thổ Địa và Thần Hoàng Bổn Cảnh trong nếp sinh hoạt của người tín đồ Cao Đài. Điều này đã có từ khi mới khai Đạo do lời dạy của vị Thần Hoàng Bổn Cảnh ở làng Mỹ Lộc, quận Cần Giuộc và lời dạy của Đức Chí Tôn về trách nhiệm dạy dỗ dân làng của Thần Hoàng Bổn Cảnh làng Long Thành là nơi Toà Thánh Tây Ninh đang tọa lạc.
Lời dạy của Đức Chí Tôn 1927.

"... Thầy đã ban sắc cho Thần Hoàng Long Thành thăng lên chức Văn Xương vào trấn nhậm làng Hiệp Ninh, dạy dỗ dân làng về Đạo, Thầy ban trọn quyền thưởng phạt đặng răn làng ấy cho đến ngày biết ăn năn cải hóa...
Vậy thì làng Long Thành, các con khá an lòng..." (TNHT .Q I. 1969 Tr 98)

Lời dạy của Thần Hoàng Bổn Cảnh làng Mỹ Lộc ngày 18-01-1927.
" Từ thuở Ta vâng chiếu chỉ đến trấn nhậm nơi đây, Ta một lòng lo cho lê thứ đặng an cư lạc nghiệp, thạnh vượng mùa màng mỗi mỗi đều lo lắng cho chúng sanh nơi phần trách nhiệm...

Từ đây Ngọc Đế truyền lịnh cho Ta phải theo phò chư Cao Đạo hữu, nên Ta lo lắng bội phần hơn khi trước, mỗi khi có việc chi tai biến hay là có những bịnh truyền nhiễm thì đến đây Ta sẽ dạy cho mà lánh những điều tai hại.
Còn việc tế lễ cúng, Ta muốn dùng đồ chay hay là cây trái, chớ sát sanh.

Tế tự là tại sao ?
Phàm có lòng tin mới cúng chớ, cúng là lấy có lễ đó, gọi là kỉnh trọng. Chớ Thần Thánh nào ăn của ai. Bởi thế nên ai dùng vật thực mà cúng tốt hơn nên dùng trái cây. Ai có lòng tế lễ chi chi Ta cũng chẳng trách đặng vì cựu lệ bày đến ngày nay..." (TNHT QI 1969 Tr 87-88)

Chúng ta cần phân biệt cho rõ ràng trong thế giới vô hình cũng có những chơn linh thấp kém xấu xa sống lẫn lộn với những chơn linh cao trọng. Hai cấp bực Thần Thổ Địa và Thần Hoàng Bổn Cảnh mà người tín đồ tin tưởng là những chơn linh tốt, biết thương yêu chúng sanh, sẵn sàng phò hộ giúp đỡ cho đời sống nhơn sanh phát triển theo chiều hướng thánh thiện khác hẳn với những vong linh thấp kém mà đôi khi nhập vào xác những đồng cốt đòi hỏi người ta cúng cho mình ăn vật nọ, vật kia theo những ảo giác của chơn thần họ đang diễn ra. Thành thử khi vận dụng năng lực phò hộ của Thần linh trong công việc làm ăn hằng ngày cần phải thận trọng. Nếu trong tâm của người khấn nguyện dù không nói ra bằng lời rõ rệt mà có ý đổi chác song phương, "Nếu Ngài phò hộ cho tôi, tôi sẽ cúng Ngài một đĩa trái cây" chẳng hạn, đó là một điều thất lễ.

Đối với các vị Thần linh phải hết sức tránh chỗ tâm ý thấp thỏi này do lòng mê tín của con người để khỏi phải làm phiền lòng các Đấng ấy. Vì thương đời mà phải gần gũi với những sinh hoạt trần tục của chúng sanh và phải nghe những điều bất chánh trong tâm của kẻ cầu nguyện.

Các Đấng ấy làm việc một cách vô tư vì trách nhiệm thiêng liêng của mình tại mỗi địa phương, không phải vì các phẩm vật cúng tế. Còn lễ và kính trọng là bổn phận của người tín đồ hiểu lý sâu của Đạo, một hình thức sinh hoạt theo hướng Trời Người hiệp nhứt.


CẦU NGUYỆN TRONG VIỆC HỌC HÀNH THI CỬ

Trong công việc học hành thi cử người tín đồ Cao Đài đặng phép cầu khẩn với quyền năng thiêng liêng của Đức Chí Tôn khai mở khiếu thông minh cho mình để học hành mau tiến bộ, đến nơi đến chốn, thi cử đỗ đạt, hầu mai sau khi ra đời sống một đời sống có nghĩa nhân, biết thương yêu bạn đồng môn, thương yêu sanh chúng trên đường công danh, biết làm lành lánh dữ, nghĩa là sống đời sống của hàng chánh nhân quân tử trong xã hội. Lời cầu khẩn ấy được cô đọng trong câu:
" Cầu khẩn Đấng chơn linh nhập thể
Đủ thông minh học lễ học văn
May duyên gặp hội Long Vân
Thuyền thơ ngọn gió Các Đằng xuôi đưa " (Kinh nhập học)

Về phương diện tâm lý, nội dung của lời cầu nguyện có tác dụng hướng dẫn con người sống theo hướng thánh thiện.

Về phương diện thần quyền, mỗi con người đều có một linh hồn, linh hồn hiện ra nơi thân thể trong yếu tố gọi là Thần của Tam Bửu. Thần là sự sáng suốt của tâm linh ngự trị nơi phàm thể con người điều khiển khí và tinh. Cầu khẩn chơn linh nhập thể là thúc giục năng lực thánh thiện của Thần biểu lộ nơi trí não của con người cho được nhanh chóng và cao độ. Năng lực sáng suốt của Thần nơi con người có 2 tác dụng:

- Đối với quá khứ, nhớ lại được những ký ức đã ghi nhận do sự hiểu biết từ trước và dường như bị chôn vùi đi theo thời gian. Khi Thần linh hoạt nó sẽ nhớ lại được những ký ức nầy, tức là những kiến thức đã học được từ tiền kiếp hay là ở trong kiếp này hiện ra nhanh chóng khi cần vận dụng đến.

- Đối với tương lai, năng lực của Thần sẽ làm gia tăng tính sáng tạo của con người để tìm tòi khám phá thêm những qui luật của sự sống mà Đức Chí Tôn đã đặt để nơi con người và ở thiên nhiên biết biến cải môi trường sống cho mình được tồn tại, tấn hóa trên dòng thời gian.

Đó là nói về nguyên lý của sự sống một cách tổng quát, còn chi tiết hơn khi người tín đồ trong công việc thi cử, học hành phải cầu nguyện đến quyền năng của các Đấng Thiêng Liêng hỗ trợ cho mình thì có phải là việc làm mê tín hay không?

Tất cả những tri thức của con người còn đọng lại trong phần gọi là ký ức của tinh thần người ấy, với thời gian quá lâu những ký ức ấy có thể bị phai mờ đi, mình gọi là quên. Nhưng thật ra tất cả những gì mình đã nghĩ, đã làm trong quá khứ đều lưu trữ lại ở trong sự sáng suốt của chơn linh mình. Sau khi thân xác này chết đi những ký ức vẫn tồn tại trong chơn linh người đó. Khi đi đầu kiếp chơn linh mang một hình xác mới những ký ức ấy vẫn còn nhưng ở một trạng thái tiềm ẩn và chính nó làm thành sức thông minh bẩm sinh nơi đứa bé. Dinh dưỡng đầy đủ và giáo dục đúng cách sẽ làm tăng trưởng sức thông minh qua từng kiếp sống.

Vì vậy một người đã qua nhiều lần chuyển kiếp, học hỏi được nhiều kinh nghiệm sống trong quá khứ, năng khiếu thông minh nơi trí não của họ thường thường cao độ.

Đó là những gì có tính cách bẩm sinh nơi một con người, nếu chúng ta biết đánh thức nó dậy thì sự biểu lộ của nó về phương diện hữu hình đo lường bằng hệ số thông minh của trí não con người sẽ đạt đến mức cao hơn là không biết đánh thức.Vì vậy phải có kho tàng kiến thức cũ nằm ở dạng tiềm ẩn, khi một chơn linh con người đi đầu kiếp thì sự thông minh bẩm sinh cao nơi đứa bé mới có được. Không có trường hợp linh hồn của một con thú đã tấn hóa nhập vào hình xác của một con người nhờ ăn uống đầy đủ mà có trí thông minh bẩm sinh cao được.

Lời cầu nguyện trong kinh nhập học:
" Đại Từ phụ xin thương khai khiếu" là chiếc chìa khóa Thần quyền để khơi dậy kho tàng tâm linh của ký ức tiền kiếp biến đổi nó thành sức thông minh hiện tại để học và hiểu nhanh chóng những vấn đề mà trí não của con người đang đối diện.

Một khi người tín đồ đã hiểu được chơn pháp của đạo một cách sâu xa và biết vận dụng những lời kinh tiếng kệ một cách khôn ngoan sẽ tạo cho mình một chánh tín. Cho nên cầu nguyện trong việc học hành thi cử rất cần thiết để cho vai trò của chơn linh mình dạy dỗ được trí phàm biết sống theo tánh linh sẵn có nơi mỗi người.

Đức Chí Tôn dạy:
"Nơi thân phàm các con, mỗi đứa Thầy đều cho một chơn linh gìn giữ cái chơn mạng sanh tồn... Đấng chơn linh ấy vốn vô tư... nhứt nhứt điều lành và việc dữ đều ghi chép không sai, đặng dâng vào Tòa phán xét... Các chơn linh ấy tánh thánh nơi mình đã chẳng phải gìn giữ các con mà thôi mà còn dạy dỗ các con..." (TNHT- TG 1928)

Chơn linh tức là linh hồn của con người, nơi tích lũy những ký ức qua nhiều kiếp sống tức là sự sáng suốt, khôn ngoan tiềm ẩn nơi một con người. Biết dùng phép cầu nguyện để khơi dậy kho tàng quí báu của kiến thức cũ trong quá khứ đó biến đổi thành trí thông minh của hiện tại là biết sống với lẽ Đạo, biết sống với quyền năng cao diệu mà Đức Chí Tôn đã ban cho con người. Nói riêng về quá khứ gần trong một kiếp sanh của con người, lời cầu nguyện có được sự may mắn trong việc học hành thi cử có nghĩa là gì ?

- Trước nhứt, năng lực Thần quyền do các Đấng Thiêng Liêng bố hóa cho người cầu nguyện sẽ làm cho Thần của họ thêm linh hoạt nhớ lại những gì đã học hỏi từ trước để trong công việc thi cử trả lời cho đúng. Vì vậy trong kho tàng ký ức của họ phải có những kiến thức do việc học hành lưu lại, nhờ sự phò hộ của quyền năng thiêng liêng sẽ làm cho mình nhớ lại trọn vẹn và trả lời đúng, tức nhiên là thi đậu.

- Thứ hai, vận dụng được sự sáng tạo của trí thông minh mình trả lời những vấn đề khi người ta đòi hỏi phải biết, phải có những sáng kiến mới giải đáp được.

- Thứ ba, là những điều kiện sinh hoạt ở xung quanh mình không gây trở ngại trong việc thi cử như sức khỏe tốt, phương tiện di chuyển an toàn, thời gian không trễ nải v.v...

Tóm lại phải có sự chăm chỉ học hành từ trước, lời cầu nguyện may mắn mới có ý nghĩa trong sáng của nó. Khía cạnh mê tín dị đoan thường nằm ở chỗ không chịu học hành mà muốn Thần Thánh phò hộ giúp đỡ cho mình đỗ đạt.



SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO
I - SỨ MẠNG CÁ NHÂN
Từ những lời cầu nguyện hằng ngày:
- Nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai.
- Nhì nguyện phổ độ chúng sanh.

Là sinh hoạt thuộc quyền năng tư tưởng có sự chuyển pháp của các Đấng Thiêng Liêng hộ trì về phần vô vi sang lãnh vực hữu hình. Đức Chí Tôn dạy mỗi tín đồ phải có sứ mạng truyền bá đạo lý của Ngài cho người khác hiểu và hành động theo Thánh ý.
" Còn chư môn đệ đã lập minh thệ rồi, ngày sau tùy âm chất mỗi đứa mà thăng hay là tội lỗi mà giáng, song buộc mỗi đứa phải độ cho đặng ít nữa là mười hai người".(TNHHT QI Tr 42)

Mỗi lần tái kiếp trong một gia đình nào đó linh hồn sẽ có thêm họ hàng thân thích, tạo thành gia tộc hữu hình và bởi tình yêu thương, nợ khí huyết vay mượn của tổ phụ lưu truyền, khi thoát xác chơn thần của những người thân ấy có những liên hệ ràng buộc với nhau, bởi vậy mới có phép điều chỉnh nghiệp quả.
"Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa" (Kinh cầu cha mẹ qui liễu)

Tình đồng đạo cũng vậy, khi chúng ta độ rỗi một người nào nhập môn vào Đạo phải có trách nhiệm dìu dắt lẫn nhau anh trước em sau mà đến nơi Bồng Đảo. Tình yêu thương và trách nhiệm tâm linh ấy nối kết các chơn thần khi thoát xác trở thành họ hàng gia tộc nơi cõi thiêng liêng.

Đức Chí Tôn dạy:
"Hễ bao nhiêu môn đệ độ rỗi của mỗi đứa thì là họ hàng của mỗi đứa hiểu à!
"Chừng ấy về đến Bạch Ngọc Kinh thì gia tộc mỗi đứa đều phân biệt, nếu chẳng độ rỗi thì về với hai tay không".

Ấy vậy sứ mạng truyền giáo để phổ độ chúng sanh đặt nền tảng trên bổn phận của từng cá nhân người tín đồ. Không phải chỉ có chức sắc hay chức việc mới có bổn phận truyền giáo mà mỗi người tín đồ đều có bổn phận ấy.

II - PHƯƠNG TIỆN GIÁO QUYỀN
Khi mở Đạo Cao Đài tại Việt Nam Đức Chí Tôn có tiên tri.
"Nam Bắc cùng rồi ra ngoại quốc
Chủ quyền chơn Đạo một mình Ta" (TNHT. TG 15. 9 Bính Dần)

Làm thế nào để ứng hiện lời tiên tri ấy?
Trên thì có các Đấng Thiêng Liêng chuyển pháp khai mở năng khiếu tâm linh của con người, những ai hữu duyên cùng Đạo trên khắp mặt địa cầu, dưới thì có quyền hành Hội Thánh là phương tiện để độ rỗi nhơn sanh. Phép tu hành nhằm đạt đến sự giải thoát Chơn Thần con người, còn quyền hành áo mão, chức tước chỉ là phương tiện để xác thân làm việc. Hai phương tiện truyền giáo hữu hiệu nhứt là nơi thờ phượng Thượng Đế và các Đấng Thiêng Liêng để nuôi dưỡng đạo tâm vì:

"Lễ bái thường hành tâm Đạo khởi" và kinh điển để truyền bá đức tin hiểu đạo lý cho chính đáng, tránh lạc lầm vào chỗ mê tín dị đoan.

Ngoài ra còn có việc truyền bí pháp thuộc phần sinh hoạt cao cấp không tiện nói ra trong quyển sách nhỏ bé nầy.

Các phương tiện truyền thông đại chúng như truyền thanh, truyền hình, báo chí, hình ảnh, ghi âm đã giúp ích rất nhiều trong việc truyền giáo. Nhưng phương tiện dù tối tân đến đâu, kinh điển dù cao siêu thế mấy, trên hết mọi sự con người mới là chính. Đời sống của người tín đồ, sự sinh hoạt thể xác và tinh thần, nếu còn nặng mang nhiều nét phàm tục trước mắt chúng sanh thì nền Đạo đang có dấu hiệu qui phàm. Trong một nền tôn giáo nếu thiếu những tấm gương sáng chói về đạo đức của con người ở cõi tục nầy thì việc truyền giáo cũng mất đi phần hữu hiệu.

 Kinh điển giải bày lý đạo cao siêu, truyền thông đại chúng rộng rãi, đó chỉ là lý thuyết; còn thực hành thì đời sống của người tín đồ ra sao mới là kết quả. Ấy vậy việc tu thân của mỗi cá nhân người tín đồ là nền tảng của cơ phổ độ.

Lấy thí dụ cụ thể chẳng hạn:
- Muốn khuyên người nào chay lạt đặng giảm bớt nghiệp sát sanh.
- Hay từ bỏ rượu thịt say sưa cho chơn thần an tĩnh.
- Muốn khuyên đừng cờ bạc đặng bỏ tánh gian tham.
- Hay xa lánh gió trăng cho gia đình đừng nghiêng đổ.

Trước hết phải tu chỉnh bản thân mình để làm gương cho người khác thì lời khuyên mới có giá trị và mới hy vọng cảm hóa đặng lòng người. Ấy vậy tu thân là chính trước khi sử dụng giáo quyền thi hành sứ mạng phổ độ mà Đức Chí Tôn giao phó.

Đức Phật Di Lạc trên nóc Hiệp Thiên Đài

XÉT CÂU MINH THỆ
I - PHÉP XÉT MÌNH
Vào giai đoạn chót của đời sống người tín đồ Cao Đài người ta cho áp dụng phương thức xét mình bằng cách gọi tên người sắp qui vị và thúc giục:
" Ớ (tên họ người qui vị) thành tâm cầu nguyện.
Nguyện Chí Tôn linh hiển độ sanh
Ăn năn sám hối tội tình
Xét câu minh thệ gởi mình cõi thăng" (Kinh cầu hồn)

Đức Thất Nương Diêu Trì Cung khi giáng cơ giải thích về cõi Âm quang có dạy rằng:
"Chớ chi cả nhơn sanh biết xét mình trước khi thoát xác thì tự nhiên tránh khỏi Âm quang". (TNHT QII Tr 92)

Đức Chí Tôn cũng nhắc nhở môn đệ Ngài phải biết xét mình hằng ngày trên bước đường tu học và hành Đạo.

" Phải thường hỏi lấy mình khi đem mình vào lạy Thầy buổi tối, coi phận sự ngày ấy đã xong chưa mà lương tâm có điều chi cắn rứt chăng? Nếu phận còn nét chưa rồi, lương tâm chưa đặng yên tịnh thì phải biết cải hóa, ráng sức chuộc lấy lỗi đã làm thì các con có lo chi chẳng bì bực Chí Thánh..."  (TNHT 24.12.1926)

Phép xét mình không phải là điều mới lạ, từ ngàn xưa các bậc Thánh hiền đã truyền dạy, các Đấng Thiêng Liêng trong Đạo Cao Đài chỉ nhắc nhở tín đồ, Đức Hộ Pháp gọi đây là phép hồi quang phản chiếu, lấy ánh sáng tâm linh soi rọi trở lại hành tàng của mình đã thi thố từng ngày, từng tháng, từng năm và cả kiếp sanh, xem xét chỗ dở chỗ hay để định bước tương lai cho đúng theo Thánh ý. Nó bao gồm nhiều vấn đề trong cuộc sống nhưng nơi đây chỉ nhắc đến vài lời tâm nguyện mà thôi.
Trước hết xin đề cập đến lời minh thệ nhập môn.

II - Ý NGHĨA NỘI DUNG LỜI MINH THỆ NHẬP MÔN
Tên họ ........... thề rằng:
"Từ đây biết một Đạo Cao Đài Ngọc Đế chẳng  đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư môn đệ, gìn luật lệ Cao Đài, như sau có lòng hai thì Thiên Tru Địa Lục".

Tất cả tín đồ Cao Đài đều phải qua thủ tục minh thệ nầy khi nhập môn cầu Đạo. Lời minh thệ phải được phát âm thành tiếng nói rõ ràng trước sự chứng kiến của Thần linh và giới chức sắc có thẩm quyền về hành chánh Đạo, thấp nhứt là cấp Chức Việc Bàn Trị Sự.

Đây là một nghi lễ hữu hình có ba tác dụng:
- Về hành chánh Đạo: Để có đủ yếu tố pháp lý cấp giấy chứng nhận tín đồ gọi là Sớ Cầu Đạo.
- Về tâm lý cá nhân: Để người tân tín đồ biết sợ hình phạt của Thiêng Liêng mà giữ gìn giới luật của kẻ tu hành.
- Về thần quyền: Để được các Đấng Thiêng Liêng nhìn nhận là môn đệ của Đức Chí Tôn và do đó sẵn sàng phò hộ cho mình trong cuộc sống tu hành.

Chúng ta biết rằng mỗi linh hồn đều có quyền tự chủ của mình, thăng hay đọa là do luật nhân quả tác động một cách vô tư do sở hành của chính linh hồn ấy gây ra. Vì vậy phải có lời minh thệ là một hình thức cam kết tự nguyện sống trong giáo pháp Đạo Cao Đài, chấp nhận sự thưởng phạt của các chơn linh cao trọng đóng vai trò người hướng đạo cho mình trong suốt cuộc hành trình trở về cùng Thượng Đế thì những chơn linh ấy mới sẵn sàng can thiệp vào đời sống của mình với mục đích yểm phàm phục thánh.

Điều kiện nầy được xác định qua lời dạy của Đức Chí Tôn đối với một số môn đệ tại Cần-Giuộc chưa qua thủ tục nhập môn trong thời kỳ mới khai Đạo.

"Quỉ Vương đến trước Bạch Ngọc Kinh xin hành xác và thử thách các con, Thầy chẳng chịu cho hành xác, chúng nó hiệp Tam Thập Lục Động toan hại các con. Nên Thầy sai Quan Thánh và Quan Âm gìn giữ các con nhưng phần đông chưa lập minh thệ nên chư Thần Thánh Tiên Phật không muốn nhìn nhận". (TNHT 1. 7. BD)

Ngoài ra cũng về phương diện thần quyền phải có minh thệ nhập môn thì khi chết Hội Thánh mới tiến hành các thủ tục độ hồn như tụng kinh hấp hối, thượng sớ tân cố, cầu siêu làm phép xác độ thăng, làm tuần cửu, tiểu và đại tường cho người giữ đúng luật Đạo.

III - KHÔNG NHẬP MÔN, TU ĐẶNG CHĂNG
Thế nhưng có những giáo pháp chủ trương không cần đến tha lực mà chỉ tập trung ý chí của mình để phát triển nội lực, thôi thúc tiến trình hoàn thiện đến mức độ giải thoát tinh thần mình khỏi mọi hình thức ràng buộc, nghĩa là giác ngộ.

Trên bình diện ngôn ngữ chúng ta thấy có sự khác biệt giữa các giáo pháp nầy nhưng trên thực tế, sự chuyển hóa dòng sinh lực nội thân khi con người có những cố gắng tu học vẫn giống nhau cũng ví như về phương diện hữu hình hễ thức ăn vào dạ dày chịu luật biến dưỡng, chất bổ dùng nuôi thân còn cặn bả đào thải ra ngoài, phàm thân con người ai cũng vậy. Trong địa hạt tâm linh dầu có cầu đến tha lực hay không một khi có ý muốn hoàn thiện phát khởi trong tâm con người thì thần, khí của mình liền biến đổi trạng thái từ xấu ra tốt và luật giao cảm tinh thần trong thế giới bán hữu hình cũng thay đổi đối tượng tương cầu thu hút lại gần sự chú ý của những đơn vị sống không hình xác là những tầng điển quang thanh trong không gian gọi là Thần Thánh Tiên Phật. Sự giao cảm làm tăng cường độ rung động điển quang của Chơn Thần và do đó đương nhiên có thêm sức sống tâm linh cho con người, thần khí con người trở nên tinh tấn hơn.

Hiện tượng gia tăng nội lực tâm linh nầy gọi là Phật Trời phò hộ, ban ơn hay do công phu ý chí của mình mà đạo tâm trở nên tinh tấn cũng chỉ là cách nói, cách nhìn vấn đề tinh luyện bản thân từ những góc độ nào đó mà thôi. Khi người tín đồ chân thành cầu nguyện sự trợ giúp của Thần Linh hay chỉ tập trung ý chí muốn hoàn thiện bản thân kết quả của hai phương pháp nầy vẫn giống nhau ở chỗ là làm cho sức sống tâm linh của mình trở nên mãnh liệt hơn thì phương pháp cầu nguyện Thần Linh trợ lực cũng là một hình thức nâng cao ý chí hoàn thiện và ngược lại tập trung ý chí hoàn thiện cũng là một hình thức thu hút sự trợ lực của Thần Linh qua luật giao cảm tự động.

Ấy là chỗ gặp nhau giữa các giáo pháp hay là lẽ thuần nhất trong biến đổi là chơn lý đó vậy. Đối với thể xác cũng thế, hễ ăn thì phải no, no là vì thức ăn đầy dạ dày, chẳng phải vì tiếng nói tôi ăn hay tôi nuốt. Hễ mình biết và tu hành thật sự thì đương nhiên tinh thần trở nên tinh tấn, còn tranh luận về giáo pháp chỉ là kiến thức mà thôi. Cũng chẳng khác nào một người cầm tấm bản đồ trên tay cứ ngồi một chỗ học thuộc lòng từ tọa độ A -> B nhưng chân không bước đi thì chẳng bao giờ đến đích.

Do đó khi đã chọn một giáo pháp nào cần phải theo đuổi cho đến nơi đến chốn. Vị Giáo chủ nào cũng chỉ có mục đích là dạy cho con người làm lành lánh dữ mà thôi, và thủ tục minh thệ nhập môn trong Đạo Cao Đài là một sự ràng buộc cần thiết để giúp người tín đồ chế ngự phàm tánh cho dễ dàng đi đến đích sau cùng của đời tu là giải thoát.     


LỜI KHẤN KHI HẤP HỐI

Vị chứng đàn đứng trước đầu bịnh nhơn kêu tên người bệnh hấp hối dầu dứt hơi rồi cũng vậy.
"Tôi vâng lệnh Đức Chí Tôn đến tụng kinh cho linh hồn đạo hữu nhẹ nhàng siêu thăng tịnh độ, vậy đạo hữu phải tịnh  thần mà nghe và phải cầu nguyện Đức Chí Tôn ban ân lành cho". (Trích Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo)

Trường hợp người bệnh hấp hối là chức sắc thì kêu thánh danh của người ấy. Đây là thủ tục thần quyền của người cầu kinh, thốt ra lời nói hay chỉ khấn trong tâm cũng được. Điều quan trọng là tinh thần phải nghiêm trang, nghĩa là tập trung tư tưởng cao độ để hiện tượng trợ thần xảy ra có hiệu quả, nghĩa là Chơn Thần bịnh nhân phải nghe và hiểu được lời dặn.

Phải kêu tên bệnh nhân trước để họ chú ý đến lời nói của mình trường hợp bệnh nhân đã tắt thở. Đây là thuật truyền âm giữa người sống và Chơn Thần người chết nên phải tuân thủ những qui luật sơ đẳng về thần quyền để việc cầu kinh hấp hối thật sự là một thiệt dụng của chơn truyền tận độ của Đức Chí Tôn, khác hẳn với mê tín dị đoan.

Bí quyết trong phép độ hồn nói chung là nguồn năng lực tinh thần của người cầu rỗi phải tinh tấn nhưng hạng người nầy ở thế gian hãy còn quá ít trong khi người cần được giúp đỡ lại quá nhiều. Những qui định của Hội Thánh trong Tân kinh buộc phải thiết lễ cúng Chí Tôn trước, rồi mới cầu hấp hối nhằm mục đích để các Đấng Thiêng Liêng trợ thần cho người sắp đọc kinh có thêm sức mạnh tâm linh, giúp đỡ hữu hiệu cho chơn thần người chết định tỉnh được dễ dàng, trong khi môi trường điển quang chung quanh thường thì rất hỗn loạn do sự xúc động của thân nhân người chết gây ra là chính, hay do trạng thái nội tại của chơn thần người chết đầy dẫy những ác nghiệp khiến họ hốt hoảng luyến tục hay hôn mê trong giờ phút vừa tắt thở. Như vậy người cầu kinh phải chịu hao thần, nghĩa là mất năng lực sống tâm linh của mình một ít để truyền năng lực ấy cho vong linh người chết, giúp họ định tỉnh nhẹ nhàng rời khỏi thân xác.

Do đó càng có đông người tinh thần tốt đến thành tâm cầu nguyện chơn thần người chết càng hưởng được nhiều ân huệ thiêng liêng. Vì vậy buộc người chết khi còn sống phải đắc nhân tâm, gọi là đắc thế, để được nhiều người thương mến mình đến đọc kinh cầu nguyện một cách chân thành, trợ thần mình khi thoát xác và chúng ta nên nhớ rằng không có quyền lực nào buộc con tim của chúng sanh phải yêu thương mình khi mình không xứng đáng. Có đông người tốt tham dự đọc kinh cầu nguyện cũng giống như có nhiều cục pin ghép lại thì cường độ của dòng điện phát ra càng mạnh, sức truyền thần càng gia tăng, chơn thần người chết càng hưởng được nhiều sự ân xá của Đức Chí Tôn.

Tóm lại bí quyết trong phép cầu hấp hối là ở đức độ, sự thành tâm và khả năng tập trung tư tưởng của người cầu rỗi.

Trường hợp ngược lại, nếu vì lý do thế tục nào đó, chẳng hạn quyền lợi chính trị, thông lệ xã giao, buộc người ta phải đến tham dự cầu hồn một cách nhiệt tình bề ngoài chẳng thật tâm, thì dù có đông bao nhiêu đi nữa, việc ấy chỉ có tác dụng tâm lý đối với người sống mà thôi. Phần bí pháp trong chơn truyền tận độ của Đức Chí Tôn phải có đủ hiệu năng nâng đỡ sự thăng tiến của linh hồn người chết mới trọn vẹn ý nghĩa.

THUYỀN BÁT NHÃ DI QUAN VÀO KHÁCH ĐÌNH ĐỂ CẦU SIÊU TRƯỚC KHI AN TÁNG

TANG LỄ
I - Ý NGHĨA SỰ CHẾT
Người tín đồ Cao Đài quan niệm rằng tất cả mọi hiện tượng diễn biến, mọi tạo vật đã hình thành trong vũ trụ trên dòng thời gian vô định đều phát xuất từ một nguồn sống duy nhất được con người gọi tên bằng nhiều danh hiệu khác nhau với tất cả lòng thành kính. Nguồn gốc sống ấy đầy khắp trong vũ trụ bao la, sáng suốt tột cùng, biết sáng tạo ra muôn loài vạn vật trong đó có con người.

Nguồn gốc sống linh diệu ấy người tín đồ Cao Đài sùng kính qua danh hiệu Đức Chí Tôn, có nghĩa là Đấng được tôn kính tột cùng trong vũ trụ. Đấng Tạo Hóa ấy sanh ra con người có hình thể, xương thịt và có linh hồn ngự trị bên trong để điều khiển khối vật chất ấy theo những qui luật gọi là PHÁP. Pháp là những qui luật vận hành trong vũ trụ: Pháp vận hành mới có biến đổi tạo ra sự sanh tử của kiếp người trong khoảng thời gian và không gian hữu hạn.

Chết là hiện tượng linh hồn rời khỏi thân xác vĩnh viễn để trở về nguồn gốc ban đầu của nó là Đấng Chí Tôn. Khi lập Đạo Cao Đài Đức Chí Tôn giáng cơ dạy rằng:

"Khi chưa có chi trong càn khôn thế giới thì khí Hư vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực".
"Chi chi hữu sanh cũng do bởi chơn linh Thầy mà ra, hễ có sống ắt có Thầy. Thầy là cha của sự sống, vì vậy mà lòng háo sanh của Thầy không cùng tận".
"Khai thiên địa vốn Thầy, sanh Tiên Phật cũng Thầy, Thầy đã nói một chơn thần mà biến càn khôn thế giới và cả nhơn loại".

Hoặc là:
"Bởi vậy một chơn thần Thầy mà sanh hóa thêm chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần và toàn cả nhơn loại trong càn khôn thế giới nên chi các con là Thầy, Thầy là các con".

Vì vậy người tín đồ Cao Đài quan niệm rằng:
Con người có nguồn gốc từ Thượng Đế là Đấng Chí Tôn có bản thể và cấu tạo của một tiểu vũ trụ. Chết là lúc:
"Hồn Trời hóa trở về Thiên cảnh
Xác đất sanh đến lịnh phục hồi" (Kinh tẩn liệm)

Chết không phải là hết như nhiều người đã lầm tưởng. Chết là thay đổi trạng thái sống từ hình thức có thân xác đến hình thức không có thân xác. Hình thức sống nầy tiếp nối hình thức sống kia theo luật nhân quả, nghĩa là khi còn mang xác phàm nếu con người biết tu hành, làm lành lánh dữ thì khi chết phần tinh anh cao cấp nhất của con người gọi là linh hồn sẽ tiếp tục sống trong trạng thái tốt gọi là Thần Thánh và ngược lại nếu con người làm điều ác, hung dữ thì khi chết linh hồn sẽ sống trong trạng thái xấu gọi là ma quỷ.

II - THỜ CÚNG TỔ TIÊN
Tục thờ cúng tổ tiên của con người là một biểu lộ của lòng tưởng nhớ đến cội nguồn. Cội nguồn của con người gồm hai phần, phần gần gũi thấy được trong kiếp sống là cha mẹ, ông bà đã sinh ra thân xác mình, phần xa xôi phải suy luận mới thấy được là Thượng Đế, ông cha chung của muôn loài vạn vật trong càn khôn vũ trụ này. Sau khi chết, phần xác của con người hư hoại, phần hồn vẫn tồn tại. Thờ cúng tổ tiên là để tỏ lòng biết ơn đối với linh hồn người quá cố, nó mang ý nghĩa một sự đền đáp lại món nợ mà mình đã vay của tiền nhân trên cả hai phương diện vật chất và tinh thần. Vì vậy trong Cao Đài giáo, cái chết và đời sống của linh hồn con người sau khi chết có một ý nghĩa hết sức quan trọng và còn liên quan mật thiết đối với những thế hệ con cháu bởi sự ràng buộc của luật nhơn quả. Đức Chí Tôn dạy rằng:
"Các con là Thầy, Thầy là các con".

Cùng một ý nghĩa đó có thể nói rằng:
"Con cháu là ông bà cha mẹ, ông bà cha mẹ là con cháu".

Sự sống phần hồn của ông bà cha mẹ tốt hay xấu có thể điều chỉnh lại được phần nào bằng việc làm của con cháu. Con cháu biết tu hành, làm điều lành sẽ ảnh hưởng tốt đối với đời sống phần hồn của ông bà cha mẹ nơi cõi thiêng liêng. Đó là ý nghĩa của câu kinh:
"Thong dong cõi thọ nương hồn
Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa"

Câu kinh ấy là một lời dặn dò, an ủi hứa hẹn của con cháu đối với vong linh người vừa mới chết được long trọng đọc lên trước linh cửu, trước sự chứng kiến của Thần linh và người sống tham dự tang lễ.

Tuy nhiên đó là cái thể pháp của Đạo, phần bí pháp là sự sống thực của tinh thần con cháu, có lập đức được hay không sau khi tang lễ ấy chấm dứt lại là một vấn đề khác. Một vấn đề đòi hỏi rất nhiều công đức của các thế hệ con cháu tiếp nối và sự hiểu biết sâu xa rành mạch về chơn truyền tận độ của Đức Chí Tôn, không thể nhằm lẫn với mê tín dị đoan được.

Chúng ta đã chứng kiến qua nhiều đám xác có biết bao đứa con đầu chít khăn tang sụt sùi ngấn lệ, tiếng khóc uất nghẹn trong khi tiếng cầu kinh của đồng nhi vang vang.

"Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa" để rồi sau khi vùi xong nắm xương tàn của người quá cố vào lòng đất lạnh, họ lại tiếp tục say đuổi theo mục đích giàu sang danh vọng, chẳng còn nghĩ gì đến việc lập đức cả. Người chết có khả năng biết được tư tưởng của người sống một cách dễ dàng và trong trường hợp đó vong hồn của ông bà cha mẹ vừa mới mất sẽ vô cùng đau khổ về sự hững hờ của con cháu đối với mình. Điều họ cần hơn hết là khí thanh và thần an là năng lực sống của người biết tu hành, có đức độ và con cháu họ đã không đáp ứng được nhu cầu nầy.

III - NGHI THỨC TANG LỄ
Bởi quan niệm rằng con người có xác và hồn, khi chết xác hư hoại nhưng hồn vẫn tồn tại nên các nghi thức áp dụng trong tang lễ của người tín đồ Cao Đài đặt trên căn bản một cuộc tiễn đưa linh hồn người quá cố đi qua một thế giới mới khác hơn cuộc sống trần tục của chúng ta.

Nội dung các bài kinh đọc trong suốt các diễn tiến của đám tang đều có cùng ý nghĩa là tỏ lòng thương tiếc, biết ơn đối với người đã chết, dặn dò vong linh đừng luyến tục, luôn luôn hướng về nguồn cội của linh hồn là Thượng Đế để được thăng lên cõi giới an nhàn cực lạc. Những người thân trong gia đình và bạn bè của người chết tập trung cầu nguyện cho linh hồn người chết được nhẹ nhàng siêu thoát qua lời kinh cầu siêu. Đó là một phương pháp truyền năng lực sống tâm linh (gọi tắt là truyền thần) cho vong linh vừa rời khỏi thân xác cho họ thêm sức sống trong cõi giới mới nầy, chẳng khác nào chúng ta tặng quà cho người đi xa vậy. Các bài kinh ấy gồm có:
- Kinh cầu hồn khi hấp hối và chết rồi.
- Kinh tẩn liệm.
- Kinh cúng tế của người thân trong gia đình (vợ tế chồng, chồng tế vợ, con tế cha mẹ, em tế anh).
- Kinh cầu tổ phụ đã qui liễu.
- Kinh cúng tế của thân bằng quyến thuộc. Đặc biệt đối với người làm nghề dạy học, các học trò cũ sẽ đọc bài kinh tế Thầy, ca ngợi công ơn của vị Thầy đã dạy dỗ mình nên danh phận với đời.
- Kinh cầu siêu.
- Kinh đưa linh cửu đến nơi an táng.
- Kinh hạ huyệt.

Việc đọc kinh trong tang lễ của người tín đồ Cao Đài hoàn toàn tự nguyện, do đồng nhi thực hiện, người tham dự có thể cùng đọc theo hay lắng nghe hòa tâm ý của mình vào lời kinh cũng được.

IV - PHÉP ĐỘ THĂNG
Trong các nghi thức tang lễ của người tín đồ Cao Đài, phép độ thăng là phần sinh hoạt cao cấp nhất thuộc lãnh vực huyền linh và rất khó thực hiện. Trước nhất nó đòi hỏi người chết phải có một đời sống tu hành tối thiểu là giữ được giới luật 10 ngày chay mỗi tháng một cách nghiêm chỉnh và thứ đến phải có chức sắc được thọ truyền bí pháp độ thăng có đủ quyền năng linh hiển mới thực hiện được. Vị chức sắc hành pháp phải truyền vào vong linh người chết một làn khí thanh và thần lực đầy an tĩnh, thoát tục, lấy từ năng lực tinh thần của chính mình và số người tham dự cầu siêu có thành tâm và có đời sống tu hành tương đối tốt. Trong phút chốc vong linh người chết cảm thấy mình được nhẹ nhàng thanh thoát và sáng suốt hơn trạng thái sống trước đó. Đây là sự thay đổi trạng thái tâm linh của chơn thần người chết nhờ vào tha lực. Dĩ nhiên phải có Thần linh giáng ngự trên chơn thần và thể phách của vị chức sắc hành pháp để hỗ trợ cho động tác độ thăng được linh hiển. Người hành pháp phải có đủ công đức mới diêu động nổi khối điển quang của Thần linh và khối người cầu siêu giúp đỡ hữu hiệu cho vong linh.

Phương pháp nầy chỉ là sự giúp đỡ một phần nào cho vong linh người chết được nhẹ nhàng siêu thoát, chớ tự nó không phải là một phép mầu xóa bỏ được tất cả mọi tội tình oan nghiệt trong kiếp sanh của kẻ ấy. Hành trang mà chơn thần người chết mang theo là nghiệp quả của kiếp sống họ đã nghĩ và hành động theo hướng nào hoặc thiện hoặc ác, giờ đây họ phải gánh chịu, không thể chối bỏ được.

Thăng hay đọa là kết quả của cả kiếp người, làm phép xác, cắt dây oan nghiệt, độ thăng là giúp thêm sức cho chơn thần dễ dàng thăng tiến cũng ví như một khách lữ hành đi tới ngã ba đường đang khát nước, được giúp một bát nước cho mát dạ, còn sự đói no ấm lạnh của họ trong suốt cuộc hành trình là do túi hành trang, lương thực mà họ mang theo đầy hay vơi.

V - TUẦN CỬU CÚNG GIỖ
Thể thức độ phần hồn cho các vong linh được tiếp nối trong vòng 581 ngày sau khi chết tuần tự diễn biến như sau:

Cứ cách 9 ngày một lần gia đình thân nhân người chết mang linh vị đến Thánh Thất để tụng kinh tiếp tục cầu nguyện cho vong linh được nhẹ nhàng siêu thoát từ tuần cửu thứ nhất đến tuần thứ chín kéo dài trong 81 ngày. Sau đó ngưng lại trong 200 ngày đến tiểu tường và sau tiểu tường 300 ngày là đại tường.

Các bài kinh đọc trong 9 tuần cửu, tiểu và đại tường đều khác nhau, nội dung mô tả sự thăng tiến của linh hồn đến các cõi giới ngày càng thanh cao hơn. Việc đọc kinh hàm ý nhắc nhở linh hồn người chết biết mình sắp được hưởng ân huệ gì trên con đường trở về cựu vị. Dĩ nhiên ân huệ ấy được mô tả theo ngôn ngữ trần gian. Còn cảnh giới tâm linh, trạng thái sống không hình xác có nhiều điều khác với trí người tưởng tượng.

Cách thức cúng tế, đọc kinh tuần cửu, tiểu và đại tường có chỉ dẫn rõ ràng trong quyển kinh Thiên Đạo và Thế Đạo do Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh phổ biến. Sau lễ đại tường chấm dứt thời gian thọ tang của con cháu đối với người chết. Thông thường lễ đại tường được tổ chức trọng thể hơn tiểu tường và các tuần cửu. Từ đó trở đi gia đình tổ chức cúng giỗ hàng năm vào ngày chết để kỷ niệm.

Ý nghĩa việc cúng tế vong linh người chết có hai vấn đề rõ rệt:
- Phần hữu hình là để con cháu bày tỏ lòng biết ơn kính trọng đối với tiền nhân và cầu xin cho linh hồn được siêu thoát.
- Phần vô hình là để thực hiện chơn truyền tận độ của Đức Chí Tôn. Bí quyết trong việc độ hồn là nguồn năng lực sống tinh thần của người cầu rỗi phải tinh tấn. Quyền lực của các Đấng thiêng liêng cao cả sẽ giúp di chuyển tính chất tinh tấn này truyền đến các vong linh nặng nề ô trược, chẳng những giúp di chuyển mà các Ngài còn cho thêm trong đó để làm giảm bớt tính nặng nề ô trược kia.

Vì vậy luật công bình thiêng liêng đòi hỏi ở con cháu người chết phải biết tu thân lập đức để phần khí và thần trong nội thân họ trở nên thanh cao, thánh thiện và nhờ đó qua lời cầu nguyện, tính thanh cao thánh thiện ấy được truyền đến người chết đặng bù đắp vào chỗ khiếm khuyết của vong linh.

Nói cho dễ hiểu hơn, buổi sống chẳng may ông bà cha mẹ thiếu tu, kém đức nên vong linh còn nặng nề luyến tục thì nay con cháu phải tu thân lập đức đặng lấy công đức của mình mà dâng hiến, bù vào cho ông bà cha mẹ. Nếu không chịu lập đức nghĩa là bản thân con cháu còn thiếu đức thì lấy đức nơi đâu mà dâng hiến? Còn sự cầu nguyện lời kinh tiếng kệ chẳng qua là phương pháp gởi đi, truyền chuyển công đức mà thôi, cũng ví như sợi dây nối giữa người sống và người chết. Lấy chuyện nhỏ thế gian mà ví, muốn cho ai tiền mình phải có tiền mới cho được, không có tiền lấy gì mà cho, dầu muốn cũng không được.

Tóm lại, con cháu phải lập đức mới có đức để giúp ông bà cha mẹ "huờn ngôi xưa" được.
Chơn thần người chết cần có được tình trạng
"Khí trong trẻo dường như băng tuyết
Thần im đìm dường nét thiều quang
Xa chừng thế giái địa hoàn
Cõi thiên đẹp thấy nhẹ nhàng cao thăng" (Kinh đệ nhị cửu)

Và hẳn nhiên, mâm cao cổ đầy, rượu ngon, bánh lạ, hoa quả hương thơm chất đầy trên bàn thờ chỉ là chuyện của trần gian do chút lòng tưởng nhớ, hiếu hạnh mà bày bố ra thôi!

KẾT LUẬN

Vài sinh hoạt mô tả như trên đây không đủ để nói lên hết ý nghĩa của đời sống một tín đồ Cao Đài. Tuy nhiên nó cũng giúp cho độc giả nhất là các bạn đạo mới bước chân vào ngưỡng cửa tôn giáo hiểu được phần nào nhân sinh quan Cao Đài giáo.

Dù mang sắc thái nào, vai trò của tôn giáo thế gian vẫn mưu cầu một đời sống công bằng, ấm no, hạnh phúc, thanh bình cho mọi người. Khát vọng sâu xa ấy thể hiện rõ rệt nhất trong những sinh hoạt thường nhật của người tín đồ. Thoạt tiên là những lời cầu nguyện chân thành thường xuyên dâng lên Đức Chí Tôn mỗi khi cúng tế tại Đền Thánh, Thánh Thất hay tư gia. Rồi đến những hành động cụ thể hơn từ việc giáo dục đời sống hôn nhơn cho thanh niên nam nữ, huấn luyện trẻ con, cho đến việc hướng dẫn người lớn sống với nghĩa nhân, nuôi dưỡng tinh thần dân tộc, bảo vệ giống nòi, phát triển tình giao hảo quốc tế trên căn bản đại đồng huynh đệ, lấy tình thương thay cho thù hận, nhìn nhau là anh em ruột thịt cùng một gốc sinh ra. Nguồn gốc ấy phải thật linh thiêng, quyền phép đáng kính, đáng trọng, đáng tôn sùng hơn hết mọi sự nên gọi là "CHÍ TÔN".

Và một khi đã đặt mình trong mối tương giao Trời Người hiệp nhất thì đời sống con người trở nên phong phú, sinh động vô cùng. Tâm trạng chán nản, bơ vơ, lạc lõng của người luôn thấy cuộc đời vô nghĩa là dấu hiệu nghèo nàn của những tâm hồn đã quên mất cõi nguồn thiêng liêng ấy nên mới chuyên chú xây dựng một thứ hạnh phúc trên bụi trần làm đảo điên thiên hạ.

Ước gì mọi người đều rõ biết mọi lẽ ẩn vi trong các sinh hoạt thường nhật của đạo giáo, năng thuyết năng hành thì đạo giáo sẽ là vị thuốc thần hiệu chữa bịnh cho loài người vậy./.

XIN CHÂN THÀNH TRI ÂN
Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa và Quý vị chức sắc trong Ban Kiểm duyệt kinh sách Tòa Thánh Tây Ninh đã giúp chúng tôi nhiều ý kiến xây dựng, bổ khuyết những chỗ thiếu sót.

Hiền Huynh Lễ Sanh Ngọc Hồng Thanh và bạn Nguyễn Thành Luông đã soạn thay chúng tôi chương nói về việc thờ cúng.
Đa Tạ
Nguyễn Long Thành

Ngài Bảo Đạo H.T.Đ
Trưởng Ban Kiểm Duyệt Kinh Sách
cho phép số 91/BKD.TT.
Ngày 9 tháng 5 Giáp Dần (28-06-1974)

CÙNG MỘT TÁC GIẢ
Đã phổ biến:
-The path of a CaoDai disiple – Ban Thế Đạo 1970
- Con Đường của người đệ tử Cao Đài Ban Thế Đạo 1971 ( lần I ) – 1972 ( lần II )
- 24 Giờ Đạo – Ban Thế Đạo 1971
- Thánh Ngôn Yếu Lược – Khảo Cứu Vụ 1973
- Danh Hiệu và Tiêu Chuẩn Lập Pháp. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ – Khảo Cứu Vụ 1974
- Đời Sống của người tín đồ Cao Đài – 1974
- Thánh Ngôn tuyển tập – 1974
- Đời Người – 1974
- Luận Đạo Sưu Tập
- Đường vào cõi tục
- Nhìn lại 50 năm lịch sử Đạo Cao Đài
- Tu Chơn
- Bí Pháp.
Về Cội Ngu                          [ 1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]