Ngay buổi tiền khai Đại-Đạo mà các bậc tiền bối
cũng thể hiện được tinh thần của: Tam Hội Lập Quyền. Thấy ra thời
kỳ mới mẻ mà Đức Chí-Tôn cũng sắp đặt cho có đủ “Tam Hội Lập
Quyền”. Ấy là:
- Thứ nhứt là Đại Hội nhơn sanh, tức nhiên khối
Tín đồ mà 247 người ký tên (tài liệu đính kèm sau)
[ngày 23-8-Bính-Dần (dl: 29-9-1926) ]
- Thứ hai là Đại Hội Hội-Thánh, tức nhiên 28 vị đã ký
tên vào TỜ KHAI ĐẠO với chánh phủ Pháp. [ngày 01-9-Bính Dần (dl: 7-10-1926)
]
- Thứ ba là Thượng Hội, tức nhiên quyền Thiêng liêng
tối thượng, ban đầu do Đức Chí Tôn chỉnh sửa TỜ KHAI ĐẠO và phán định ngày nạp
cho chính phủ là Ông Le Fol. [Ngày
16-8-Bính Dần (Thứ tư, 22-9-1926)
LỜI NÓI ĐẦU
Đức Quyền Giáo-Tông Lê văn Trung nhận lãnh sứ mạng nơi Đức
Thượng-Đế qui tựu số Chức sắc và toàn thể Tín đồ hiện có trong thời buổi này là
247 người họp tại nhà của ông Nguyễn văn Tường để thảo luận và được sự đồng ý
ký tên, xong lập TỜ KHAI ĐẠO đại diện là 28 vị, để trình lên quan Toàn quyền
Pháp là ông Le Fol.
Nhân kỷ-niệm hai năm ngày làm Tờ Khai Ðạo với Chánh phủ
thuộc-địa Pháp, ngày 23 tháng 8 năm Mậu Thìn (6 Octobre 1928). Đây là
ngày Khai sinh Đại-Đạo với toàn thể chúng sanh, với quốc dân đồng bào, nó có
một ý nghĩa hết sức to lớn. Chính vì vậy, dù đã lập Toà Thánh ở Tây-Ninh; Ngài
Thượng Trung Nhựt hằng năm vẫn về nhà ông Nguyễn Văn Tường để làm Lễ Kỷ-niệm.
Chính Đức Quyền Giáo-Tông đã có bài Diễn văn thuyết
về Kỷ-niệm ngày Khai Đạo ấy.
Ngài Thượng Trung Nhựt
nói:
"Tôi rất hân hạnh
vì ngày nay được thay mặt Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đặng thổ lộ ít lời, nhắc tích
ngày kỷ niệm hôm nay…
Khi cầu Cơ, Đấng Chí Tôn
giáng kêu Tôi dạy: phải cho Môn đệ của Thầy tới tối 23 tháng 8 tựu tại nhà Đạo
hữu Tường đây. Tôi không biết rõ Thánh ý, điều tôi vâng mạng, cho chư Đạo hữu
hay lời Thánh truyền tối 23-8 Bính-Dần tựu tại đây rồi cầu Đấng Chí Tôn giáng
dạy, Tôi phải biên tên hết các nam nữ lưỡng phái đặng đứng TỜ KHAI ĐẠO với
Chính phủ. Khi ấy có mặt tại đàn hết thảy là 247 vị Đạo hữu (1). Tôi
có nạp tên mấy vị ấy tại chính phủ, khi Tôi dâng TỜ KHAI ĐẠO là ngày 6-10-1926 . Tôi bạch với Đấng Chí Tôn rằng
Tôi không có thì giờ đủ mà đệ Tờ Khai Đạo cho ông Thái-Lão Trần Đạo Quang ký
tên. Đấng Chí Tôn giáng dạy tôi cứ việc đem tên Trần Đạo Quang vô Tờ Khai Đạo.
Đấng Chí Tôn có phán rằng “Con cứ đem tên nó vô Tờ Khai Đạo, Đạo-Quang nó
không chối cải đâu mà con phòng ngại”.
Từ ngày ấy, Anh Trần Đạo
Quang hết lòng sốt sắng vì Đạo nên Đấng Chí Tôn phong cho chức Chưởng Pháp
trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Ấy là sự tích ngày kỷ niệm hôm nay. Nhìn mặt nhau
đây, chúng ta thấy chúng ta phản lão hoàn đồng. Chúng ta trẻ lại hai tuổi vì
chúng ta trở lại công việc hai năm về trước. Đó là ngày vui, ngày quí báu của
chúng ta. Biết vui, biết quí báu chừng nào thì phải nhớ về cái ân huệ của Đấng
Chí Tôn ban thưởng cho chúng ta chừng ấy. Muốn đền ơn qúi trọng ấy, phải làm
sao ?- Phải hết lòng vì Đạo, vì tín ngưỡng Đấng Chí Tôn và chư Phật, chư Tiên,
vì đức háo sanh, vì cuộc tuần hoàn mà gieo mối Đạo Trời Tam-Kỳ Phổ-Độ ngõ hầu
độ rỗi sanh linh khỏi trả vay nơi trầm luân khổ ải này…
Đấng Chí Tôn vì quá
thương nhân loại nên cho chúng ta được hưởng cái công KHAI ĐẠO, cái công vẹt
ngút mây xanh, làm chỗ sáng sủa bạch minh cho bước đường sau này, cũng theo dấu
ấy mà tầm đến nơi yên tĩnh, làm cho khắp cả nhân sanh đều được hưởng…Theo Thánh
ý, Đấng Chí Tôn muốn cho chúng ta kết chặt nhân sanh nơi cõi NAM này đặng cùng
nhau chung hiệp, tìm con đường HOÀ BÌNH, lần ra khỏi khốn khổ lao lung ở cõi
trần này. Ngày nào ĐẠO chưa HOÀ, chưa đồng nhứt tâm thì đèn thiêng liêng chưa
đủ tỏ mà soi mấy chục triệu dân sanh nơi đây. Ngày nay chúng ta thành tâm làm
lễ kỷ-niệm nầy, Tôi tưởng cũng nên thành tâm mà chọn một người bàn hội cho đủ
đạo đức. Bàn hội ấy đi dạy dỗ khuyên lơn Đạo hữu từ lớn tới nhỏ phải trau giồi
hạnh đức. Bàn hội (tức Bàn Trị Sự) ấy lo cho đạo hữu Thánh Thất Cầu Kho đây.
Mỗi tuần phải ra công xem xét bất bình trong Họ (Đạo), phải lo phương cứu chữa
cho được yên tĩnh. Mỗi tuần phải có tờ phúc cho ông Đầu Họ. Tôi sẽ truyền cho
mỗi Họ đều sắp đặt như vậy. Ấy là phương châm chế ngự cho trong Đạo hoà bình.”
Thật ra, “Tập Kỷ yếu 28
vị Tiền Khai Đại-Đạo” này tôi đã viết ra trước đây trên mười năm, từ khi
tôi đến Thánh Thất Nam Thành. Công việc trước tiên là tìm những hình ảnh của 28
vị Tiền bối thờ nơi Thiên Phong Đường. Chỉ có nơi đây là có tên 28 vị khắc trên
tấm đá cẩm thạch và thờ mà thôi. Nhưng khi ấy tôi sưu tầm chưa đủ tài liệu và
hình ảnh. Đến giờ này tôi mới có thêm được ít tài liệu bổ sung cho tập sách nhỏ
bé này hầu được trình bày cùng quí đồng Đạo bốn phương những tên tuổi và công
trạng của các vị Tiền khai Đại-Đạo.
Tuy nhiên, Tôi cũng xin
lỗi các Ngài vì không đủ tài liệu để tra cứu nên còn nhiều hạn chế. Như một Bạn
đã nói với tôi rằng có nhiều vị công trạng không bút mực nào tả hết. Bên cạnh
có những vị không tìm đâu ra được tài liệu để ghi chép.Sự chênh lệch này xin
các Ngài hiểu cho.
Cám ơn những tác giả làm
ra sách mà tôi được dịp khảo cứu cùng một số thân hữu đã tìm tài liệu và hình
ảnh về 247 chữ ký. Đây là sự thành công của quí Thầy, Bạn. Riêng tôi chỉ là hệ
thống hóa. Chân thành cám ơn sâu sắc.
Xin gởi tặng quí đồng
Đạo những tài liệu về “Tập Kỷ Yếu 28 vị Tiền Khai Đại-Đạo” hay là TỜ KHAI ĐẠO,
gọi là món quà thân thương nhất trong mùa Hội-Yến Diêu Trì-Cung năm Nhâm Thìn (2012).
Nữ Soạn giả
NGUYÊN-THỦY
CHƯƠNG I
NHỮNG BƯỚC KHỞI ĐẦU
Sự khởi nguyên của một nền Đại-Đạo như ngày nay là do từ
bước dẫn dắt của Đức Thượng Đế trong buổi đầu: Thầy bảo hai vị Đầu sư Trung và
Lịch phải:
HỘI CHƯ THÁNH MÀ KHAI ĐẠO
Ðêm nay, ngày nầy (23-8-Bính Dần), hai Ngài Thượng Trung
Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt họp Ðại hội Chức sắc và Tín đồ tại nhà Ông Nguyễn văn
Tuờng để dự thảo TỜKHAI ÐẠO gởi lên nhà cầm quyền Pháp. Số người dự họp lên
tới 247 vị.
(Hằng năm, vào ngày 23-8-nầy, Thánh Thất Nam Thành Sài-gòn
đều có làm Lễ Kỷ-niệm ngày LẬP TỜ KHAI ÐẠO).
Ngày Thứ tư, 22-9-1926 (âl: 16-8-Bính Dần)
Thầy dạy: “Cầm cả quyền hành vô lượng nơi tay, Thầy ngó một
cái cũng đủ tiêu diệt nó đặng, nhưng mà phép công bình thiêng liêng chẳng phải
nên vậy. Ấy cũng là cơ mầu nhiệm cho các con có thế lập công quả.
TRUNG, LỊCH, hai con phải hội chư Thánh mà xin Khai Ðạo.
Phải làm đơn mà dâng cho Thầy xem xét sửa trước nghe!”
Trên đây là lời dạy của Đức Chí-Tôn bảo “Hội chư Thánh
mà xin Khai Ðạo”: Chư Thánh là các Chức sắc đứng vào hàng
Thánh Thể, tức là các Chức phẩm từ Giáo Hữu hay tương đương trở lên. (Lúc
ấy Thầy chỉ nói thế thôi chứ thật ra chưa có một chức sắc nào cả !)
Ðức Chí Tôn dạy hai Ngài Ðầu Sư: Thượng Trung Nhựt và Ngọc
Lịch Nguyệt, họp các Chức sắc lại mà lập TỜ KHAI ÐẠO dâng lên nhà cầm quyền
Pháp lúc bấy giờ. Tờ Khai Ðạo nầy, Ðức Chí Tôn dặn phải dâng lên Ðức Chí Tôn
xem xét trước, để chính Ðức Ngài chỉnh sửa lại. Vâng lịnh, hai Ngài Ðầu Sư mời
các Chức sắc và Tín đồ họp Ðại hội vào lúc 8 giờ tối ngày 23-8-Bính Dần (dl:
29-9-1926) tại nhà Ông Nguyễn Văn Tường ở hẻm 237 bis đường Galliéni (nay là
đường Trần Hưng Ðạo) Sài-gòn..
Ba Ngài: Thượng Trung Nhựt, Ngọc Lịch
Nguyệt và Cao Quỳnh Cư điều khiển buổi Đại hội và được sự chấp
thuận dự thảo Tờ Khai Ðạo do Ban chủ tọa thảo ra. Sau đêm đó, quí Ngài thiết
lập Đàn Cơ tại nhà Ngài Cao Quỳnh Cư, dâng Tờ Khai Ðạo lên Ðức Chí Tôn duyệt
xét. Ðức Chí Tôn giáng phê: "Mấy con không nói một điều gì đến
Thầy hết, nhưng thôi kệ cứ gởi đi."
Sau, Ðức Chí Tôn dặn Ngài Thượng Trung Nhựt: "Thầy
dặn con: Trung, nội Thứ Năm tuần tới phải đến LE FOL mà khai cho kịp,
nghe!"
Ðúng ngày thứ Năm tuần sau, là ngày 7-10-1926 (âl:
01-9-Bính Dần), Ngài Thượng Trung Nhựt lên Soái phủ Nam Kỳ nạp Tờ Khai Ðạo cho
Thống Ðốc Le Fol, được Ông Le Fol vui vẻ tiếp nhận và khen rằng “Vì chữ
thiện mà khuyến dân, ấy là chủ nghĩa cao thượng”.
Thế là kể từ ngày này: 07-10-1926, Ðạo Cao Ðài công khai
hoạt động, truyền đạo trong các giới dân chúng, để sau đó chuẩn bị thiết lập
Ðại Lễ Khai Ðạo tại Thánh Thất tạm đặt tại Chùa Từ Lâm, Gò Kén, Tây Ninh.
Ngày 13-10-1926 (âl: 07-9-Bính Dần), Ngài Cao Quỳnh Cư soạn
Tờ Phổ Cáo Chúng Sanh, được sự đồng ý của Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt, dâng
lên cho Ðức Chí Tôn duyệt, rồi in ra phổ biến các giới đồng bào biết: ngày nay
trên đất nước Việt Nam xuất hiện một nền Tân Tôn giáo là Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ
do Ðấng Thượng Ðế mở ra và làm chủ. Riêng về Ông Nguyễn Văn Tường, đã cho mượn
nhà làm nơi họp Ðại hội lập Tờ Khai Ðạo: Lúc đó Ông Nguyễn Văn Tường
(1887-1939) làm Thông Ngôn cho Sở Tuần Cảnh, nhận thấy sự huyền diệu của Ðức
Chí Tôn nên Ông nhập môn theo Ðạo luôn, sau được Ðức Chí Tôn phong Giáo-Hữu
phái Thượng, Thánh danh Thượng Tường Thanh. Nhà của Ông Tường ở trên một phần
đất rộng khoảng 1500 m2 nên đủ chỗ cho quí Ngài Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch
Nguyệt tổ chức Ðại hội gồm 247 vị hiện diện, lập Tờ Khai Ðạo. Ông Nguyễn Văn
Tường thường xuyên hành đạo tại Thánh Thất Cầu Kho, mất ngày 26-9-Kỷ Mão (dl:
07-11-1939) (Tài liệu của Huệ Nhẫn).
&
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
PHỔ CÁO CHÚNG SANH
(Năm Bính Dần - 1926)
“Ngày 07 Septembre 1926 nhằm ngày mồng một tháng 9
năm Bính Dần, có Môn đệ Thiên Phong của Ðức Cao Ðài là Cựu Hội Ðồng Thượng Nghị
Viện Lê Văn Trung tự Thiên ân là Thượng Trung Nhựt vâng lịnh Thánh Ngôn đến
Khai Ðạo nơi chánh phủ. Trong Tờ Khai Ðạo ấy có ký tên 247 chư Môn
đệ phần nhiều đều là Chức Sắc, Viên Quan và có Nữ phái, nhiều người danh
dự. Quan Nguyên Soái Nam kỳ hoan nghinh và khen rằng vì chữ THIỆN mà
khuyến dân, ấy là chủ nghĩa cao thượng. Chúng tôi xin phô đôi lời thành
thật thô sơ, chư Hòa Thượng, chư Lão Thành, chư Sơn, chư Chức Sắc trong Tam
Giáo và chư Thiện nam, Tín nữ xin lưu ý. Chầy kíp đây chúng tôi sẽ có dịp hiệp mặt mà luận
Ðạo kỹ thêm nữa”. (Lời này đặt ở trang cuối của Tờ Phổ cáo chúng sanh)
&
Đức Cao-Đài dạy về việc Khai Đạo
ngày 16-8-Bính Dần (Thứ Tư: 22-9-1926)
“Các con xin Chánh-phủ Lang-sa đặng Khai Đạo, thì cực chẳng
bằng Thầy đã ép lòng mà chịu vậy cho tùng nơi Thiên cơ.Thầy rất đau lòng mà
phải chịu vậy chớ biết sao!
Đàn cùng ngày, khi tái cầu Đức Cao-Đài dạy hai vị
Đầu-Sư: Thượng-Trung-Nhựt và Ngọc-Lịch-Nguyệt, phải hội họp các Môn-Đệ
khác để lo Khai Đạo, phải dâng văn bản lên để Đức Cao-Đài duyệt xét.
Đúng một tuần sau (ngày 23-8-Bính-Dần, nhằm Thứ Tư:
29-9-1926). Các Môn Đệ họp tại nhà ông Nguyễn văn-Tường (đường Galliénie, nay
là đường Trần-Hưng Đạo) trong một đêm mưa to gió lớn kéo dài khoảng ba tiếng
đồng-hồ, làm ngập đường sá, giao-thông bị bế tắc. Có lẽ nhờ điều-kiện thời tiết
trợ giúp, cuộc họp mới không bị Mật-thám Pháp quấy rầy, do đó được hanh thông.
Hai vị Thượng và Ngọc Đầu-sư chịu trách nhiệm tổ chức cuộc
họp. Kết-quả cụ thể là mọi người đồng-ý ký tên vào TỜ KHAI ĐẠO do Ông
Lê-Văn-Trung dự thảo bằng tiếng Pháp. Bản dự thảo sau đó được dâng lên Đức Cao
Đài duyệt, có chỉnh sửa vài chữ và được Ngài chấp thuận.
Văn kiện chính thức của bổn Đạo gởi cho Thống đốc Nam-Kỳ Le
Fol ghi ngày 07-10-1926.
Nguyên văn bằng tiếng Pháp như sau:
DÉCLARATION OFFICIELLE ADRESSÉE PAR LES FONDATEURS DU
CAODAISME À M. LE FOL, GOUVERNEUR DE LA COCHINCHINE.
Saigon, le 7 Octobre 1926.
Monsieur le Gouverneur,
Les soussignés, ont l'honneur de venir respectueu-
sement vous faire connaïtre ce qui suit:
Il existait en Indochine Trois Religions (Bouddhisme,
Taoisme, Confucianisme). Nos ancêtres pratiquaient religieusement ces trois
doctrines et vivaient heureux en suivant strictement les beaux préceptes dictés
par les Créateurs de ces religions.
On était, pendant cet ancien temps, tellement insoucieux
qu'on pouvait dormir sans fermer les portes et qu'on dédaignait même de
ramasser les objets tombés dans la rue “Gia vô bế hộ, lộ bất thập di”, tel
est l'adage inscrit dans nos annales.
Hélas! Ce beau temps n'existe plus pour les raisons
suivantes:
1. Les pratiquants de ces religions ont cherché à se
diviser, tandis que le but de toutes les religions est le même: Faire le bien
et éviter le mal, adorer pieusement le Créateur.
2. Ils ont dénaturé complètement la signification de ces
saintes et précieuses doctrines.
3. La course au confort, à l'honneur, l'ambition des gens,
sont aussi des causes principales des divergences d'opinions actuelles. Les
Annamites de nos jours ont complètement abandonné les bonnes moeurs et
traditions de l'ancien temps.
Ecoeurés de cet état de choses, un groupe d'Annamites,
fervents traditionalistes et religieux, ont étudié la refonte de toutes ces
religions, pour n'en former qu'une seule et unique appelée CAODAISME ou ĐẠI
ĐẠO.
Le nom "Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ", qui signifie la
Troisième Amnistie Générale, est donné par l'Esprit Suprême qui est venu aider
les soussignés à fonder cette Nouvelle Religion.
L'Esprit Suprême est venu sous le nom de “Ngọc Hoàng
Thượng-Đế” dit CAO ĐÀI ou "Le très Haut, Dieu Tout Puissant”.
Par l'intermédiaire de médiums écrivants, Ngọc Hoàng Thượng
Đế transmet au soussignés des enseignements divins ayant pour but de concentrer
et d'enseigner les beaux préceptes de ces Trois Anciennes Religions.
La Nouvelle Doctrine enseignera aux peuples:
1 . La haute morale de Confucius.
2 . Les vertus dictées dans les religions bouddhique et
taoique.
Ces vertus consistant à faire le bien et éviter le mal,
aimer l'humanité, pratiquer la concorde, éviter totalement la dissention et la
guerre.
Les soussignés ont l'honneur de vous soumettre:
1 . Quelques extraits du recueil des "Saintes
Paroles" de Ngọc Hoàng Thượng Đế, paroles estimées plus précieuses que
tout ce qui existe ici-bas.
2 . La traduction de quelques passages du livre de prières
que Ngọc Hoàng Thượng Đế nous a enseignées.
Le but poursuivi par les soussignés est de ramener les
peuples à l'ancien temps de paix et de concorde. On sera ainsi dirigé vers une
époque nouvelle tellement heureuse qu'il est difficile de la décrire.
Au nom de très nombreux Annamites qui ont entièrement
approuvé ces études et dont la liste est ci-jointe, les soussignés ont
l'honneur de venir respectueusement vous déclarer qu'ils vont propager à
l'humanité entière cette Sainte Doctrine.
Persuadés d'avance de cette Nouvelle Religion apportera à
nous tous la paix et la concorde, les soussignés vous prient de recevoir
officiellement leur déclaration.
Les soussignés vous prient d'agréer, Monsieur le
Gouverneur, l'assurance de leurs sentiments respectueux et dévoués.
Ont signé:
Mme LÂM NGỌC THANH
M. LÊ VĂN TRUNG...
Bài dịch Việt văn:
TỜ KHAI ĐẠO
Sài-Gòn, ngày 07 Octobre 1926
Kính cùng Quan Thống-Đốc Nam-kỳ Sài Gòn,
Chúng tôi đồng ký tên dưới đây kính cho Quan lớn rõ:
Vốn từ trước tại cõi Đông Pháp có ba nền Tôn-giáo là:
Thích-giáo, Lão-giáo và Khổng-giáo. Tiên-nhơn chúng tôi sùng bái cả ba Đạo ấy,
lại nhờ do theo Tôn-chỉ quí-báu của các Chưởng giáo truyền lại mới được an-cư
lạc nghiệp. Trong sử còn ghi câu “Gia vô bế hộ, lộ bất thập di” nghĩa là con
người thuở ấy an-nhàn cho đến đỗi ban đêm ngủ không đóng cửa nhà, còn ngoài
đường thấy của rơi không ai thèm lượm. Nhưng buồn thay cho đời Thái bình phải
mất vì mấy duyên-cớ sau nầy:
1 - Những người hành-đạo đều phân chia ra nhiều phe, nhiều
phái mà kích-bác lẫn nhau, chớ Tôn-chỉ của Tam-giáo đều như một là làm lành
lánh dữ và kỉnh thờ Đấng Tạo-hóa.
2 - Lại canh-cải mối Chánh-truyền của các Đạo ấy làm cho
thất Chơn-truyền.
3 - Những dư-luận phản-đối nhau về Tôn-giáo, mà ta thấy
hằng ngày cũng tại bả vinh-hoa và lòng tham-lam của nhân-loại mà ra, nên chi
người An-nam bây giờ đều bỏ hết những tục lệ tận thiện tận mỹ ngày xưa. Thấy
tình thế như vậy mà đau lòng, cho nên nhiều người An-Nam, vì căn-bổn, vì Tôn
giáo, đã tìm phương thế hiệp Tam giáo lại làm một: QUI NGUYÊN PHỤC NHỨT, gọi là
ĐẠO CAO ĐÀI hay là ĐẠI-ĐẠO.
May-mắn thay cho chúng-sanh, “Thiên tùng nhơn nguyện”, Đức
Ngọc-Hoàng Thượng-Đế hằng giáng đàn dạy Đạo và Hiệp Tam giáo lập Đại-Đạo Tam-Kỳ
Phổ-Độ tại cõi Nam này. Tam-kỳ Phổ-Độ nghĩa là Đại-ân-xá lần thứ ba, những lời
của Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế giáng Cơ dạy chúng tôi, đều cốt để truyền-bá
Tôn-chỉ Tam giáo.
Đạo Cao-Đài dạy cho biết:
1 - Luân-lý cao-thượng của Đức Khổng-Phu-Tử.
2 - Đạo-đức của Phật-giáo và Tiên-giáo là làm lành lánh dữ,
thương-yêu nhơn-loại cư-xử thuận hoà mà lánh cuộc ly-loạn, giặc-giã.
Chúng tôi gởi theo đây cho Quan lớn nghiệm xét:
* Một bổn sao lục Thánh-ngôn của Đức Ngọc Hoàng Thượng-Đế.
* Một bổn phiên-dịch Thánh-Kinh.
Chủ-ý của chúng tôi là muốn làm sao cho nhơn-loại được cộng
hưởng cuộc Hoà-Bình như buổi trước. Được như vậy chúng sanh sẽ thấy đặng
thời-kỳ mới-mẻ cực-kỳ hạnh-phúc không thể nào tả ra đặng. Chúng tôi thay
mặt cho nhiều người An-Nam mà đã nhìn-nhận sở hành của chúng tôi và đã ký tên
vào Tờ Đạo tịch ghim theo đây, đến khai cho Quan lớn biết rằng: Kể từ ngày nay
chúng tôi đi Phổ-thông Đại-Đạo khắp cả hoàn cầu. Chúng tôi xin Quan lớn
công-nhận TỜ KHAI ĐẠO của chúng tôi:
KÝ TÊN
1 - Bà Lâm-Ngọc-Thanh Nghiệp-chủ Vũng-liêm
2 - Ông Lê-văn-Trung Cựu Thượng-Nghị-Viên thọ
Ngũ Đẳng Bửu-tinh (Chợ-lớn)
3 - Lê-văn
Lịch Thầy tu làng Long-an, Chợ-lớn
4 - Trần-Đạo-Quang Thầy
tu, làng Hạnh-Thông-Tây
5 -
Nguyễn-Ngọc-Tương Tri-phủ chủ Quận Cần-giuộc.
6 -
Nguyễn-Ngọc-Thơ Nghiệp-chủ Sài-gòn.
7 - Lê-Bá-Trang
Đốc-phủ-sứ Chợ-lớn.
8 -
Vương-Quan-Kỳ Tri-phủ Sở Thuế thân Sài-gòn
9 - Nguyễn-văn-Kinh.Thầy
tu, Bình-lý-thôn Gia-định.
10 - Ngô
Tường-Vân Thông phán sở tạo tác Sài Gòn
11 -
Nguyễn-văn-Đạt Nghiệp-chủ Sài-gòn
12 -
Ngô-văn-Kim, Điền-chủ, Đại-Hương-cả, Cần-giuộc.
13 - Đoàn-văn-Bản,
Đốc-học trường Cầu-Kho
14 - Lê-văn-Giảng,Thơ-ký
kế toán hãng Ippolito Sài-gòn
15 - Huỳnh-văn-Giỏi,
Thông-phán Sở tân-đáo Sài-gòn
16 - Nguyễn-văn Tường,
Thông-ngôn Sở tuần cảnh Sàigòn
17 -
Cao-Quỳnh-Cư, Thơ-ký Sở hoả-xa Sài-gòn.
18 - Phạm-Công-Tắc,
Thơ-ký Sở Thương-Chánh Sài-gòn
19 -
Cao-Hoài-sang, Thơ-ký Sở Hoả-xa
Sài-Gòn.
20 - Nguyễn-Trung-Hậu, Đốc
học Trường Tư-thục Đakao
21 -
Trương-Hữu-Đức, Thơ-ký Sở hoả-xa Sài-gòn
22 -
Huỳnh-Trung-Tuất, Nghiệp-chủ Chợ đủi Sài-Gòn
23 - Nguyễn-văn
Chức, Cai-tổng Chợ-lớn.
24 - Lại-văn-Hành, Hương
Cả Chợ-lớn.
25 - Nguyễn-văn-Trò,
Giáo-viên Sài-Gòn.
26 - Nguyễn-văn-Hương,
Giáo-viên Đa-kao.
27 -
Võ-văn-Kỉnh, Giáo-tập Cần-giuộc.
28 -
Phạm-văn-Tỷ, Giáo-Tập Cần-giuộc.
o0o
Ngài Lê Văn Trung viết
Bố cáo:
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
BỐ CÁO CÙNG CHƯ ÐẠO HỮU
Nay là buổi Thiên Ðịa
tuần huờn, hoằng khai Ðại Ðạo, Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế, vì thương nhân loại,
rộng mở Ðạo Trời, để dìu dắt sanh linh vào đường đạo đức, hầu hưởng phước về
sau. Trót một năm trường, chúng ta đã chẳng nài khó nhọc, ra công Phổ độ khắp
nơi, mong sao cả dân chúng cải ác tùng lương mà chung hưởng ngày Nghiêu tháng
Thuấn. Nay Ðại Ðạo lập thành, Tân Luật đã ban ra, chúng ta cứ do theo đó mà
hành đạo.
Về phần Thiên Ðạo, phải
hết lòng thành kính Ðức NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật,
phải gắng trau giồi đức hạnh, dưỡng tánh tu tâm mà hồi minh khử ám. Còn về phần
Nhơn Ðạo, ta phải tuân theo phép nước, giữ phận thần dân, làm lành lánh dữ, mỗi
mỗi phải do Luật pháp mà cư xử, sưu lo thuế đóng, kính trọng quan viên, giúp
nạn kẻ khó.
Xin nhớ mấy câu trong
Kinh Sám Hối đây cho lắm:
“Chớ làm con giặc tôi
loàn,
“Thuế sưu đóng đủ đừng toan kế tà”.
Trong Ðạo Hữu mới nhập
môn, có một ít người chưa rõ Tôn chỉ tối cao tối trọng của ÐẠO TRỜI buông lời
đồn huyễn rằng: Vô Ðạo rồi thì tùng LUẬT ÐẠO mà thôi, khỏi chịu dưới
quyền QUỐC PHÁP. Lời đồn huyễn ấy rất trái lẽ, tuy tu hành mặc dầu, chớ
không ra khỏi luật pháp Chánh Phủ đặng. Làm đến bực Hòa Thượng mà có tội cũng
chẳng khỏi bị xử theo luật hình mà được. Về phần tin tưởng tự do, Tôi cũng nên
tỏ cho chư Ðạo hữu hay rằng: Không ai đặng phép ngăn cản chúng ta trong
việc phụng thờ TRỜI PHẬT. Ta tin tưởng Ðức NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ, ta sùng bái
Ngài, không một ai phạm đến quyền tự do ấy của ta được. Chớ nghe đồn
huyễn rằng Chánh Phủ bắt Ðạo mà sợ, rồi dẹp Thiên Bàn, cuốn THÁNH TƯỢNG, ấy là
một điều đại tội cùng TRỜI PHẬT đó. Chánh Phủ Ðại Pháp rất công, ai làm lành
được bề êm tịnh, ai làm dữ bị tội tù, chúng ta tu là lo làm lành, mà đã lo làm
lành thì bị tội nỗi gì ?
Nếu Chánh Phủ muốn ngăn
cấm điều chi thì chạy tờ Châu Tri, dán Yết Thị khắp nơi cho nhơn dân rõ biết,
đâu đó phân minh, đường đường chánh chánh. Còn nếu không có Châu Tri cùng Yết
Thị thì xin chư Ðạo Hữu chớ vội tin mà lầm mưu kẻ nghịch Ðạo. Trong chư Ðạo Hữu
thảng như có ai bị cường quyền áp chế về việc phụng thờ THƯỢNG ÐẾ, xin mau mau gởi
thơ cho Tôi. Tôi sẽ dụng hết công tâm kêu nài cùng Chánh Phủ để làm cho kẻ ấy
biết trọng quyền tin tưởng tự do của chúng ta.
Nay kính,
LÊ VĂN TRUNG
Thiên ân: THƯỢNG TRUNG
NHỰT
*
* *
Bài Diễn văn của Thượng
Ðầu Sư
VỀ LỄ KỶ NIỆM KHAI ÐẠO
Tòa Thánh, ngày 14 tháng
10 năm Kỷ Tỵ (1929)
Chư Ðạo Hữu lưỡng phái,
Trung Nguơn vừa mãn, Hạ
Nguơn vừa qua. Hôm Trung Nguơn tôi đã có nhắc ngày Ðấng CHÍ TÔN hoằng khai
Ðại-Ðạo Tam-Kỳ gieo truyền Chánh Giáo là ngày 15 tháng 10, giờ Tý năm Bính Dần
(dl: 19-11-1926).
Chúng ta biết noi gương
hiền triết, cổ nhơn, vầy cùng nhau phủi bụi phồn hoa, đặng tùng theo Tam Giáo
là kể từ ngày 15 tháng 10 năm Bính-Dần, nên lấy ngày Lễ Hạ Nguơn đây làm
lễ kỷ-niệm ngày Ðấng CHÍ TÔN hạ trần tại vùng Nam ta đặng hoằng khai Chánh
Giáo để gieo truyền hậu thế. Xuân qua, hè lại, thu mãn, đông tàn, cuộc tuần
hoàn kim cổ, cổ kim, nhơn sanh chung hưởng Thiên ân biết bao. Hại thay! Ít
người hiểu riêng rằng có Thiên lực trợ thế, nên ngày nay cõi dinh hoàn đặng tấn
hóa nguy nga, văn minh đồ sộ; hiềm một nỗi nữa là tánh phàm lòng tham không
đáy, nên đường đời sanh trăm mối tơ vò, ách nạn không xiết kể.
Từ Hiên Viên Huỳnh Ðế
chí dĩ Hạ Nguơn, biết bao nhiêu cuộc tuần hoàn thạnh suy bĩ thới. Xem lắm
nghiệp bá đồ vương dựng nền Võ trụ mà rốt cuộc lòng tham tràn nhẫy, tánh bạo
ngược lẫy lừng, làm cho nhơn sanh đồ thán. Ðấng Chí Tôn (Hóa công) đòi phen đổ
lụy phải lập cuộc tang thương trừng trị, vì câu “Thiện ác đáo đầu chung hữu
báo”. Xét cho kỹ Tần Thỉ Hoàng tìm thuốc trường sanh lòng muốn giữ chặt ngôi muôn
thuở; ngăn Hồ Lỗ, lập Vạn Lý Trường Thành công sanh mồ hôi giọt nhỏ. Cảnh Ðế
Thiên Ðế Thích to tát biết bao, vạn quốc nhận vào cơ xảo tuyệt thế. Gian hùng
mưu sâu quyệt kế ai bằng Lữ Bất Vi mà rốt cuộc rồi Vi cũng vô vi. Hào kiệt sức
năng cử đảnh,
ít sánh Sở Bá Vương sau cũng dâng thủ cấp cho Ô-Giang Ðình Trưởng. Nào Vạn Lý
Trường Thành, Ðế Thiên Ðế Thích bền chặt cổ kim ít có, mà cũng hóa ra cuộc
thành xiêu vách ngã, cỏ loáng rêu phong; Lữ Bất Vi cùng Sở Bá Vương lịch sử
ngàn năm đều nêu danh ác.
Người trong vòng Trời
Ðất chẳng nên cãi quá lòng Trời, vì Tạo Hóa rất công, lòng Trời vô tận. Tôi xin nhắc lại lời Thánh Giáo của một vị Langsa hồi thế
kỷ 18è Siècle, Malherbe a dit: "Vouloir ce que Dieu veut c'est la seule
science qui nous mettre en repos”.
Theo ý Trời muốn là phương châm hay, làm cho chúng ta êm
tịnh. Lời ông hiền triết nầy cũng như lời Thánh
trong sách Nho "Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong”. Một kiếp con
người tựa như giấc Huỳnh lương, thì giờ ngắn ngủi, phải tùy theo phận sự trả nợ
cho Ðấng Hóa Công, phải tùng chánh lý, từ côn trùng thảo mộc tới bực nhơn sanh
các tư kỳ phận, bởi có câu “Nhứt toán họa phước lập phân”. Hại thay cuộc chen
lấn ở cõi trần thường giục lẫn người thây phàm hay tự bạo tự kiêu, ít suy, ít
nghĩ; còn nơi vinh hoa phú quý thường ngăn cản đường tu, cân đai lòe loẹt hay
buộc chặt xác phàm.
Bởi vậy bốn năm dư chuông Thánh truy hồn, thuyền Bát Nhã đổ
bến mê tân chờ rước khách trần, hầu tế độ kẻ vô phần không phước, phần nhiều vì
mắt thịt với trí phàm xa không thấu đáo Ðại-Ðạo Tam-Kỳ mà chưa trọn hiểu, tánh
vẫn còn mờ hồ kết thêm tội lỗi, vào đường tu mà chưa cổi tánh phàm, còn tranh
tranh lấn lấn chức quyền mọn trong Ðạo. Ít người khắc kỷ tu thân, vùi lấp cho chúng sanh mà còn lấn người trong nền Ðạo, mến
chỗ cao sang quyền thế như hồi trần thế. Ðã lánh chốn phồn hoa đem gót ngọc dựa
cửa Thiền, phải rán ngăn ngừa tục lự, mắt ngơ tai điếc, diệt tận phàm tâm trau
giồi hạnh đức, cầu khẩn Ðức Từ Bi rưới giọt nhành dương, giục tắt lửa lòng,
hằng ngày lo tụng kinh cầu sám chuộc tội tiền khiên nên danh hiền triết.
Mong thay! Mong thay!
THƯỢNG TRUNG NHỰT
Qua bài Thánh giáo đề ngày 16-8-Bính Dần (dương lịch Thứ
tư: 22-9-1926)
THẦY có lời dạy: Các con,
“Trung, con biết rằng Thầy thương yêu nhơn loại là dường
nào chưa ? Những điều ngăn trở đều do nơi tiền khiên của cả chúng sanh. Ðã vào
trọn một thân mình nơi ô trược thì Thầy đây cũng khó mà rửa với một gáo nước
cho đặng trong sạch. Nhơn loại đã
thâm nhiễm vào tình luyến ái tà mị trên mười ngàn năm, thì thế nào cổi Thánh
đức trong một lúc chẳng tới một năm cho trọn lành đặng.
Rất đỗi Thầy là bực Chí Tôn đây mà còn bị chúng nó mưu lén
cho qua Thánh ý Thầy thay! Một đàng trì, một đàng kéo, thảm thay các con chịu ở
giữa. Thầy dạy các con một điều là biết tranh đấu cùng Thầy. Hễ nó tấn thì mình
chống, cân sức cho bằng hay là trổi hơn mới đắc thắng. Các con chịu nỗi thì Ðạo
thành, còn các con ngã thì Ðạo suy. Liệu lấy! Cầm cả quyền hành vô lượng
nơi tay, Thầy ngó một cái cũng đủ tiêu diệt nó đặng, nhưng mà phép công
bình thiêng liêng chẳng phải nên vậy. Ấy cũng là cơ mầu nhiệm cho các con có
thế lập công quả.
Trung, Lịch, hai con phải hội chư Thánh mà xin Khai Ðạo.
Phải làm đơn mà dâng cho Thầy xem xét sửa trước nghe”!
Chính ngày này 23-8-Bính Dần (Thứ tư: 29-9-1926)
Đức NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI Giáo Đạo Nam phương
giáng dạy rằng:
“Thầy dạy chư Môn đệ một lần cho mà hiểu và nhớ hằng ngày.
Nhiều đứa đi truyền đạo mà trong lòng kính sợ kẻ thọ giáo. Thầy hỏi: Phải
nghịch chơn lý chăng?
- Phải, các con há!
Kẻ dốt mà dạy người dốt thì cả hai dầu nói tới tận thế cũng
còn dốt.
Lại thấy kẻ dốt ấy kích bác, trở lại chịu thiệt rằng: Ðạo
mình là lầm lạc. Người truyền đạo dường ấy có sai chánh lý chăng?
- Phải, các con há ! Chẳng
khác nào ngồi nhà thấy kẻ mắc mưa ướt mình, nhảy ra che cho ướt, lại khen rằng
mát thì muội lắm đó. Vậy Thầy lại thấy một bọn Môn đồ, khi đến nói Đạo với kẻ
nào thì thẹn thuồng ái ngại. Phải nghịch chánh lý chăng?
- Phải, thiếu tư cách đã đành !.
Mình vì chữ thiện mà dạy người thì giá trị mình đã cao thượng
rồi, mà còn thẹn nỗi gì! Chẳng khác nào một đứa bé bị chửi, sợ nhục, lại rán
chửi lại cho bằng, té ra bị nhục hơn nín đặng nghe luôn nữa. Thầy lại thấy
nhiều đứa chưa hiểu thấu huyền diệu là gì, bị người chê, rồi về còn biếm nhẻ
nữa. Phải nghịch chánh lý chăng?
- Trong phần đông các con, nhiều kẻ ấy.
Thầy khuyên các con nhớ hoài rằng: Thầy của các con là Ông
Thầy Trời, nên biết một Ổng mà thôi, thì đủ, nghe à !
Ngôi vị Bạch Ngọc Kinh chẳng ưa chứa kẻ hung hăng, mà lạ
một điều là kẻ hung hăng đạo đức thường phá cửa lún đặng vào, địa vị phần nhiều
đoạt bởi kẻ ấy.
Các con hiền mà dữ, các con yếu mà mạnh, các con nhỏ nhoi
mà là quyền thế, các con nhịn nhục mà các con hành phạt, cử chỉ các con khá tập
sao cho nghịch với cử chỉ thế tình thì là gần ngôi Tiên, Phật đó.”
o0o
Danh sách 28 vị tiền khai Đại Đạo:
Thật ra danh sách 28 vị Tiền Khai Đại-Đạo đứng tên vào TỜ
KHAI ĐẠO đã nêu trên, ấy không phải là một việc ngẫu nhiên, mà đây chính là
hình ảnh của 28 vì sao gọi là Nhị Thập Bát Tú đó vậy.
NHỊ THẬP BÁT TÚ
Phần suy luận:
Trong vấn đề Đạo pháp không một điều gì xảy ra mà không có
nguyên cớ. Đây là vấn đề yếu thiết ấy. Vì sao buổi ban đầu chỉ có 28 vị ký tên
vào TỜ KHAI ĐẠO mà không phải là con số khác. Nếu thật sự các Ngài không cố
tình chọn con số huyền vi bí mật này thì sự bí mật huyền vi của Thiêng liêng đã
dành sẵn cho mối Đạo Trời. Vả lại, trong 28 vị tiền khai Đại Đạo duy chỉ có một
Bà Lâm Ngọc Thanh là Nữ lại đứng đầu. Nếu nữ là Âm, mà thời cuộc bấy giờ đen
tối cũng là thời Âm. Toán học cho biết rằng Âm gặp Âm sẽ thành Dương ấy là cơ
Phục nguyên vậy. Chính đây là ảnh hưởng của Nhị Thập Bát Tú.
Đó là Tinh của Sao Chổi Huỳnh-hoặc. Thuỷ kích tuỳ theo tuế
kể mà rời chỗ, như Gia lâm 28 Sao thì nảy sanh các tai biến
lành dữ.
* Đông phương 7 Sao (ứng Mộc):
Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.
* Bắc phương 7 Sao (ứng Thuỷ làm Thuỷ kích)
Đẩu, Ngưu,
Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích
* Tây Phương 7 Sao (ứng Kim làm Thuỷ kích)
Khuê, Lâu,
Vị, Mão, Tất, Tuy, Sâm.
* Nam phương 7 sao (ứng Hoả làm Thuỷ kích)
Tỉnh, Quỉ, Liễu,
Tinh, Trương, Dực, Chẩn.
Tác động của Tinh tú:
“Vạn vật trong vũ trụ dù ở cõi vô hình hay hữu hình đều
được sắp hạng và phân loại theo quy mô của số 7. Tất cả mọi hình thức
sinh hoạt trong dãy hành tinh hiện tại đều thuộc một trong 7 cung. Mỗi cung có
7 phân bộ hay 49 nhóm. Toàn thể Thái dương hệ của chúng ta đều là sự biểu lộ
của Thượng Đế, mỗi phần tử trong đó đều là một phần của Ngài. Ngoài ra có 7 vị
tinh quân (logo) mỗi vị kiểm soát một cung. Thật ra các vị này chỉ là những
trung tâm thần lực, những con đường vận hà để thần lực Thượng Đế ban rải ra.
Con người có ba thể chính là thể xác, thể vía và thể trí (đối chiếu với xác
thân, Chơn Thần, Chơn linh) tương ứng với ba cõi: Hạ giới, Trung
giới và Thượng giới.
Thượng Đế cũng thế:
- Tất cả vật chất trong Hạ giới hợp với thể
xác của Ngài
- Tất cả vật chất cõi Trung giới hợp thành thể
Trí của Ngài
- Tấtcả vật chất cõi thượng giới hợp
thành Vía của Ngài.
Tóm lại: tất cả đều là thành phần của Thượng Đế từ hạt
bụi đến các dãy thiên hà. Mọi nguyên tử vật chất cấu tạo nên chúng ta đều là
một phần của Thượng Đế xuyên qua 7 cung – khi qua đây nó bị thay đổi ít nhiều,
tuỳ ảnh hưởng các cung. Khoa chiêm tinh có thể phân biệt người nào chịu ảnh
hưởng cung nào tuỳ số lượng nguyên tử cấu tạo xuất phát từ cung liên
hệ.” (trích Hành trình về phương Đông của Nguyên Phong dịch)
Xem thế thì 28 = 4 x 7
Con số 7 đối với Đạo Cao Đài là một con số huyền nhiệm vô
cùng. Đầu tiên Thất Nương (7) cũng đến trước tiên “Thất Nương khêu đuốc Đạo
đầu”. Bởi vì con người
là có đủ Thất tình. Tu để biến Thất tình thành thất bửu..
Điều đáng lưu ý là:
Tờ Khai Ðạo nầy, Ðức Chí Tôn dặn phải dâng lên Ðức
Ngài xem xét trước, để Ðức Chí Tôn chỉnh sửa lại. Dầu chưa có Thượng hội
–một trong ba Hội lập quyền-
Hai Ngài Ðầu Sư vâng lịnh: mời các Chức sắc và Tín đồ họp
Ðại hội vào lúc 8 giờ tối ngày 23-8-Bính Dần (dl: 29-9-1926) tại nhà Ông Nguyễn
Văn Tường.
*Đây xem như là Đại Hội Nhơn Sanh:
Buổi chiều tối hôm đó, trời đổ mưa to gió lớn, làm ngập
đường sá, xe cộ chạy không được, nhờ vậy mà số mật thám Pháp không để ý và ngăn
trở buổi Ðại hội nầy. Có tất cả 247 vị Chức sắc và tín đồ tham dự
cuộc hội. Ba Ngài: Thượng Trung Nhựt, Ngọc Lịch Nguyệt và Cao Quỳnh Cư điều
khiển đại hội. Ðại hội chấp thuận dự thảo
Tờ Khai Ðạo do Ban chủ tọa thảo ra.
Tờ Khai Ðạo tiếp theo đây chỉ có 28 vị Tiền khai Đại-Đạo ký
tên mà thôi, các vị này sau cũng đứng vào hàng Chức Sắc- Thánh Thể của Đức Chí
Tôn.
*Đây chính là Đại Hội Hội-Thánh.
Sau đêm đó, quí Ngài thiết lập đàn cơ tại nhà Ngài Cao
Quỳnh Cư, dâng Tờ Khai Ðạo lên Ðức Chí Tôn duyệt. Tại sao phải lập đàn Cơ tại
nhà của Đức Thượng Phẩm ? Vì chính Ngài là đứng đầu Chi Đạo.
Ðức Chí Tôn giáng phê: "Mấy con không nói một
điều gì đến Thầy hết, nhưng thôi kệ cứ gởi đi."
Sau đó, Ðức Chí Tôn dặn Ngài Thượng Trung Nhựt: "Thầy
dặn con, Trung, nội thứ năm tuần tới phải đến Le Fol mà khai cho kịp,
nghe!"
Ðúng ngày thứ năm tuần sau, là ngày 7-10-1926 (âl: 1-9-Bính
Dần), Ngài Thượng Trung Nhựt lên Soái phủ
Nam Kỳ nạp Tờ Khai Ðạo cho Thống Ðốc Le Fol.
* Quyền tối cao Thầy quyết định chính là Thượng Hội
Thế là kể từ ngày 7-10-1926, Ðạo Cao Ðài công khai hoạt
động, truyền đạo trong dân chúng đủ các giới, để sau đó chuẩn bị thiết lập Ðại
Lễ Khai Ðạo tại Thánh Thất tạm đặt tại Chùa Từ Lâm, Gò Kén, Tây Ninh.
Ngày 13-10-1926 (âl: 7-9-Bính Dần), Ngài Cao Quỳnh Cư soạn
Tờ Phổ Cáo Chúng Sanh, được sự đồng ý của Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt, dâng
lên cho Ðức Chí Tôn duyệt, rồi in ra phổ biến các giới đồng bào biết, nay,
Việt-Nam xuất hiện nền Tân Tôn giáo là Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ do Ðấng Thượng Ðế
mở ra và làm chủ.
Riêng về Ông Nguyễn Văn Tường, đã cho mượn nhà làm nơi họp
Ðại hội lập Tờ Khai Ðạo: Lúc đó Ông Nguyễn Văn Tường (1887-1939) làm Thông Ngôn
cho Sở Tuần Cảnh, nhận thấy sự huyền diệu của Ðức Chí Tôn nên Ông nhập môn theo
Ðạo, sau được Ðức Chí Tôn phong Giáo Hữu phái Thượng, Thánh danh Thượng Tường
Thanh. Nhà Ông Tường ở trên một phần đất rộng khoảng 1500 m2 nên đủ chỗ cho quí Ngài Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch
Nguyệt tổ chức Ðại hội gồm 247 vị hiện diện, lập Tờ Khai Ðạo. Ông Nguyễn Văn
Tường thường xuyên hành đạo tại Thánh Thất Cầu Kho, mất vào ngày 26-9- Kỷ
Mão (dl: 7-11-1939). (Tài liệu của Huệ Nhẫn)