Quyền Lập Pháp tức là Quyền Vạn Linh:
Một
quốc gia biểu lộ sự sanh tồn bằng các quyền năng (fonctions), quyền năng ấy lại
phải có cơ quan (organe) để thi hành.
Trong cửa Ðạo, muốn biểu lộ sự hoạt
động không ngừng của bộ máy Chánh trị cũng có đủ các quyền năng và cơ quan để
thi hành quyền năng đó. Quyền năng và cơ quan hiệp lại gọi là trị
quyền. Như quyền Lập Pháp tức là Quyền Vạn Linh là một trị
quyền. Quyền năng của nó phải biểu lộ ý chí và nguyện vọng của Nhơn sanh,
còn cơ quan thì có ba Hội:
- Quyền Lập Pháp của Ðời lấy Nghị hội làm cơ quan, gọi
là Viện, thường chia ra hai Viện (Lưỡng Viện chế) là: Thứ Dân Nghị Viện hay là
Hạ Nghị Viện và Nguyên Lão Nghị Viện hay Thượng Nghị Viện, hay là thống nhất
lại thành một viện (Nhứt Viện chế) Quốc Dân Ðại Hội (kêu tắt là Quốc Hội).
Trong
nền Ðạo, cơ quan Lập Pháp theo một chế độ khác lạ, là chia ra làm ba
Nghị Hội, ta có thể tạm gọi là chế độ ba viện (Tam Viện chế).
Ba Hội
ấy là:
1.
Hội Nhơn Sanh (Conseil populaire)
giống như Thứ Dân Nghị Viện, nghĩa là trực tiếp với Nhơn sanh, gồm có các Ðại
Biểu trực tiếp do Nhơn sanh bầu cử đặng thay mặt cho mình, đem lời thỉnh nguyện
của mình ra trình bày giữa hội (tánh cách dục tấn).
2 .
Hội Thánh (Conseil sacerdotal) giống
Nguyên Lão Nghị Viện với tánh cách bảo thủ đặng dung hòa, kềm chế bớt những ý
nguyện quá bồng bột của Nhơn sanh, do Hội Nhơn Sanh dâng lên. Hội Thánh có
quyền tán thành hay phản đối lời thỉnh cầu của Nhơn sanh
chiếu theo Luật Pháp của Ðạo.
3 .
Thượng Hội (Haut Conseil) tức là Hội
Tối Cao, có quyền xem xét đề nghị của Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh rồi có quyền
chấp thuận hay là không.
Ba
Hội nầy hiệp lại làm Cơ quan của "Quyền Vạn Linh".
Tại
sao có Quyền Vạn Linh?
Từ xưa
đến nay, xem qua Chánh trị của Ðời, Quyền Lập Pháp thường do một người hay một
thiểu số người chủ trương, thành ra đa số thường bị áp bức phải tuân theo ý chí
của nhóm thiểu số kia. Mà pháp luật đã đặt ra do một thiểu số người, chỉ thích
hợp với quyền lợi của một nhóm người nầy mà không thích hợp với quyền lợi của
nhóm người khác, thích hợp với tập quán của địa phương nầy mà không thích hợp
với tập quán của địa phương khác. Vậy thì ta chỉ thấy "Người cai trị
người" chớ chưa hề thấy "Luật cai trị người". Vì cớ cho nên
Ðời thường loạn.
Con
người có ý chí trước, rồi hành động sau, thì hành động đó mới thích hợp được,
bằng không thì chỉ là những hành động lầm lẫn, thiếu suy gẫm, thiếu tính toán.
Pháp
luật cũng như ý chí của con người, có Pháp luật làm khuôn viên, thì toàn Nhơn
sanh cứ một mực khép mình vào khuôn viên ấy, mới có thể tránh những hành vi
trái phép được. Ý chí của con người thường biến đổi. Trình độ của Nhơn
sanh luôn luôn tiến hóa về mặt trí thức tinh thần, cần phải có luật pháp chế
biến cho thích hợp với trình độ tiến hóa với nhơn ý, nhơn nguyện thì Nhơn sanh
mới vui lòng tuân hành.
Ðức CHÍ
TÔN là Ðấng Tối Cao, sản sanh ra muôn loài, song Ngài đã nói rằng: "Thầy
là các con, các con là Thầy" ý nghĩa nói rằng: Quyền Vạn Linh
bằng với quyền của Chí Linh. Ý muốn của Vạn Linh (Créatures) tức là ý muốn của
Chí Linh (Créateur): Ý muốn của "con cái" tức là ý muốn của "Cha
Lành" đó vậy. Vì thế mới có lập Quyền Vạn Linh để Vạn Linh tự lập
luật lấy, đặng tự kiềm chế mình trong con đường tu, hầu qui hồi cựu vị, hội
hiệp cùng Thầy.
Sự
lợi ích của chế độ nhiều Nghị Hội trong Quyền Lập Pháp
Như đã
nói trên, tánh cách của Hội Nhơn Sanh là dục tấn, nghĩa là bồng bột, đòi hỏi
rất nhiều, nếu trong Quyền Lập Pháp chỉ có một Hội Nhơn Sanh làm cơ quan, thì ý
nguyện của Nhơn sanh nhiều khi đi quá cao hơn sự thực hành của họ, tất nhiên
Nhơn sanh không thế nào theo kịp. Cần phải có Hội Thánh để dung hòa ý chí quá
cấp tiến của Nhơn sanh và Thượng Hội để quyết định chấp thuận đề nghị nào.
Thành ra cả ba Hội đều tự thấy mình cần phải dung hòa cùng nhau, mỗi Hội tự
nhượng bộ một ít, trong khuôn Luật pháp.
Về
phương diện chuyên môn, một đề nghị đi qua sự thảo luận của nhiều Hội, tức
nhiên chính chắn hơn là chỉ đi qua có một Hội. (Khai Pháp Trần Duy Nghĩa)
o0o
B - KHAI
TRIỂN BẰNG LÝ DỊCH
Đạo Cao
Đài được thành hình theo qui luật của Càn
Khôn Vũ trụ, chứ không phải tự ý muốn phong phẩm cấp cho ai thì phong. Nhưng
nên nhớ “Trời không hai mặt, đất chẳng
hai vua”, cho nên từ việc nhỏ cho đến việc lớn đều tuân theo luật của Đức Chí
Tôn định. Ngay trong việc thờ phượng phải tuân thủ theo nguyên
tắc rõ ràng:
Nhìn
lại đồ hình thấy:
- Nhứt
kỳ Phổ Độ đã qua, Đức Nhiên Đăng Cổ
Phật tượng cho Phật, kế đến Tiên và Thánh.phổ trùm qua các thời kỳ, tượng trưng
bằng tam giác ABC.
Nhị
Kỳ Phổ Độ: khi đứng vào tam giác nhỏ
là tượng cho Tam giáo ở Nhị Kỳ Phổ Độ:
- Phật
Thích Ca Mâu Ni, Chưởng giáo Phật
đạo (đỉnh A).
- Thái Thượng Đạo Tổ Chưởng
giáo Tiên Đạo.
- Khổng Thánh Tiên sư Chưởng
giáo Thánh đạo.
-
Tam Kỳ Phổ Độ là quyền hành Tam Trấn
Oai Nghiêm thay quyền Tam giáo, tượng tam giác trong cùng của đồ
hình, tức là giữa vòng tròn. Đại diện là:
-
Quan Âm Bồ Tát thay quyền Phật
Đạo
-
Lý Đại Tiên Trưởng thay quyền Tiên Đạo.
-
Quan Thánh Đế Quân thay quyền Thánh Đạo.
Ấy là Tam Giáo và Tam Trấn Oai Nghiêm. qua hai thời kỳ
Nếu
nhìn theo đường thẳng đứng trên đồ hình
thì Ngũ Chi Đại-Đạo, là:
- Trên
hết là Thích Ca Mâu Ni - Phật đạo.
- Kế
đến là Thái Bạch Kim Tinh – quyền Tiên Đạo
- Đức
Jésus là Thánh đạo Chưởng giáo, Ngài là Đấng Cứu
thế, tức nhiên Ngài đã thọ khổ chết trên cây Thánh giá để chuộc tội
cho nhân loại. Danh Chúa đã đứng vào tâm của vòng tròn. Biểu tượng một tinh thần phụng sự phải qua năm bước khổ đó vậy.
- Khượng Thượng Tử Nha Chưởng giáo Thần
Đạo.
- Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ chủ quyền Nhơn
Đạo trong buổi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ này.
Thế nên
Ngũ Chi Đại-Đạo chính là: Năm bước khổ như lời Đức Hộ-Pháp nói:
“Cái chương trình ấy là những cơ chỉ sanh ra bởi các tư
tưởng của cả Tôn Giáo đã lập thành nên Ðạo. Chữ Ðạo là đường đặt ra bởi đó, đặng dìu dắt nhơn
sanh khỏi bước đời gay trở; cốt yếu là lập mục đích, định chuẩn thằng cho kẻ
trước hiệp người sau, kẻ kim hòa người cổ, tóm cả trí lự của nhơn loại, đặng
làm ngọn huệ quang soi rọi khắp nhơn gian, mượn cả sự tội tình sầu thảm của
thế, mà tạo Bát Nhã thuyền đặng vớt người nơi khổ hải.
- Phật, vì thương
đời, mà tìm cơ giải khổ.
-
Tiên, vì thương
đời, mà bày cơ thoát khổ.
-
Thánh, vì thương đời, mà dạy cơ thọ khổ.
- Thần,
vì thương đời, mà lập cơ thắng khổ.
-
Hiền, vì thương đời, mà đạt cơ tùng khổ.
Chữ
khổ là đề mục của khoa học
trường đời, phẩm vị Hiền,Thần,Thánh,Tiên, Phật, là
ngôi vị của trang đắc cử”.
C - Ba thời kỳ Chí-Tôn mở Đạo:
Vậy
thì từ trước đến giờ đã có ba lần mở Đạo:
Trên
đồ hình thì các tam giác nội tiếp trong vòng tròn là tượng
cho Tam giáo qua các thời kỳ: tóm lược sau:
* Nhứt kỳ Phổ-Độ
Phật-giáo
là Nhiên-Đăng Cổ-Phật,
- Tiên-giáo
là Thái-Thượng
Đạo Tổ.
- Thánh-giáo
là Văn-Tuyên Đế-quân
* Nhị
kỳ Phổ-độ
-
Phật-giáo: Thích-Ca Mâu-ni
-
Tiên-giáo: Thái-Thượng Lão-quân
-
Thánh-giáo: Khổng-Thánh Tiên sư.
*
Tam-kỳ Phổ-độ
- Thay Phật-giáo: Quan-Âm Như Lai.
- Thay
Tiên-giáo: Thái-Bạch Kim-Tinh.
- Thay
Thánh-giáo: Quan-Thánh Đế
D - T ỊCH ĐẠO THANH HƯƠNG:
1 - Trường
hợp đặc biệt: Tam Bửu của Trời NHỰT-NGUYỆT-TINH
đặt nơi Cửu Trùng Đài.
Ba báu:
NHỰT, NGUYỆT,TINH là ba hình ảnh của người đại diện trong thời “Nhơn sanh ư
Dần” là ba vị Đầu Sư của ba phái Thái- Thượng- Ngọc, được ân phong đầu tiên
trong cửa Đạo Cao Đài nơi Tòa Thánh Tây Ninh mà thôi.
- Thái
Đầu-sư Thái Nương TINH và Thái Minh TINH
-
Thượng Đầu-Sư Thượng Trung NHỰT
- Ngọc
Đầu-sư Ngọc Lịch NGUYỆT
Xem thế, thì Mặt
trời, mặt trăng mỗi thứ chỉ có một, nhưng Tinh là sao thì rất nhiều, có đến
3072 ngôi sao, nên phải có hai vị mang chữ TINH.
Bởi: Số 3 là do số
1 và 2 hỗn hợp lại mà biến ra 3. Số 3 là con số căn bản trong tất cả các số.
Chính nó là một con số Huyền diệu và nhiệm-mầu nhứt.
2 - Cửu
Trùng Đài thuộc quẻ KHẢM ☵
Tam
Đầu chế của Cửu Trùng Đài
là ba vị Đầu Sư đầu tiên. Nhưng, chỉ riêng trong thời khởi khai Đại-Đạo thì
Chức sắc Cửu Trùng-Đài Nam-phái được hưởng một đặc-ân là ba
vị Đầu-Sư có Thánh-danh mang chữ: Nhựt- Nguyệt- Tinh gọi là Tam bửu của Trời
là:
-
Thái Đầu-Sư Thái-Minh TINH (Thiện-Minh)
-
Thượng Đầu-Sư Thượng-Trung-NHỰT
-
Ngọc Đầu-Sư Ngọc-Lịch NGUYỆT
Bởi: Hội
Thánh Đại-Đạo có hai Đài hữu hình:
1/- Cửu-Trùng-Đài lo về cơ-quan giáo-hóa
nhơn-sanh.
2/ - Hiệp-Thiên-Đài là cơ-quan bảo tồn Luật pháp
Đạo.
Cơ
phong Thánh Cửu-Trùng-Đài Nam-phái được thành lập trước, vào ngày 14 rạng ngày
rằm tháng 10 năm Bính Dần (dl:19-11-1926). Tuy nhiên,
với ba vị Đầu-Sư này được Thiên-phong lần lượt vào
các ngày:
-
Ông Lê-văn-Trung, Thánh-danh Thượng Trung
Nhựt, đắc phong ngày 15-3 Bính Dần (1926)
-
Ông Lê-văn-Lịch, Thánh-danh Ngọc Lịch Nguyệt, đắc phong ngày 15-3-Bính
Dần (1926)
-
Ông Thiện-Minh, Thánh danh Thái-Minh-Tinh, đắc
phong ngày 13-10-Bính Dần (1926)
Ngày
ông Thiện-Minh được ân-phong, Thầy có dạy:
“Thiện-Minh, con há ! Mừng con,
“Con
ôi! Khi Thầy giáng sanh lập Đạo Thánh, Thầy đổ máu mà
rửa tội cho chúng-sanh, đến đỗi phải lấy thân làm của tế mà cầu-khẩn cho
chúng-sanh. Hai ngàn năm chưa qua, giọt máu Thầy đã trôi hết ! Nay, con vì ma khảo phải đổ máu mà rửa tội cho
toàn phái Thái, thì sự vinh-diệu con trước mắt chư Thần,
Thánh, Tiên, Phật, đã đặng so-sánh cùng Thầy rồi…Cười. Con phải lấy hiệu Thiên-ân là Thái-Minh Tinh làm Đầu-Sư”.
Như vậy
Cửu-Trùng-Đài là quẻ Khảm ☵ (nếu kể Tam thiên thế-giới và Thất thập
nhị điạ là Tinh-tú thì có đến 3.072 vì sao). Do vậy, mà phái Thái phải có đến
hai vị:
1- Thái Minh-Tinh
2-
Thái Nương-Tinh
Ngày
12-12-Bính Dần (dl: 15-01-1927 )
Thầy
giáng dạy rằng:
“NƯƠNG, Thầy dặn con,
con chẳng hề nghe đến, Thầy muốn bỏ, song vì cựu vị nên chẳng đành. Từ đây phải lo Đạo
nghe! Thầy phong cho con chức Thái-Đầu-Sư, phải hành Đạo và hiệp sức phổ-độ
phái Thái, Thái-Minh Tinh bị Lý Thái Bạch cách chức”.
Đức
Lý dạy:
“Nương phải sắm
Thiên-phục như Thơ Thanh vậy nghe!” (13-12
Bính-Dần).
Tại sao Cửu-Trùng-Đài thuộc quẻ
KHẢM ☵ ?
- Bởi theo thứ-tự BA PHÁI là
Thái, Thượng, Ngọc; tức là:
-
Phái Thái thuộc Phật (trước)
- Phái Thượng thuộc Tiên. (giữa)
- Phái Ngọc thuộc Thánh. (sau)
Trong Tam-Kỳ Phổ-Độ này thì:
* phái Thái
có hai vị, mang chữ TINH số 2 thuộc Âm.
* phái Thượng
có 1 vị mang chữ NHỰT số 1 thuộc Dương
* phái Ngọc
có một vị, mang chữ NGUYỆT thuộc Âm.
Như vậy, Cửu-Trùng-Đài thuộc quẻ
KHẢM ☵
(Khảm vi thủy, Thủy là nước).
Đạo Cao Đài luôn lấy chữ CHÁNH và TRUNG làm trọng, nên chi phái
Thượng (phái Tiên) ở giữa rất là yếu trọng. Cũng như các giờ giấc cúng kính cũng luôn lấy điểm giữa làm trọng. Ví
dụ:
Bốn thời:
Tý: từ
23g - 24g - 01g; thì 24g là chính
Tý.
Ngọ: từ 11g - 12g - 01g, thì
12g là chính Ngọ
Mẹo: từ 5g - 6g - 7g, thì 6g là chính
Mẹo
Dậu: từ 17g -18g - 19g thì 18g là chánh
Dậu
3 - Trường hợp thông thường:
Trong thời Tịch Đạo Thanh
Hương này: Nam lấy chữ THANH,
nữ lấy chữ HƯƠNG đặt vào Thánh danh của mỗi người, như đã
trình bày. Tức nhiên từ phẩm Lễ sanh trở lên là đã có
chữ Tịch Đạo rồi. Thí dụ: Ông Nguyễn-văn-A được thọ phẩm Lễ Sanh
phái Ngọc thì Thánh danh là NGỌC-A-THANH, tức nhiên chữ sắc phái (Ngọc) đặt
trước, kế đến tên tộc giữa (A), sau là chữ Tịch Đạo (Thanh). Nếu nữ Lễ Sanh: là
Bà Nguyễn-Thị-Bê, thì Thánh danh là Hương-Bê, hoặc là Nguyễn Hương-Bê, tức là
đặt chữ Hương trước chữ tên (nếu có nhiều người trùng tên, thì
đặt chữ họ phía trước).
Thử hỏi vì đâu có được những chữ
sắc phái này cho
4 - Ba vị Quyền Đầu sư tiếp theo:
Ngày 17-01-Quí Dậu (dl: 11-02-1933)
ba vị Chánh Phối Sư ba phái đầu tiên được Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung hiệp
cùng Đức Phạm Hộ Pháp (có sự đồng ý của Đức Lý Giáo Tông) đồng ký tên ra Thông
Tri thăng phẩm Quyền Đầu Sư, cho ba vị Chánh Phối Sư nầy.
- Thái Thơ Thanh (Nguyễn Ngọc Thơ - 1873-1950)
-Thượng Tương Thanh (Nguyễn Ngọc Tương
(1881-1951) - Ngọc Trang Thanh (Lê Bá Trang - 1879-1936)
Qua năm sau, hai vị Quyền Đầu
Sư Thượng Tương Thanh và Ngọc Trang Thanh tách khỏi Tòa-Thánh
Tây Ninh lập Ban Chỉnh Đạo, sau thành Chi phái Bến Tre.
5- Ba vị Đầu sư tiếp theo: do ba vị Chánh Phối Sư
được Đức Lý Giáo Tông thăng thưởng lên Đầu Sư .
Hiện ba vị Đầu Sư này có xây Tháp
tại Đông lang Tòa Thánh Tây Ninh là.
- Thượng Đầu Sư Thượng Sáng Thanh (1888-1980)
Hiện ba tháp này vẫn còn
và đặt trước Lễ viện Toà Thánh.
Đức Thượng-Đế cũng xác nhận
về ba vị Tướng soái của Thầy bên cơ-quan Cửu-Trùng Đài rằng:
“Thầy đến đây đặng cho hội-hiệp sum-vầy BA NGÔI cho đoàn-tụ đó, bớ
mấy con! Nghĩa là Ngọc-Thanh, Thái Thanh
và Thượng-Thanh đã đủ mặt ngày nay rồi, thì phải lo thi-hành bổn-phận cho
chóng. Bởi ngày giờ đã muộn, ráng
mà làm bia cho đời sau noi dấu đến bảy chục muôn năm đó con! Chớ chẳng phải là
cuộc nhỏ mọn đâu con, phải ráng mà đồng công cọng sự mới đặng, trong thì
Thầygiúp sức,ngoài thì BA CON phụ lực mới thành
công”. Như vậy thời Tịch
Đạo THANH HƯƠNG này Nam phái có đến
9 Nam Đầu Sư và
Nữ Phái có ba ĐẦU SƯ, cộng chung là
12 vị Đầu Sư tất cả.
Ba vị Nữ Đầu Sư của thời Thanh
Hương:
- Nữ Đầu Sư: Lâm Hương-Thanh (1874-
1937)
- Nữ Đầu Sư: Nguyễn Hương-Hiếu
(1886- 1971)
- Nữ Đầu Sư: Hồ
Hương-Lự (1878-
1972)
6 - Chức sắc Thiên phong do quyền
Thiêng liêng định:
Tất cả đều phải được cầu Cơ tại
Cung Đạo do Đức Lý giáng ban trong dịp cầu phong, cầu thăng, gọi là Chức sắc Thiên phong. Chỉ có Đức
Ngài mới biết được căn cơ của nhơn sanh hồi tiền kiếp đã tu theo pháp nào. Thí dụ trước đây người có tu theo Phật, giờ đây Ngài cho phái Thái để tiếp tục hành
theo Phật trong nguơn hội Cao Đài, nếu thời trước tu theo Tiên, Thánh; giờ này
lần lượt nhận phái Thượng, phái Ngọc là như vậy. Tất cả đều nằm trong máy Tạo
huyền vi một cách nhặt nhiệm chứ không phải
do ý muốn của người mà xem như một trò đùa, e ra đắc tội với Thiêng Liêng không
nhỏ vậy. Vì do Thiêng liêng phong cho sắc phái nên mới gọi là THIÊN
PHONG. Bởi vậy mà chữ Thiên phong Chức sắc thật
là đáng trân trọng. Trái lại thì gọi là phàm phong, hay nhơn phong,
không giá trị gì hết đối với nhơn sanh, đừng nói chi đến chư Thần Thánh Tiên
Phật, không một ai chấp nhận bao giờ .. .
THẦY
dạy tại Cầu Kho 19 Février 1927:
“Thầy vì lẽ công mà phong Chức sắc
cho mỗi đứa là cũng do Tòa Tam Giáo xin, chớ xem lại trong hàng Môn đệ
đã thọ tước cũng chưa đặng thấy mấy đứa cho xứng đáng. Vậy các con đứa
nào đã được thưởng phong cũng chẳng nên vội mừng mà quên phận sự; còn mấy đứa
chưa đặng phong thưởng cũng không nên vội buồn mà thất đạo tâm. Các con
hiểu à ?
Thầy ước sao các con biết tự lập
thì Thầy mới vui lòng; chớ các con Nhập môn cho đông, lãnh Thiên phong
cho nhiều mà không đủ tư cách, thì các con phải tự hỏi mình coi có bổ ích vào
đâu chăng – Hiểu à!”
7- Hiệp-Thiên-Đài thuộc quẻ
LY ☲
Những ngày đầu Đấng AĂÂ gọi ba vị
này là “Tam vị Đạo-hữu”, một từ thân-mật là các Ông:
- Cao-Quỳnh-Cư, sau đắc phong
là THƯỢNG PHẨM, tuổi Mậu-Tý (1888
)- Số 1 (Dương)
- Cao-Hoài-Sang, sau đắc phong là THƯỢNG
SANH, tuổi
Tân-Sửu (1901) - Số
2 (Âm)
- Phạm-Công-Tắc, sau đắc phong là
HỘ-PHÁP, tuổi Canh Dần (1890) Số
3 (Dương)
Đức Chí-Tôn lập Đạo trong buổi Hạ-nguơn
này thể hiện cơ tuần-huờn châu nhi phục
thủy, Tôn-chỉ lấy “Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt” để đưa nhân-loại đến
Đại-Đồng. Lấy theo nguyên-lý của vũ trụ thì:
-
Thiên khai ư Tý - Trời khai vào hội Tý
-
Địa tịch ư Sửu - Đất thành
hình ở hội Sửu
-
Nhơn sanh ư Dần - Nhơn-loại sanh vào hội Dần.
Nay là buổi “Nhơn sanh ư
Dần” nên đây là phần hành của Đức DI-LẠC. Do vậy mà hình ảnh của Ngài
ngự ở mặt tiền Đền-Thánh, cỡi CỌP để làm biểu tượng là năm Dần.
Thầy đã ân-cần nhắc-nhở:
“CƯ-
TẮC - SANG, ba con đã lãnh mạng lịnh lớn lao vẹt đường tăm-tối trong buổi ban
sơ. Thầy lại khiến ba đứa phải liên-hiệp nhau mới có thể
xây đắp nền Đạo cho đến cùng”. Đức Chí-Tôn cũng nói rõ về phần yếu trọng của ba người nữa:
“CƯ-
TẮC- SANG, con ơi ! Lập
Đạo thành đặng chăng tại nơi ba con. Con đã nghe quyền-hành của yêu
quỉ Thầy cho lớn đến bực nào ? Chẳng phải là cơ thử Thánh, Tiên, Phật mà thôi, lại còn là
Công-bình thiêng liêng của Tạo hóa. Nếu hai đầu cân chẳng song bằng
thì tiếng cân chưa đúng lý. Tự nơi các con làm thế nào cho bên Thánh-Đức nặng
hơn tà-mưu thì làm mới ra công quả. Các con chớ ngại, ngày nay Đạo đã khai tức
là Tà khởi. Vậy các con phải làm hết lòng, hết sức mà gìn-giữ lấy mình, đã
chẳng phải giữ mình các con mà thôi, lại còn giữ-gìn cả Môn đệ Thầy nữa.
“Nội
nơi Nam-phương này, như có mặt cho Tà
thần yêu-quái sợ thì
duy có ba con. Vậy ráng giữ-gìn cho thanh-khiết. Thầy nói thật cho các con hiểu
trước rằng: Cả Môn-Đệ Thầy đã lựa chọn, lọc-lừa, còn lại lối
nửa phần, Thầy cho
yêu quái lấy danh Thầy mà cám-dỗ, đi bao nhiêu thì mất bấy nhiêu. Các con chớ buồn vì Thiên cơ phải vậy, thi nhiều đậu ít là lẽ hằng. Các
con liệu phương thế mà nâng đỡ đức-tin của Môn-đệ Thầy lên cao hằng ngày, ấy là
công-quả đầu hết.”
( ĐCT - Giáp-Dần 1926)
Bởi
vì, trên tinh-thần một Tôn-giáo muốn sống bền vững và phát-triển tốt đẹp, thì
Tôn-giáo ấy phải có đủ Tam-bửu: TINH- KHÍ- THẦN.
- Về
Thần: thì khi lập Đạo
Cao-Đài, Thần đã sẵn có do Đức Chí-Tôn làm chủ linh-hồn của
Đạo-giáo.
- Về
Khí: thì buổi phôi-thai chưa mấy tựu thành, nên Đức Chí-Tôn
mượn hình thể của Diêu Trì-Cung làm Khí.
- Về Tinh: thì hình thể của
Đạo Cao-Đài tức là ba Chi: Đạo - Pháp- Thế, tượng-trưng
là Thượng-Phẩm, Hộ Pháp, Thượng-Sanh (là ba ông CƯ, TẮC, SANG).
E- Sự thành hình trải qua
ba thời-kỳ:
Thời-kỳ khởi thủy luôn có
mặt của hai Đài:
* Tam đầu chế Hiệp-Thiên-Đài là
ba vị: Thượng Phẩm, Thượng Sanh, Hộ-Pháp tính theo tuổi (Tý -
Sửu- Dần) bởi ảnh hưởng theo
nguyên-lý của vũ trụ .
*Tam đầu chế Cửu-Trùng-Đài là ba vị Đầu
Sư tính theo trật tự trong Tam bửu của Trời là Nhựt- Nguyệt- Tinh,
tức nhiên là những người Thiên Sứ mà trong cửa Đại Đạo này là những bậc “Lương
sanh đến để cứu vớt quần sanh” tức nhiên là những người do thiêng
liêng lựa chọn. Nay Chí-Tôn thành lập Đại-Đạo qua ba thời kỳ:
I - Quan-trọng nhứt là thời kỳ khởi
thủy:
1 - Tam Đầu chế của Hiệp Thiên Đài:
Chính ba vị Tướng-soái của Chí-Tôn
đã có đủ yếu-tố để khởi-đoan cho mối Đạo Trời trong cái cơ-vi: “Thiên địa
tuần-hoàn châu nhi phục thủy”; phải chăng tất cả đều có một sự sắp xếp tế-vi,nên mới nói “Đạo thành do ba người”
Ba
người đứng vào ba tuổi: TÝ- SỬU - DẦN. Đây là ba người trong cơ khởi
thủy của Hiệp Thiên Đài:
“Hiệp-Thiên-Đài là hình-trạng của Ngọc Hư-Cung tại thế. Ấy
là cửa mở cho các chơn-linh vào đặng đi đến Tam thập lục thiên, Cực-lạc thế
giới và Bạch-Ngọc-Kinh là nơi chúng ta hội-hiệp cùng Thầy hay là chỗ ải địa-đầu
ngăn cản các chơn-linh chẳng cho xông phạm đến đường Tiên nẻo Phật.
“Lòng
Từ-bi của Thầy cho có:
- Kẻ
rước là Thượng Sanh,
- Người
đưa là Thượng-Phẩm và
- Người dẫn nẻo mở đường cứu độ là Hộ-Pháp,
đặng đem cả con cái của Thầy về giao lại cho Thầy, kẻo hằng ngày trông đợi”.
Tức
nhiên:
Như
trên, khi sắp theo số Âm Dương, cơ ngẫu, thì ba vị
Kết-luận: Tam đầu chế của Hiệp-Thiên-Đài biểu tượng bằng
quẻ LY ☲ (Ly vi Hỏa, Hỏa là
lửa).
Chức-sắc Đại-Thiên-phong của
Hiệp-Thiên-Đài họp thành quẻ LY ☲ bởi số
lẻ là Dương, tượng trưng vạch liền số chẵn là
Âm tượng-trưng vạch đứt quẻ LY là vậy. mà số 1 và 3 là Dương, giữa là Âm tạo
thành quẻ LY là vậy.
Bởi
thế quyền-hành của Thượng-Phẩm, Thượng Sanh, Hộ Pháp, rất lớn
lao. Ngoài ra Đức Hộ-Pháp còn là Chưởng Quản cả Hiệp-Thiên-Đài nữa, do PCT dạy:
“Trong
Hiệp-Thiên-Đài thì Hộ-Pháp thay quyền cho các Đấng Thiêng liêng mà gìn-giữ
công-bình tạo-hóa, bảo hộ nhơn-loại và vạn-vật lên cho tới địa-vị tận thiện tận
mỹ: người thì tận thiện, còn vật thì tận mỹ. Chẳng cần lấy sức mình mà lập, chỉ
bảo-hộ cho sự tấn-hóa tự nhiên khỏi điều trở ngại, nếu nói có quyền bảo-hộ thì
phải có luật pháp, lấy luật-pháp mà kềm chế nhơn-sanh cũng như các Đấng trọn
lành lấy Thiên-điều mà sửa trị càn-khôn thế giới.
“Hộ-Pháp là
thể các Đấng trọn lành, Người lại giao quyền cho Thượng-Phẩm lập Đạo đặng
dìu-dắt các chơn-hồn lên tột phẩm-vị của mình, tức là nâng-đỡ binh vực cả
tín-đồ và chức sắc thiên-phong ngồi an địa-vị,
cũng
như chư
Thần, Thánh điều-đình càn-khôn thế giới cho an tịnh mà giúp sức cho vạn-loại
sanh sanh hóa hóa.
“Thượng-Phẩm tiếp
các chơn-hồn của Thượng Sanh giao vào cửa Đạo. Thượng-Phẩm là người thể Đạo đối với
hàng Thánh, ấy là người làm đầu các Thánh.
“Thượng-Sanh về Thế độ, đem các chơn-hồn vào cửa Đạo, dầu
nguyên-nhân hay là hóa-nhân cũng vậy, phải nhờ Người độ-rỗi. Thượng
-Sanh đặng mạng lịnh
chuyển
thế, buộc Thượng-Sanh phải gần kẻ vô đạo đặng an-ủi, dạy dỗ, mà kể từ hạng
vô-đạo trở xuống cho tới vật chất thuộc về phàm, ấy vậy Thượng-Sanh là thể Đời,
Người đứng đầu của phẩm phàm-tục” (PCT)
Bởi giá trị tinh-thần của ba Ngài được mệnh danh là
Tướng-soái của Chí-Tôn nên sở hành của các Ngài đã cống-hiến cho nền Đạo thật
là to-tát.
Ba ông đều đắc Thiên-phong trước hết và đắc lịnh chấp cơ
truyền Đạo phổ-độ chúng sanh. Hai
ông Hộ-Pháp và Thượng-Phẩm hiệp thành một cặp đồng-tử chấp cơ phong
Thánh truyền giáo, lập Pháp-Chánh-Truyền và Tân luật là Hiến-chương
của nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ hiện giờ. Chúng ta phải nhìn-nhận đầu công của
hai ông này vào bậc nhất, vì trước hết và trên hết, Đức Chí Tôn mượn tay Thần-lực của hai ông mà lập thành Đại-Đạo cho đến
ngày nay.
Chính
Đức Hộ-Pháp xác nhận:
“Chúng
ta xét lại thấy ĐẠO CAO-ĐÀI còn hạnh phúc
hơn các
nền Tôn-giáo khác, nếu nhận quả-quyết thì có ba
người, mà
ba người tức nhiên nhiều hơn thiên-hạ rồi.
Cái
thiệt tướng của nền Tôn-giáo Đức Chí Tôn hiện tượng do quyền-năng vô đối của
Ngài mà đoạt đặng, trong đó các vị thừa-hành mạng lịnh của Ngài đã vẽ nên
hình, nắn nên tướng của nó. …Nói
quả-quyết Bần-Đạo đã đánh tan thù hận ra, khi các đảng-phái dùng quyền-lực đặng
chiếm ngôi vị của Chí-Tôn để tại mặt thế-gian này.
Bần-Đạo
đã can-đảm dùng quyền của Bần Đạo đánh ngã hết đặng bảo-trọng hình tướng
Thương-yêu của Đạo, Bần-Đạo lỗ vốn cũng nhiều, Bần-Đạo gánh lấy cả thù hận ấy
đặng bảo-tồn hình thể của Chí-Tôn cho trọn Thương-yêu” . Đó là Tam đầu chế của
HIỆP-THIÊN-ĐÀI.
2 -
Tam đầu chế Cửu-Trùng-Đài:
Về
Cửu-Trùng-Đài như trên đã giải rõ: cũng có Tam đầu chế như Hiệp Thiên-Đài vậy.
-
Cửu-Trùng-Đài thuộc quẻ KHẢM ☵
-
Hiệp-Thiên-Đài thuộc quẻ LY ☲
-
Còn lại BÁT-QUÁI-ĐÀI là nơi thờ Đức Chí-Tôn và các đẳng Thần, Thánh, Tiên,
Phật; thuần Dương, thuộc quẻ CÀN ☰ (Càn vi thiên, Càn
là trời vậy).
Kết-luận:
3 -
Tính cách chiết Khảm điền Ly của Đạo Cao-Đài
Từ
xưa đến giờ, người tu-hành chỉ mong TU LUYỆN: “chiết Khảm điền Ly phản vị Càn”; có nghĩa là căn-cứ trên quẻ, nếu lấy hào Dương của Khảm
đem thế vào hào Âm ở giữa của quẻ Ly thành ra quẻ Càn.
Như
vậy, nay là cơ Đại-ân-xá của Chí-Tôn nên chính Thầy đã “chiết khảm điền Ly” cho
tất cả rồi, thế nên Thầy mới nói “Các con chỉ có TU mà đắc
Đạo. Phải ngó đến hằng ức, thiên, vạn kẻ nhơn-sanh chưa đặng
khỏi luân-hồi, để lòng từ-bi độ rỗi kẻo tội nghiệp.”
Mà Tu thì làm sao?
Thầy
dạy: “Người dưới thế này, muốn
giàu có phải kiếm phương thế mà làm ra của. Ấy là về
phần xác thịt. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật muốn
cho đắc Đạo, phải có công quả. Thầy đến độ rỗi các con là thành lập
một trường đạo đức cho các con nên Đạo. Vậy đắc Đạo cùng chăng tại nơi các con
muốn cùng chẳng muốn. Thầy nói cho con nghe. K…ôi ! Nếu
chẳng đi đến
trường Thầy lập mà đoạt thủ
địa-vị mình, thì chẳng đi nơi nào khác mà đắc Đạo bao
giờ.” (TN
I/27)
4 - Thầy
chiết khảm điền ly bằng cách nào?
Theo
thứ-tự trên đã cho thấy rõ: lẽ ra Đền Thánh được kiến-thiết, đặt trong cùng là:
Nhưng,
trên thực-tế thì các vị-trí đã thay đổi ở
hai Đài hữu-hình là:
Đây là
phần Địa-hình đã tương-hiệp:
Ngài đã đặt quẻ Khảm lên quẻ Ly; đồng
thời đặt quẻ Ly lên quẻ Khảm để thành quẻ CÀN. Thế nên, người tu theo Đạo
Cao-Đài ngày nay tu mà không cần luyện, chỉ Phụng-sự vạn linh, mà phụng-sự vạn
linh tức là phụng-sự cho Chí-linh. Cúng Tứ thời là Luyện
Tam-bửu vậy.
PCT: “Ngày nay Chí-Tôn đã định khai Đạo đặng thị chứng
cho các Tôn-giáo biết nhìn nhau trong đường hành thiện, trừ tuyệt hại tranh-đấu
thù hiềm, làm cho thế giới đặng Hòa-bình, thoát cơ tự diệt.
“Thể
Đạo của Chí-Tôn cũng phải nương theo chữ HÒA
mới toan thành lập. Chí-Tôn định lập thành Hội Thánh đặng thay thế hình ảnh của
Người, thì cũng tùng theo phép tạo-hóa
cá-nhân mà gầy nên ảnh-tượng:
-
Cửu Trùng-Đài là thi-hài, ấy là TINH.
-
Hiệp-Thiên-Đài là chơn-thần, ấy là KHÍ.
-
Bát-Quái-Đài là linh-hồn, ấy là THẦN.
Nếu
cả ba mà không tương hiệp, thì khó mong thành Đạo đặng”
Lại
nữa: “Thần là khiếm-khuyết của cơ
mầu-nhiệm
từ
ngày Đạo bị bế, lập “TAM-KỲ PHỔ ĐỘ” này duy Thầy cho “Thần” hiệp “Tinh Khí”
đặng hiệp đủ “Tam bửu” là cơ mầu-nhiệm “siêu phàm nhập Thánh.”
…
“Phẩm-vị Thần, Thánh, Tiên, Phật từ ngày bị bế Đạo, thì luật-lệ hỡi còn nguyên,
luyện pháp chẳng đổi, song Thiên-đình mỗi phen đánh tản “Thần” không cho hiệp
cùng “Tinh Khí. Thầy đến đặng huờn nguyên Chơn thần cho các con đắc
Đạo. Con hiểu “Thần cư tại Nhãn.” Bố trí cho chư đạo-hữu
con hiểu rõ. Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó. Thầy khuyên mỗi phen nói Đạo hằng nhớ đến danh Thầy.” (Thánh-ngôn
Hiệp
tuyển)
II -
Thời kỳ kiến tạo:
Qua
thời-kỳ kiến tạo để lập công, dành cho người biết dâng công đổi vị, thì bên
Cửu-Trùng-Đài chính Đức Quyền Giáo-Tông về mặt hữu-hình đã góp vào một công quả
to lớn để dựng Đức-tin làm nền tảng Đại-Đạo ngày nay cùng với hai vị:
Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp bên Hiệp Thiên-Đài. Với lời minh-chứng của Đức Hộ-Pháp
như sau:
“Bần-Đạo
xin nhắc lại, xin làm chứng cho cả thảy con cái Đức Chí-Tôn: Nam Nữ
cũng vậy. Nếu toàn thể con cái của Ngài một đôi triệu chơn linh mà có Đức-tin
vững chắc như Đức-tin của:
-
Đức Thượng-Phẩm Cao Quỳnh-Cư,
-
Đức Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt,
- Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc.
Nếu cả thảy đều có Đức-tin
vững-vàng dường ấy, Bần
Đạo
dám nói chắc rằng: Các người dời núi Bà xuống châu
thành Sài-gòn
cũng đặng. Có thể nói: nền Đạo Cao Đài này thiệt-hiện được như
ngày
nay là nhờ Đức-tin của Thượng-Trung
Nhựt.
Đức
Hộ Pháp nói lý do:
“Cả
toàn con cái Đức Chí-Tôn buổi nọ còn lại có ba người. Thật ra
hồi ban sơ chỉ có ba người. Ba người ấy
thiên-hạ kêu là ba người lỳ; ba người ấy là: Đức Cao Thượng-Phẩm, Đức Quyền Giáo-Tông và Bần-Đạo
đây (Hộ-Pháp)
“Chúng tôi nhứt tâm, nhứt trí quyết làm cho thành Đạo, cho
vừa lòng Đức Chí-Tôn. Bởi
vì không biết duyên cớ nào chúng tôi hiểu rằng: chúng tôi phải báo hiếu cho Đức
Chí-Tôn và tự nhiên quyền-năng thiêng-liêng giúp chúng tôi biết ĐẠO CAO-ĐÀI này
tương-lai sẽ cứu quốc, cứu chủng-tộc và giống-nòi.”
“Đức
Cao Thượng-Phẩm là chơn-linh Hớn-Chung Ly: một vị Đại-Tiên trong Bát Tiên, làm
sứ-mạng của Chí Tôn đến tạo dựng nên Tôn giáo tại thế này. Người cùng với Hộ Pháp họp thành cặp cơ phong Thánh lập Pháp Chánh
truyền và Tân-luật để làm Hiến-chương cho nền Quốc Đạo.
“Chúng
ta phải nhìn-nhận đầu công khai Đạo của Đức Cao Thượng-Phẩm, vì nếu thiếu
bàn tay xây dựng của Người để chấp cơ cùng
Hộ Pháp thì:
- Đâu có Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
- Đâu có Chức-sắc Thiên-phong Nam Nữ.
- Đâu có Hội-Thánh và
các cơ-quan trong Đạo.
- Đâu có
Pháp-Chánh-Truyền và Tân-luật.
- Đâu có đại-nghiệp hiện
giờ cho nhơn-sanh thừa hưởng.”
Ấy là hai Chức-sắc
Đại-Thiên-phong nơi cửa Hiệp
Thiên-Đài trong cơ kiến-tạo nền
Đại-ĐạoTam-Kỳ Phổ Độ:
- Một là Đức Hộ-Pháp, đầy lòng hiếu đạo cùng
Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu.
- Hai là Đức Thượng-Phẩm đầy-đủ đức
kiên-nhẫn với một đức-tin tuyệt-đối.
- Công-quả phi-thường là Đức
Quyền Giáo Tông:
“Trong 24 giờ, một người đã là Thượng Nghị-viện, một cái gia-nghiệp
đủ vinh-hiển, đủ cao-trọng, đủ đương đầu với thiên-hạ.
“Trong 24 giờ bỏ hết, liệng hết mà thôi. Cho tới một
cái lạ hơn hết là đương hút á-phiện, người phong-lưu như ai kia vậy bỏ một cái một, cả sự ăn chơi cũng thế.
“Đức
Chí-Tôn kỳ hạn có 24 giờ mà thôi:
-
24 giờ Anh Cả chúng ta phải trường trai.
-
24 giờ Anh Cả phải dâng cả sự-nghiệp cho thiên hạ.
-
24 giờ Anh Cả chúng ta phải từ bỏ chức Thượng Nghị-viện, dâng mảnh thân phàm
cho Đức Chí-Tôn làm ngọn cờ cứu-khổ.
“Một
người, Bần-Đạo thấy ban sơ có một người là
Thượng-Phẩm, rồi sau lại có người này nữa: Đức Quyền Giáo-Tông
Thượng-Trung-Nhựt.
..
Cái ngôi của Ngài tạo dựng, cái ngôi GIÁO TÔNG
ĐƯỜNG của Ngài đã ngồi trên ấy,
đầu tiên hết, cái ngôi ấy nó sẽ để nơi đất Việt-Nam này một cái báu
vật quí giá vô cùng, từ thử tới giờ chưa hề có.
“Bần-Đạo
ngó qua Vatican, cái Ngai của Đức Giáo Hoàng Saint Pière thế nào, thì Bần-Đạo
có lẽ nói rằng và cũng có thể mơ-ước: cái ngôi của Thượng-Trung-Nhựt lưu lại
nơi thế này nó sẽ trở nên thế ấy.”
Xem
thế, thì người tu lập công bằng con đường Cửu Phẩm Thần Tiên theo gương của Đức Quyền Giáo-Tông cũng đoạt được ba
hào Dương của quẻ Càn, tức là đắc Đạo
vậy (đó, chiết Khảm điền Ly
phản vị Càn là thế !).
Như thế, Đức Chí-Tôn đã mở con đường phụng-sự cho Vạn-linh để hiệp
Nhứt linh vậy.
III - Thời- kỳ định-vị:
Nếu lập công bằng con đường
Phước-Thiện (là cơ quan của Hiệp-Thiên-Đài) thì hãy xem gương của Ngài
Khai-Pháp Trần-Duy-Nghĩa.
Đức
Hộ-Pháp giải-thích rằng: “Từ thử tới giờ nếu nói về kẻ đảm-nhiệm gánh
vác Hiệp-Thiên-Đài thì Bần Đạo quả-quyết cho Ba người thôi:
- Ban sơ có Cao Thượng Phẩm,
- Sau có KHAI PHÁP và
- Bần-Đạo thôi”.
Ngài Khai-Pháp Chơn-Quân tuổi Tý
(1888) là người có tuổi đứng đầu trong Thập Nhị Địa Chi, mà cũng đứng đầu của
Thập-Nhị Thời-Quân, tức là con số 1, cũng biểu tượng bằng hào Dương, nếu đặt
vào giữa quẻ Ly (Hiệp Thiên-Đài) sẽ biến ra quẻ CÀN như dưới đây:
Cơ định vị cũng đúng vào quẻ
CÀN.
Ba vị trên chính là
Chức-sắc Hiệp-Thiên Đài đó. Ngài Khai-Pháp là người đã thừa lịnh Đức Hộ-Pháp
đến nhà Tịnh nơi Trí-Giác-Cung - Địa-Linh-Động là nhà tịnh của Hiệp-Thiên-Đài Khai
PHÁP cho cơ Đạo nhằm lúc khởi
công kiến-tạo vào năm
Mậu-Tý (1948).
Người
có được tấm lòng trung với Đạo và hiếu
nghĩa với Thầy là Hộ-Pháp, trong
lúc bị đày nơi Hải-Đảo Madagascar (Phi-châu), Ngài hết lòng lo-lắng và săn-sóc
cho Đức Hộ-Pháp trọn nghĩa Thầy trò, dù cảnh tù đày mà tình-cảm vẫn khắn-khít.
Người đứng đầu bên Cơ-quan Phước Thiện cũng đủ cho nhơn-sanh cùng nhau “đi
tìm PHÁP”, là hãy hết lòng phụng-sự cho Vạn-linh bằng con đường hành
thiện cũng đạt Đạo vậy.
Đức Hộ-Pháp xác nhận:
“Chính mình Hộ Pháp là người cầm đầu trong Hiệp Thiên-Đài, trách-nhiệm
đó nặng-nề làm sao đâu! Khi ấy chỉ có ba
người Hiệp Thiên-Đài lãnh phận-sự Thầy”.
Đức
Chí-Tôn nói:
“Thầy muốn nơi nào có dấu chơn của
ba con đến thì nơi ấy hết khổ ”. Bởi: “Cái khổ ách
của nhơn-loại là cùng khắp thế gian, nên Thánh-ý Thầy muốn giao cơ cứu khổ cho
con phải làm thế nào nên ngọn cờ cứu-khổ, để giải khổ cho nhơn-sanh cùng khắp
mặt địa-cầu này”.
(Ngày:
17-4 Ất-Mùi 1955)
Nhìn
chung thì lập công bằng con đường Cửu Thiên Khai-Hóa như Đức Quyền Giáo-Tông
hay bằng con đường Thập-Nhị đẳng cấp Thiêng liêng, là cơ-quan cứu khổ của
Phước-Thiện cũng được hiệp nhứt với Trời, tức là hội hiệp cùng Đức Chí-Tôn bởi
hình ảnh các Ngài là đã tượng-trưng cho sự HIỆP TAM BỬU tức nhiên hiệp TINH -
KHÍ - THẦN đó vậy!
Do đâu mà các Ngài được sự
lựa chọn như vậy?
-
Đó là những bậc lương-sanh mà Đức Chí Tôn đã chọn và cho xuống trước để đến ngày giờ này Ngài đến
qui lại mà lo
cứu vớt quần-sanh. Đó là bậc nguyên-nhân.
“Những vai tuồng của Chí-Tôn sắp đặt trên sân khấu Đạo, nếu
so-sánh lại cũng chẳng khác chi những bậc nguyên-nhân lãnh phận-sự dìu đời từ
xưa đến giờ mà thôi. Nguyên-nhân là các
nguyên-linh Đức Chí-Tôn cho xuống trần để dìu dắt hóa-nhân đi lên đường tấn-hoá
và cũng để học-hỏi về cơ tấn-hóa. Cũng có phần nguyên nhân đến đặng
mở cơ giáo-hóa song không có trong số một trăm ức nguyên-nhân của
Chí-Tôn đã cho xuống thế từ buổi Thượng-nguơn”.
Tóm
lại: Đạo Cao-Đài thành hình do ba
người: nhưng phải trải qua ba giai-đoạn như đã nói trên:
IV- Lý Dịch trong ba thời-kỳ:
Nếu nhìn vào phần tổng-kết trên thì thấy có ba giai-đoạn
chuyển-biến mà thành hình, lẽ ra đó là con số 9 (3x3=9), gọi là “Tam luân Cửu
chuyển” nhưng thật sự là con số 12. Vì thời khởi thủy có đến hai
cơ-quan:Hiệp thiên
Đài và
Cửu-Trùng-Đài, đó là Âm Dương tương hiệp. Tức nhiên con đường Thập
Nhị Khai Thiên Đức Chí-Tôn đã mở ra cho nhơn-loại tu để về đến ngôi Trời, nên “số
12 là số riêng của Thầy”.
Số 12 là số đặc-biệt, tức là (9+3=12). Số 9 là cơ vận-chuyển, 3 là ba
ngôi. Lấy ba ngôi hiệp vào cơ vận chuyển tức là cơ Qui nhứt, nắm cả
các pháp trong tay; mà Người nắm pháp ấy là
Chủ-tể Càn Khôn vũ-trụ.
Nên Thầy có nói số 12 là số riêng của Thầy là vậy.
Nếu
cộng lại theo hàng ngang thì (1+2=3) tức là 3 ngôi đầu tiên (Phật- Pháp- Tăng)
hay là Thiên- Địa- Nhân và cũng là TINH- KHÍ- THẦN hiệp nhứt.
Nếu
tính theo vị-trí, thì 1 rồi đến 2 tức là lý Thái Cực (số 1) đứng trước luật Âm
Dương (số 2) thì thấy rõ quyền năng Chưởng-Quản trong đó.
Vì thế nên THẦY nói “Chi chi cũng có luật định, không
một vật chi ngoài quyền sở-định của Tạo-hóa hết”. Nhưng
luật công-bình có hai phần: một Âm, một Dương biến động, dù ngay trong
luật-định cũng có. Ở đâu cũng có cái lý mâu thuẫn trong
đó, hễ có mâu-thuẫn tương-quan là có biến sanh. Hết vòng biến-đổi
mới trở về trạng-thái đầu tiên là 1, rồi từ 1 mới trở lại trạng-thái Hư vô (là
0), cho nên người tu “Đắc nhứt qui cơ” là thành Đạo, là hiệp cùng lý Thái-Cực
để trở lại trạng-thái tĩnh lặng nhiệm mầu.
“Trong lý Hư-vô phát sanh một Thái-cực. Thái-cực biến-hóa ba ngôi, mỗi ngôi lại biến hóa nữa thành ra Cửu
chuyển.
Như
trên đã rõ 3 ngôi của THIÊN là Trời:
· Đức
Thượng-Đế tá danh là Thiên: AĂÂ (THẦN)
· Ba
vị Tiên nơi Diêu-Trì-Cung là
ĐỊA (KHÍ)
· Ba
vị Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài là NHƠN (TINH)
Nhất
là ba vị: Thượng-Phẩm, Giáo-Tông, Hộ-Pháp thuộc cơ kiến-tạo,
phát-triển nên vai-trò rất quan-trọng mà cửa Đạo Cao-Đài đòi hỏi người tu phải
đủ Tam-lập là: lập Đức, lập Công, lập Ngôn. Hơn nữa các Ngài là Thiên-Soái Mạng
của Đức Chí-Tôn đã chọn lựa trước, tức nhiên “Ngài dùng lương-sanh để cứu vớt
quần-sanh” trong buổi Tam Kỳ Phổ-Độ vậy.
Đức
Hộ-Pháp kết-luận:
“Bần-Đạo
nhấn mạnh một điều: ĐẠO CAO-ĐÀI này vốn là một Tôn-giáo để cứu-khổ cho
nhơn-loại, Đạo Cao-Đài cốt-yếu không phải làm chủ thiên-hạ, mà cốt-yếu làm
tôi-đòi tạo hạnh-phúc cho thiên-hạ, tạo cái hạnh-phúc chơn thật.
“Hôm
nay, Ngài Khai-Pháp hưởng đặng nơi cõi thiêng-liêng hằng sống mà Ngài đã hiểu
thấu chơn-lý ấy là thực-sự nên Bần-Đạo cùng Ngài, Đức
Thượng-Phẩm và Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt đã
có công lao chung chịu khổ-hạnh cùng nhau, nhứt tâm nhứt đức quyết gồng-gánh
một nền Tôn giáo của Đức Chí-Tôn và bảo-vệ, nâng-đỡ, thiệt hiện
hình tướng cho cơ-quan cứu khổ.. Bần-Đạo lấy làm
hân-hạnh, phúc hậu, vui hứng thấy Ngài đã đoạt Đạo, Đức Khai Pháp
Chơn-quân đã đoạt Đạo tại thế đó vậy. Bần-Đạo làm chứng
cho cả thảy con cái Đức Chí-Tôn điều ấy.”
Vậy,
chỉ có 4 hào Dương, tượng trưng 4 nhân vật:
1 - Hộ-Pháp 2- Khai-Pháp. 3-Đức Thượng-Phẩm,
4 - Đức
Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt.
Đây là cơ THIÊN, hiệp đủ Tam-Tài rồi vậy. Bốn hào Dương này chính là bốn đức của Trời là Nguyên,
Hanh, Lợi, Trinh; nơi người là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí,
Chính các Ngài cũng phải lập Đức, lập Công, lập Ngôn để hoàn thành
Tam lập trong con đường hành thiện.
Mỗi một giai-đoạn có ba người như vậy là thể hiện sự tròn đầy viên
mãn. Nhưng thực-tế phải kể đến 5 người, để làm nên Ngũ Hành
biến-hóa:
Nhìn vào hình vẽ, thấy đủ ba giai-đoạn. Vậy:
1 -
Cơ khởi thủy: Thượng-Phẩm, Thượng Sanh,
Hộ-Pháp (ở chính giữa) Cơ-quan
Hiệp-Thiên-Đài.
2 -
Cơ kiến-thiết: Thượng-Phẩm, Giáo
Tông, Hộ Pháp, (bên trái)
3 -
Cơ định-vị: Thượng-Phẩm, Khai-Pháp,
Hộ Pháp (phải).
Như
vậy mỗi người là một Thái-Cực, tượng trưng tâm-điểm của vòng tròn hay là tâm
của vũ trụ. Năm điểm họp lại thành một vòng tròn lớn đó là lý Ngũ-Hành thuộc
Thổ, trong Càn Khôn vũ-trụ gồm có Tam tài và nhị khí Âm Dương. Mà 3 cũng là
một, bởi hình ảnh của tam-giác: Một cũng là 3; thêm nhị khí
Âm Dương, cọng lại thành 5.
Hơn
nữa từ xưa tới giờ số 3 và 5 đã đóng một vai trò
quan-trọng. Trong Tam
giáo đã định rõ:
- Tiên-giáo: Đức
Thái-Thượng dạy Tam Bửu, Ngũ Hành, tu tâm luyện tánh, thủ
cảm-ứng
công-bình.
- Phật-giáo: Đức Thích-Ca
dạy Tam qui Ngũ giới, Minh tâm kiến tánh,
thật-hành bác-ái, từ-bi.
-
Nho-giáo: Đức Khổng-Thánh dạy Tam cang Ngũ thường, tồn tâm dưỡng tánh,
giữ tròn hai chữ TRUNG, NGHĨA (tên của
các ông: Lê văn Trung và Khai Pháp Trần Duy Nghĩa)
mà làm tiêu-biểu cho mọi hành-vi.
Nay, Tam-Kỳ
Phổ-Độ, Đức Chí-Tôn đến khai Đạo cứu đời dùng Nho-Tông chuyển thế:
- Lập
Tam bửu ngũ nguyện, là tinh-thần
Hiến-dâng và Phụng-sự, tức là thể hiện hai chữ Nhân-Nghĩa 仁 義
-
Thực-hành Tam qui Ngũ giới là phục lại tinh
thần đạo-đức, dựng lại mỹ tục thuần-phong, phát-huy tinh-thần văn-hóa 4.000 năm
huy-hoàng, rực-rỡ; do đó Thầy đã sắp sẵn: Nghĩa, Lý, Tượng, Pháp, Nho, Y, Lý,
Số đều nhất quán, từ ngoại dung đến nội-dung. Từ
Thể-Pháp hiện hình Bí Pháp. Nay Đạo Cao-Đài đủ cả
các yếu-lý ấy để xứng danh là một nền Đại-Đạo lãnh-đạo tinh-thần của Thế giới.
Như
vậy Tu theo Đạo Cao-Đài là :
- Tu-hành
giữ Tam qui ngũ giới.
- Tôn-chỉ
Đạo Cao-Đài là qui Tam giáo hiệp Ngũ chi.
-
Thường ngày giữ Tam cang Ngũ thường.
-
Tứ thời nhựt tụng là Hiến Tam-bửu Ngũ nguyện
Tất
cả cũng không ngoài con số TAM và số NGŨ. Bởi hai con số này nó có một tính
cách rất quan trọng. Lý do dễ nhận thấy là tổng hợp hai số lại (3+5=8). Đó là hình ảnh của Bát Quái.
V - BẢY PHẨM CẤP KHÔNG ĐỔI
(Số 7= 3+3+1)
Đức Lý
có dạy
rằng:
Đại
hỉ! Đại hỉ! Cười…Lão cũng nên cắt nghĩa phẩm vị của Chư Hiền-Hữu: Tỷ
như ngôi của Thượng Đầu-sư, Ngọc Đầu sư, Thái Đầu-sư,
Hộ-Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh hay là Giáo-Tông
của Lão đi nữa, dầu ngày sau có nhượng cho ai, thì họ ngồi địa vị của
mình, chớ chẳng hề ở thế này có hai Thái-Bạch, hai Thượng-Trung-Nhựt, hai
Ngọc-Lịch Nguyệt, hai Thái Nương Tinh, hai Hộ-Pháp, hai Thượng Phẩm, hai Thượng
Sanh bao giờ. Hiểu à!?" (TNII/49:
19 3 Mậu-Thìn 1928)
Có thể vẽ thành hình như dưới đây:
Tất
cả có 7 vị ứng với 7 vòng tròn tức là 7 Thái cực, tạo thành hai tam giác đều
đặt nghịch chiều nhau. Tam giác đỉnh quay lên thuộc về Đạo tức
là ba vị Hiệp-Thiên Đài mà Hộ-Pháp đặt vào đỉnh cao, đây là hình ảnh quẻ Càn,
Càn vi Thiên.
Tam
giác có đỉnh quay về phía dưới thuộc về Đời trong Đạo, tức
là cơ quan Cửu Trùng Đài ứng với quẻ Khôn vi Địa, mà ba vị Đầu-sư có mang Tam
bửu của Trời là Nhựt - Nguyệt - Tinh.
Theo như lời dạy của Đức Lý Giáo-Tông là Giáo Tông vô
vi, thì trong cửa Đạo có hai Đài
hữu hình là:
*Cửu-Trùng-Đài
có ba phẩm Đầu-sư là ĐỜI, là:
Không
bao giờ thay đổi, nhưng chỉ đối với Thượng Trung Nhựt, Ngọc-Lịch Nguyệt, Thái
Nương Tinh mà thôi, bởi ba vị này mang chữ Nhựt- Nguyệt- Tinh là
Tam bửu của Trời. Đó cũng là hạnh phúc cho bên Cửu-Trùng Đài, như lúc nào cũng
có ánh sáng của mặt trời, mặt trăng và các vì sao trên trời chiếu xuống.
Như
vậy Cửu Trùng đài là quẻ Khảm ☵ bởi chữ:
- TINH
có hai vị là Thái-Minh Tinh bị Đức Lý cách chức,
sau mới phong
cho ông Thái Nương Tinh, tức là chữ Thái
là đứng đầu có
hai vị (số 2 thuộc Âm, tượng nét đứt)
- NHỰT
là mặt trời là Dương (tượng nét liền)
-
NGUYỆT là mặt trăng là Âm (tượng nét đứt)
- Theo
thứ tự thì Thái (phái Phật) đứng trước.
-
Thượng (phái Tiên), đứng giữa là sự trung chính
- Ngọc
là (phái Thánh), sau cùng.
* Hiệp-Thiên-Đài thì cũng có ba vị thuộc về ĐẠO:
-
Cao-Quỳnh-Cư, sau đắc phong là THƯỢNG-PHẨM, tuổi Mậu-Tý (1888)
-
Cao-Hoài-Sang, sau đắc phong là THƯỢNG-SANH, tuổi Tân
Sửu (1901)
-Phạm-Công-Tắc,
sau đắc phong là HỘ-PHÁP,
tuổi
Canh-Dần (1890)
Bởi ba vị này là ba vị Đệ-tử đầu tiên được Đức Chí Tôn chọn
lựa cho xuống trước để đúng ngày giờ Ngài mới qui tụ lại mà dùng Lương
sanh để cứu vớt quần sanh.
Như vậy Hiệp-Thiên Đài là quẻ LY:
Như vậy Hiệp-Thiên Đài là quẻ LY:
Ba vị là Tam đầu chế Hiệp-Thiên Đài có tuổi lần lượt là Tý-
Sửu - Dần, tức nhiên là “Thiên khai ư Tý, Địa tịch ư Sửu, Nhơn sanh ư
Dần".
Kết
luận:
VI - Vì Sao Đạo thành hình chỉ có ba người?
“Bởi
cái thiệt tướng của nền chơn-giáo Đức Chí Tôn đã hiện tượng do quyền-năng vô
đối của Ngài mà đoạt được, mà trong đó các vị thừa hành mạng lịnh của Ngài đã
vẽ nên hình nắn nên tướng của nó.”
Hiện
nay các bậc tu-hành tốn không biết bao công
trình tìm PHÁP
để tu tắt, hòng mong cho mau đắc Đạo.
Nơi cửa Đạo Cao-Đài này Chí-Tôn đã khai Pháp cả rồi qua hình
ảnh Khai-Pháp Trần Duy-Nghĩa đó. Đức Hộ Pháp
Phạm-Công-Tắc là người nắm Pháp Thiên-điều, thì PHẠM chính là cửa Phật.
Như vậy, người tu muốn đến nhanh trong cửa Phật thì hãy bấm “công-tắc” như một
nút điện vậy, còn con đường để đi đến nơi là con đường TRUNG, NGHĨA
(Lê-văn-Trung và Trần Duy-Nghĩa). Năm nguơn linh
cao-trọng ứng vào Ngũ-Hành đó vậy.
Thầy
dạy:
“Trong
Thánh-ngôn đề trái địa-cầu là 68, mà nếu cả Cửu-Phẩm Thần Tiên mỗi kiếp sanh đi
có một phẩm, thì cả triệu năm cũng chưa đoạt đến địa-vị đặng.”
Đức
Chí-Tôn dạy tiếp:
Các
con, trong một kiếp sanh đã đoạt Pháp là vì các con đi con đường tắt,
đó là Bí-pháp chơn-truyền của Đạo.
Số 3
cho thấy rõ giá-trị cái lý nhiệm-mầu ấy, tức là Tam Âm tam Dương.
Còn lại Lý Giáo Tông đứng vào tâm của vũ trụ, hoàn thành con số 7 (tức nhiên:
3+3+1).
Người ta quyết đoán rằng không có một thể lục giác nào mà
không có số thứ 7 làm trung tâm điểm. Số 7 có đủ tính chất như số 1 đầu,
tức là số của các số. Vì số 1 không gì có thể tạo
ra nó, thì số 7 cũng không có một số nào ở trong thập tuần có thể sanh ra nó.
VII - Số 3 là tượng-trưng cho cơ HÒA
Pháp-Chánh-Truyền
nhắc-nhở:
“Thể
Đạo của Chí-Tôn cũng phải nương theo chữ HOÀ
mới toan thành lập. Chí-Tôn định thành Hội Thánh đặng thay thế hình ảnh của
Người, thì cũng tùng theo phép tạo-hóa
cá-nhân mà gầy nên ảnh-tượng:
* Cửu-Trùng-Đài là thi-hài, ấy là TINH
*
Hiệp-Thiên-Đài là Chơn-thần, ấy là KHÍ
*
Bát-Quái-Đài là Linh-hồn, ấy là THẦN.
“Nếu cả ba mà không tương hiệp, thì
khó mong thành Đạo cho đặng.
“Nếu có một quyền-hành nào tại thế này mà làm cho thân-thể Chí-Tôn
phải chia phui manh mún ra đặng thì là Đạo ta là giả Đạo, tất nó phải bị
tiêu-diệt trong một lúc ngắn ngủi chi đây. Còn như quả là Chí-Tôn
vì thương yêu con cái của Người, chính mình đến lập Đạo đăng giải thoát cho
chúng sanh, thì những mưu-chước của Tà-quyền ngăn cản bước Đạo của Thầy
khó mong nghịch mạng với Chí-Tôn, ắt là không mong bền vững.
VIII- Tòa-Thánh có ba Đài tượng Tam Bửu:
“Trong
nền Đại-Đạo có ba Đài, có ba người làm Chủ:
-
Bát-Quái-Đài dưới quyền Đức Chí-Tôn,
Ngài là Chúa của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật
cùng Vạn linh, ông chủ Bát-Quái Đài là Đức Chí-Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.
-
Cửu Trùng Đài là dưới quyền Giáo-Tông
làm chủ, giáo hoá nhơn sanh
-Hiệp-Thiên-Đài là Hộ-Pháp làm chủ, bảo tồn chơn pháp
Trong
ba Ông chủ ấy thì chỉ có hai ông này là Cửu Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài nếu
đứng riêng ra không thế gì dâng sớ cho Bát-Quái-Đài, tức nhiên:
- Quyền Chí-Tôn nơi Bát-Quái-Đài.
-
Hai Đài Cửu-Trùng và Hiệp-Thiên hiệp nhứt là Quyền Chí-Tôn tại thế, không có
một quyền nào cai quản cải qua quyền Bát-Quái-Đài được” (ĐHP: 18-8 Kỷ Sửu)
Thầy
dạy:“Toà-Thánh day mặt ngay hướng Tây, tức là chánh cung
Đoài, ấy là Cung Đạo, còn bên tay trái Thầy là cung CÀN, bên
tay mặt Thầy là cung KHÔN, đáng lẽ phải để bảy cái Ngai
của phái Nam bên tay trái Thầy tức cung Càn mới phải, song chúng nó vì thể Nhơn
Đạo cho đủ Ngũ Chi cho nên Thầy buộc phải để vào CUNG ĐẠO là CUNG ĐOÀI cho đủ số.
“Ấy vậy, cái Ngai của Đầu-Sư Nữ-phái phải để vào bên cung Khôn, tức
là bên tay mặt Thầy.
Đối
với nền Đại-Đạo đã thể hiện rõ lý Âm Dương nên lúc nào
cũng có hai phần vô-vi và hữu hình tương-đắc cùng nhau, như:
- Đức Lý-Thái-Bạch cầm quyền Giáo-Tông vô-vi “gìn-giữ
Thánh-chất dung-hòa nửa Thánh nửa phàm”.
Người
có quyền thay mặt cho Thầy mà dìu dắt con cái của Thầy trong đường Đạo và đường
Đời
“Từ
hồi tạo thiên lập địa tới ngày
nay, trong mỗi thời kỳ khai Đạo không có thời-kỳ nào mà chính mình
Thầy là Chủ-tể Càn-Khôn thế-giới xuống mà lập ra, không có một Tôn-giáo nào
đặng một vị Đại-Tiên là Đức Lý Thái-Bạch lãnh làm Giáo-Tông như ngày nay.
“Tệ-Huynh
đây là lãnh về phần xác thay thế cho Ngài đặng lo làm
các việc hữu-hình tại thế cho Ngài, rồi ở
trong có Người ám-trợ.
Tây
Ninh, 2-2-1927 (âl 1-1-Ðinh Mão): Tết Ð. Mão
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI giáo
đạo Nam phương
Các con, ... Mừng
các con.
Trung, Cư, Tắc, mấy con nhớ đêm
nay năm rồi thế nào? Còn nay thế nào chăng?
Trịnh Thị Ái Nữ, Hiếu, hai con đã
thấy Thầy giữ lời
hứa thế nào chăng?
Thầy lập Ðạo năm rồi ngày nầy thì
Môn đệ của Thầy chỉ có 12 đứa, mà 4 đứa đã rơi vào tay Chúa Quỉ, chỉ còn lại 8. Trong 8 đứa thì lại còn một đôi đứa biếng nhác mà không hành đạo.
Thầy hỏi nếu chẳng phải quyền hành
Thầy, dầu cho một vị Phật thiệt lớn giáng thế đi nữa, cũng chưa có phương chi
độ hơn bốn muôn sanh linh nhờ tay có 6 đứa môn đệ trong một năm cho
đặng bao giờ.
Thầy vui mừng, Thầy khen tặng hết
thảy bốn muôn
Môn đệ của Thầy”.
Thấy
ra, lý Âm Dương không bao giờ mất đi chỗ đứng trong nền Đại Đạo. Thế nên khi Thầy
nói đầu tiên có
12 người, thế “mà 4 đứa
đã rơi vào tay Chúa Quỉ, chỉ còn lại
8. Trong 8 đứa thì lại còn một đôi đứa biếng nhác”. Như vậy, “nhờ
tay có 6 đứa môn đệ”.
Bấy
nhiêu đấy cũng thấy rằng chỉ có 6 Âm, 6 Dương mà làm nên cơ Đạo. Thế nên ngày nay chỉ
thấy có 6 người có mặt thường
xuyên nơi Toà Thánh đó là: Các Ông: Cư, Tắc, Sang, Trung,
Nương, Nguyệt và Đức Lý Giáo Tông mà thôi. Nghiệp Đạo vẫn thành.
Nhưng rồi Thầy vẫn than:
…”Phần đông bực thông
minh, lại đem trí khôn làm món binh khí hại người; kẻ tước trọng lại dùng thế
quyền mà đè ép dân đen ra bạc trắng. Quanh năm chỉ lo xác thân
hưởng điều khoái lạc, vợ ấm con no, được ngày nào vui ngày ấy; cho kiếp chết là
kiếp mất; gọi Thiên đường, Ðịa ngục là câu chuyện hoang-đàng. Bậu bạn lỗi câu
tín nghĩa, vợ chồng quên đạo tào-khương; mảng vụ chữ kim thời
mà phong dời tục đổi. Than ôi! Lượn sóng văn-minh tràn
dập tới đâu thì nền luân-lý ngửa nghiêng tới đó.
Nếu Ðạo Trời không sớm
mở lần ba, nền phong hóa mối cang-thường, sau vì đó mà hư hoại”.
HẾT