Tiểu Sử 28 Vị Tiền Khai Đại-Đạo - Chương II ( Nguyên-Thủy )

Ghi theo thứ tự trong danh sách
1-Bà Lâm Ngọc Thanh
2-Ông Lê văn Trụng  
3-Ông Lê văn Lịch
4-Ông Trần Đạo Quang
5-Ông Nguyễn Ngọc Tương
6-Ông Nguyễn Ngọc Thơ  
7-Ông Lê Bá Trang
8-Ông Vương Quan Kỳ
9-Ông Nguyễn văn Kinh
10-Ông Ngô Tường Vân

11-Ông Nguyễn văn Đạt
12-Ông Ngô văn Kim
13-ông Đoàn văn Bản
14-Ông Lê văn Giảng
15-Ông Huỳnh văn Giỏi
16-Ông Nguyễn văn Tường
17-Ông Cao Quỳnh Cư
18-Ông Phạm Công Tắc

19-Ônng Cao Hoài Sang
20-Ông Nguyễn Trung  Hậu
21-Ông Trương Hữu Đức
22-Ông Huỳnh Trung Tuất
23-Ông Nguyễn văn Chức
24-Ông Lại văn Hành
25-Ông Nguyễn văn Trò
26-Ông Nguyễn văn Hương
27-Ông Võ văn Kinh

28-Ông Phạm văn Tỉ

I – Bà Lâm Ngọc Thanh (1874-1937)
Thánh danh: Nữ Đầu Sư LÂM HƯƠNG-THANH
A - Bà Lâm Ngọc Thanh Nghiệp Chủ Vũng Liêm.


         1 - Phần Đời:
Thế danh là Lâm Ngọc Thanh, sanh năm Giáp Tuất (1874) tại làng Trung Tín, quận Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Thân mẫu Bà là Trần thị Sanh. Không rõ tên ông thân sanh. Bà Lâm Ngọc Thanh là vợ của một người  Pháp
tên Monnier, gọi là Ông Huyện Huỳnh-Ngọc-Xây, nên  Bà
thường được người ta gọi là Bà Huyện Xây, là một nghiệp chủ rất giàu có tại Vũng Liêm. Ông và Bà có một người con gái tên là Huỳnh Thị Hồ.  Ông Huyện Xây qui, Bà tái giá với Ông Huyện Hàm Nguyễn-Ngọc-Thơ, một nghiệp chủ ở Tân-Định Sài-Gòn. Hai Ông Bà đều hâm mộ Phật giáo, nên đều qui y theo Phật, thọ giáo với Hòa Thượng Như Nhãn, trụ trì Chùa Giác Hải ở Phú Lâm, Chợ Lớn.      
Bà Lâm-Ngọc-Thanh rất sùng kính Đức Phật Thích Ca, nên gần bên biệt thự của Bà ở Vũng Liêm có lập một ngôi chùa Phật để gia đình Bà cùng với dân chúng xung quanh và các tá điền của Bà có nơi chiêm bái.        
2 - Thời-kỳ gặp Đạo Cao-Đài:
Bà Lâm Ngọc Thanh là nghiệp chủ ở Vũng-Liêm. vừa giàu về vật chất lại giàu về tinh-thần, đã cống hiến một sự-nghiệp, một tài sản lớn lao cho nghiệp Đạo
           Bà sớm sùng mộ Đạo Phật. Có Đức-Tin trọn vẹn Đầu năm Bính-Dần (1926) Ông Phạm Tấn Đãi ở Rạch kiến, huyện Bến Lức, tỉnh Long-an. Ông thường chấp bút học Đạo được lịnh Đức Chí-Tôn dạy:
 “Đãi, Con hiệp cùng Trung để độ Thơ” (1)
          Ông Phạm-Tấn-Đãi ra Sài-gòn gặp ông Thơ và trao Thánh giáo cho xem. Ông xem xong nói:“Tôi muốn làm sao hai ông cầu-nguyện cho tôi chấp bút được mới linh!”
Chấp bút, thông công với các Đấng Thiêng-liêng được kết quả và xin tìm biết việc nơi quê nhà ở Vũng liêm để độ Bà Lâm-Ngọc-Thanh và xin độ luôn ông Thầy là Hoà Thượng Như Nhãn. Tất cả đều được mãn nguyện.
3 - Thời-kỳ hành Đạo:
Bà Lâm-Ngọc-Thanh được Đức Chí-Tôn độ vào Đạo Cao-Đài. Bà hiến dâng một phần sản nghiệp vĩ đại. Bà in kinh phát không, may cho Đạo phục. Riêng Ông Như Nhãn bằng lòng hiến ngôi Từ Lâm Tự ở Gò Kén Tây Ninh cho Đạo Cao Đài dùng làm Thánh Thất tạm, tổ chức Lễ Khai Đạo. Khi cất ngôi chùa nầy, Ông Bà Thơ đã đóng góp một số tiền lớn, giờ này  tiếp-tục tu bổ và tạo tác thêm
Vào đêm 14 rạng ngày rằm tháng 10 năm Bính-Dần (dl: 18-11-1926) là ngày Đại Lễ Khai Đạo tại Thánh Thất tạm Từ-Lâm-Tự. Bà Lâm-Ngọc-Thanh thọ Thiên Ân Nữ Giáo-Sư,Thánh-danh là Lâm-Hương-Thanh. (TNHT.II./13) 
Trong kỳ Phong Thánh Nữ-phái lần thứ I ngày 14 tháng giêng năm Đinh Mão (dl: 15-2-1927), Đức Chí Tôn thăng phẩm cho Bà lên hàng Nữ Phối Sư, cầm đầu Nữ phái và phong người con gái của Bà, Cô Huỳnh thị Hồ, vào phẩm Nữ Giáo Sư, Thánh danh Huỳnh Hương-Hồ. Ông Bà xuất tiền riêng ra mua thêm một miếng đất rừng nữa, từ ngã ba Ao Hồ vào giáp đất đã mua cất Tòa Thánh để tạo cảnh Cực Lạc Thế giới, gọi là Cực Lạc Cảnh.
Ngày mùng 9-3-Kỷ Tỵ (dl: 16-4-1929) Bà Lâm Hương-Thanh được thăng phẩm Nữ Chánh-Phối-Sư, Chưởng quản Hội-Thánh Nữ phái.    
Năm Đinh Sửu (1937) Đức Hộ Pháp cùng Hội Thánh đi Nam Vang lo Đạo sự, giao cho Bà ở nhà lo ngoại giao với nhà cầm quyền Pháp ở những nơi nào Đạo bị làm khó dễ. Bà đi hầu Tòa, rồi trở về, kế đó lâm trọng bịnh. Bà qui Thiên vào ngày mùng 8 tháng 4 năm Đinh Sửu (dl: 17-5-1937) đúng vào ngày Lễ Thánh đản của Đức Phật Thích Ca, tại quê nhà ở Vũng Liêm, hưởng thọ 64 tuổi. Đức Hộ Pháp lúc đó đang hành đạo ở Nam Vang, được tin điện, cấp tốc trở về để cùng Hội Thánh lo Lễ Đạo táng  cho Bà.       
Một điều huyền diệu là khi Bà Lâm Hương Thanh qui Tiên vẫn giáng cơ cho biết Bà sẽ lo tiếp, Bà nói: Để Bà lo việc đó cho và yêu cầu Hội Thánh cử người đến xin nơi chánh phủ, kỳ sau thì được dễ dàng. Quả đúng y như vậy. Sau khi Bà qui Thiên được 17 ngày, đến ngày 25-4 Đinh Sửu (dl: 3-6-1937), Bà được Đức Chí-Tôn ân tứ lên phẩm Nữ Đầu Sư, vì Bà là người có đại công với Đạo trong buổi sơ khai và là người Chị Cả của Nữ phái, dìu dẫn cả đoàn em Nữ phái. Phẩm này là được Truy thăng.     
Về sau, Hội Thánh đem hài cốt của Bà ở Vũng Liêm về Tòa Thánh, đặt vào Bửu tháp Nữ Đầu Sư, xây ở phía Tây Lang Tòa Thánh và tượng của Bà được tạc ở mặt tiền Đền Thánh, phía bên Nữ phái, trên Lôi Âm Cổ Đài, để nhơn sanh chiêm ngưỡng một bậc Nữ Chức sắc đại công của Đạo.
4- Lời Bà Tự thuật:
a/- Lập Thánh Thất: “Nhắc lại đoạn đầu khi Tôi Nhập môn rồi, khiến lòng Tôi suy-nghĩ cuộc đời không thấy ích gì cho phần linh hồn, nên Tôi không còn luyến tiếc sản nghiệp của Tôi nữa, nếu còn say mê vật-chất hữu hình này thì biết chừng nào mới trở về quê xưa cho được, nên Tôi đem mình quì trước Thiên bàn nguyện rằng: Hiến thân này cho Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ tùng Hội-Thánh Tây-Ninh, ngõ hầu dìu dắt nhơn sanh vào đường đạo-đức. Riêng về Phật-tự, thì khi Tôi chưa gặp Đạo Cao Đài Tôi có lập một kiểng Chùa tại Vũng-Liêm, sau này Tôi hiến cho Đại-Đạo rồi, Tôi hiểu rõ rằng Cao-Đài là Phật giáo chấn hưng đó vậy, nên Tôi sửa Chùa Phật lại làm ngôi Tiểu Thánh-Thất Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đặng tiện cho việc phổ độ kẻ đồng huyện, đồng lân. Nào kẻ gần, người xa trong thôn quê sằng dãnào là Tá điền của Tôi đồng lòng đến Nhập môn, cầu Đạo mỗi ngày đến 15, 20 người. hễ có em nào thiếu thốn gì thì Tôi ủng hộ mỗi người một bộ Đạo-phục và một cuốn Kinh Lễ đặng học thuộc Kinh để Cúng Tứ thời, Tôi dạy thờ, dạy lạy đâu đó đều được xong.
b/- Khai Đàn: Tôi hiệp với Chức sắc và Cô Ngọc Hồ cùng Nguyễn Thị-Hương đi khai đàn Thượng Tượng, rồi Tôi giảng Đạo và đọc Thánh-ngôn cho chư vị mới Nhập môn nghe cho hiểu Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là Chấn hưng Phật Đạo. Bởi vì Tôi biết phần đông thì nhơn sanh còn tín-ngưỡng Đạo Phật, Tôi phải giải nghĩa cho thiện tín nghe rõ rồi họ vô Nhập môn (tôi úp bộ hết tại Vũng Liêm). Đức tin nhơn sanh nơi đây càng ngày càng tăng tiến rất đông, Tôi bèn lập Bàn-trị-sự  phân công cho phái Nữ có phận sự để làm Đạo. Ngày lụn tháng qua đủ công nghiệp, Tôi dạy làm lai lịch dâng lên Hội-thánh xin cầu phong.
c/- Về việc Chùa Gò-kén: Nhờ Thiêng-liêng dùng huyền diệu, trước khi Tôi chưa nhập môn, khiến cho Tôi qui y Phật giáo, Thầy Tôi là ông Hoà-Thượng chùa Giác Hải. Tôi và ông Huyện Thơ cúng một số tiền to để xây dựng chùa Từ-Lâm-Tự. Mỗi năm hai Tôi xuống Chùa Gò-kén thường lắm. Nơi đây là hồi chưa mở Đạo, nhờ cớ ấy được gieo cảm tình Thấy trò nghĩa nặng như phụ tử tình thâm, nên vâng lịnh Đức Chí Tôn họp với Chức sắc Đại Thiên phong Hiệp-Thiên và Cửu-Trùng, Tôi chung lưng đâu cật với Hội-Thánh khai mở Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ tại tỉnh Tây-Ninh, vì thế mà hai Tôi mượn Chùa Gò-kén dễ-dàng. Thầy Tôi thuận cho mượn, thành thử thiêng liêng đã sắp đặt trước nên tôi mới có sẵn một ngôi Từ Lâm-Tự đặng đúng ngày giờ của Chí-Tôn khai Đạo. Vì Chí-Tôn tiền định trước mười ngàn năm
               Thầy có cho thi:     
  Từ đây nòi giống chẳng chia ba.
  Thầy hiệp các con lại một nhà,
  Nam Bắc cùng rồi ra ngoại quốc,
  Chủ quyền chơn Đạo một mình TA
            Nhờ bài thơ của Đức Chí-Tôn trên đây, Tôi chung lo với Anh Cả Thượng Đầu-sư Thượng Trung Nhựt cùng Đức Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh mà đi phổ độ cùng Lục tỉnh. Việc phổ độ miền Hậu-giang lối tháng 9 năm Bính Dần đặng cho kịp ngày 14 tháng 10 năm Bính Dần mở Đạo tại Từ-Lâm-Tự (Gò-kén Tây-Ninh). Ông Huyện Thơ và Tôi xuất tiền nhà ra lên cốt chư Phật, đủ Ngũ Chi, Tam Trấn, Tam giáo tức là Đức Phật Tổ, Đức Lão Tử và Đức Khổng-Tử. Mở Đạo tại chùa Từ-Lâm ba tháng thì ông Hoà Thượng chùa Giác-Hải đòi chùa lại, thì hai Tôi (Huyện Thơ) cho Hội-Thánh mượn số tiền 24.000 đồng (hai mươi bốn ngàn đồng) mua đất đặng dời chùa, thỉnh cốt chư Phật về bên đất mới mua (mua đất của ông Kiểm lâm người Pháp). Bởi vì lúc mới phôi thai Hội Thánh chưa có tiền nên mượn của hai Tôi. Mua đất xong rồi Tôi lên xuống thường, không ở luôn nơi đây được vì lo xã giao với Chánh phủ Pháp đặng để cậy nhờ họ.
            Buổi ban sơ khai Đạo (thời Pháp thuộc) Đạo gặp biết bao cảnh gay-go thống khổ cũng vì việc Đạo Đời chưa tương đắc. Chánh phủ Pháp để dạ nghi nan, hăm doạ đủ điều: nào là bắt Đạo-hữu hăm xẻ nhượng, nào là đóng cửa Thánh-Thất ở miền Hậu-giang. Anh Thượng Đầu-sư cho Tôi hay, khi đó Tôi liền tìm kế gần-gũi với Chánh-phủ xin mở cửa Thánh-Thất. Tôi làm đơn xin ngay với chánh phủ Pháp, Tôi đứng bảo lãnh trách nhiệm, Tôi hứa và Tôi nhìn-nhận Đạo Cao-Đài là chánh tông chấn hưng Phật giáo, Tôi nói trước mặt Chánh phủ Pháp rằng: Tất cả Đạo Cao-Đài là bậc chơn tu, không biết làm sái luật chánh phủ, thật là người tu-hành đạo-đức, cả thảy đều có lòng bác-ái, không sát sanh hại vật, chỉ biết tu, ăn chay làm lành mà thôi, thì chánh phủ Pháp cho mở cửa  Thánh-Thất được yên ổn mà sự cúng kiến cũng được đông đảo tự do. Tôi đã nói chắc-chắn trước mặt chánh phủ như vậy Tôi với Anh Thượng Đầu-sư phải thường đi xuống miền Hậu giang để lời khuyến nhủ chư Đạo-hữu tu hành cho chính-chắn và ăn chay làm lành như Tôi đã hứa trên.
d/- Nhắc việc cất Tổ-Đình:
Khi trả chùa Gò Kén lại cho Hoà-Thượng Như Nhãn rồi, Hội-Thánh dọn về đất mới mua, ngày nay là Thánh Địa. Dời chùa thỉnh cốt Phật cũng là khó-khăn hết mức. Chính phủ cứ theo rình mò, làm khổ sở cho Đức Cao Thượng-Phẩm, vì cớ mà bổn Đạo quá sợ, ít ai dám tụ họp đông. Khách lai rai, có ít người đến Cúng thôi. Cũng vì cớ mà eo-hẹp tài chánh,nên phát một ngôi chùa tạm lợp bằng tranh, đốn cây trong rừng làm cột, tranh thì vô rừng cắt khỏi tốn tiền, cắt dây cổ rùa đem về làm lạt. Tuy là chùa tranh, cây gỗ mặc dầu cũng chịu đựng được mười năm dư. Lúc này Đức Cao Thượng-Phẩm đã qui Tiên,  năm 1929.
Khởi đầu đúc nền Toà-Thánh ngày mùng 1 tháng 11 năm Bính-Tý (1936). Còn Đức Hộ-Pháp thì Ngài xuống
Vũng-Liêm thương lượng với Tôi rằng: Chùa lợp tranh hư dột, mối ăn, cây hư hết, nên Đức Hộ-Pháp tính cất chùa cho chắc, làm bằng xi-măng, sắt cho được vĩnh-viễn (Hoạ đồ Đức Lý đã vẽ sẵn, coi theo hoạ đồ của Đức Lý mà cất).
Việc mua đất Cực-Lạc:
Đất Cực-Lạc, hai Tôi đứng mua đất này, sau Ông Huyện để là Đất Cực-Lạc vô vi cảnh giới (ngày nay thành ra Nghĩa địa). Về việc xã-giao, Đời, họ trọng vật chất hơn nên Tôi tìm phương gần-gũi với thượng khách, nói đạo đức cho đời họ hiểu biết rồi mới độ được.
e/- Nhắc lại hồi Tôi mới gặp Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ nhằm ngày mùng 5 tháng 6 năm Bính-Dần (Mardi 15 Juillet 1926) Thầy giáng Cơ kêu hai Tôi quì trước Thiên bàn, Thầy ban ơn cho hai Tôi, Thầy làm phép Hôn-phối đầu tiên hết (Phò loan có Thượng Phẩm, Hộ-Pháp) Thầy cho 4 câu thi cùng dạy Đạo tại nhà ông Nguyễn-Ngọc-Thơ ở Tân Định  (ngày 5-6 Bính Dần):
             Thầy:
“Thơ, con với vợ con quì ngay giữa, nắm tay nhau
Thiên ân thử nhựt tứ thành hôn,
Mãn thế bất ly thể dữ hồn.
Đạo-đức nhất tâm tu đáo cáo.
Chủ trung thị Ngã chí Thiên Tôn
                                       Dạy con hiểu à!
 (Thủ bút của Ngài Thơ viết ra Hán văn theo lịnh Thầy)
          g/ - Tượng Bà tạc trước mặt tiền Đền Thánh
bên lầu trống, tức là Lôi Âm Cổ Đài. Còn bên lầu chuông thì tạc tượng của Đức Quyền Giáo- Tông  Lê  Văn  Trung đối xứng nhau. Khi Đức Hộ Pháp Trấn Thần vào ngày 6 tháng giêng Đinh-Hợi (dl: 27-1- 1947) đến hai bức tượng này, Ngài giải thích rằng:
     “Nhị vị ngự thường xuyên trước Đền Thánh để tiếp rước nhơn sanh tiến bước vào đường Chánh giáo, năng lo dìu dắt con cái Chí-Tôn mỗi khi vào Cầu nguyện và chiêm bái Đức Chí Tôn”..

5 - Bài thài hiến Lễ cho Bà Lâm Hương-Thanh:
Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh giáng Cơ cho bài
thi để làm Bài Thài tế điện:
Đầy giỏ Hoa Lam chất ái tình, 
Y  theo mặt luật của khuôn linh. 
Thử căn linh thể nơi phàm tục, 
Mới hưởng hồng ân chốn Ngọc đình. 
Nam Hải là bờ ao Thất Bửu, 
Tây Ninh nền tổ quán Tam Thanh. 
Thuyền từ trở lái lìa sông Lệ, 
Nhớ bạn chơn mây gởi tấc thành.

B - Bà Nữ Đầu Sư Hương Thanh giáng Cơ:
Tại Hộ Pháp Đường, đêm 1-1-1946.
Phò loan: Khai Đạo và Sĩ Tải Lợi.
 Chào Trí Thanh, cùng mấy em:
LÂM  tuyền đã ẩn mấy thu sang, 
HƯƠNG  đượm nhuần trăng đã lố màn. 
THANH thủy châu về huờn kiếm báu, 
ĐỀ  danh đến buổi đất nhà an”.
             Khai Đạo bạch:… ..           
- Đây hết buổi phong ba, đến hồi an tịnh. Vậy mà không sao. Mình muốn cho yên, trước phải loạn, sau mới yên được. Muốn nước đang đục lóng trong thì phải quậy trộn cho dữ mới lóng bùn được. Đạo có khảo mới cao. Chức sắc bị khảo mà chịu nỗi mới có giá trị. Học trò chịu khảo thí mới lãnh cấp bằng. Nếu từ chối thì rớt. Thế thường học nhiều đậu ít. Còn nơi đây là Trường Công Quả, vậy vị nào muốn xứng đáng Môn-đệ của Đức Chí Tôn thì chẳng bao giờ ngần ngại các việc công quả, cho chung Thánh-Thể Đức Chí-Tôn, cũng do nơi mấy em đào tạo về mặt ngoại giao. Vậy có câu:
                    Ái nhơn, nhơn hành ái chi,
Bất ái nhơn, nhơn hành bất ái chi.
Kỉnh nhơn, nhơn hành kỉnh chi, 
Bất kỉnh nhơn, nhơn hành bất kỉnh chi.
            Có cảm mới có ứng. Nên hiểu lọc lừa đi cho khéo, đồ cho trúng thời đắc chí sở nguyện. Tâm vững, cầm lèo lái chạy qua bỉ ngạn. Tuy sóng to gió lớn, lượn sóng xuôi sẽ chạy, miễn rằng ngó phía trước thuyền, tránh cho lẹ những đồ vật ngăn cản.      
Sĩ Tải Lợi bạch:…               
- Sợ không quen sóng gió, buồn mửa. Nếu có mửa thì uống nước chanh.  Mình ăn phủ bì chúng nó mà.      
- Em Thái Khý Thanh, nhờ mới để bộ râu, nên vuốt râu thả mồi câu chúng nó. Nó mảng nghĩ nhìn bộ râu, quên cả sự nghiệp, đành chịu phọt-phe. Ước mong sao mấy vị trong đám cầm cờ chỉ nẻo Cửu Trùng đồng phun râu, chúng nó mới kinh hãi. Qua mừng và khen tặng Chú Khách nầy làm gương cho kẻ Việt.
Nam Hải Prasey ấy vẫn gần, 
Hai đàng buổi trước lại đồng thân. 
Nhớ nhau khuyên nhủ đôi lời tặng, 
 Cùng bạn khi xưa lúc ở trần.
O0O

C - Đức Hộ-Pháp Thuyết Đạo nhắc về công nghiệp của Bà Nữ Đầu-Sư Lâm-Hương-Thanh.          
     1 - Lòng tôn sùng Phật của Bà Hương Thanh:
“Đêm nay là Vía Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni mà cũng là ngày Vía Chị Cả của chúng ta là Bà Nữ Đầu Sư Lâm-Hương-Thanh.   
Chẳng biết ngẫu nhiên hay là tiền định mà Bà Nữ Đầu-Sư qui liễu nhằm ngày Vía Đức Phật Thích-Ca. Theo Bần Đạo hiểu biết, tưởng những người ái mộ Đạo Phật nồng nàn hơn hết, chúng ta có thế nói rằng: Bà Nữ Đầu Sư cũng là người đứng đầu sổ của thiên hạ vậy. Trước ngày Đức Chí Tôn mở Đạo, Bà Đầu-Sư duy có biết Đạo Phật mà thôi, chính miệng Bà thuật lại với Bần-Đạo: Từ bé, Bà chỉ để tâm ham mộ Đạo Phật. Không biết có quyền năng lạ-lùng của Đức Chí-Tôn tiền định hay chăng? Mỗi khi niệm câu chú của Phật để tồn tại, thì Đức Chí-Tôn Ngài đứng trong nhà Phật, gọi là Tam thiên Đại Thiên Thế giái. Đức Chí Tôn là Phật vị, nên Bà đã thương lắm, thương một cách nồng nàn. Khi Đức Chí-Tôn mở Đạo Cao Đài, tức nhiên Phật giáo Chấn hưng đó vậy. Chị Nữ Đầu Sư vẫn thương yêu Đức Phật Thích Ca lắm. Tuy vân, Đức Chí-Tôn đến kêu Người phải về cùng Thầy mà sự thật ra tâm Đạo của Chị từ bé tới lớn chỉ theo chơn Đức Phật Thích-Ca mà thôi, nếu xét đoán ra đã biết Đạo thì sự ấy không chi là lạ”.

2 - Bà Lâm Hương Thanh hiểu rõ Triết Lý về Luật Nhân quả của Đức  Phật Thích Ca:
Ngài đã đoạt Đạo đặng rồi, tức nhiên Chị hiểu cái huyền vi bí mật của kiếp sanh con người, Ngài tầm ra căn nguyên bí yếu hơn hết là Luật Nhơn-Quả pháp định (Loi Karmique) Cái Luật Nhơn Quả của Ngài nó trúng trong chơn lý lạ thường, thử ta chối con người không có quả kiếp chi hết cũng như thuyết duy vật đã nói: con người đã sinh ra ở mặt thế nầy là tình cờ mà thôi, sống như vạn vật kia vậy, nếu cái thuyết ấy quả nhiên là chơn lý thì ta thử hỏi vậy chớ duyên cớ nào kẻ sanh ra vừa khỏi lòng Mẹ đã nằm trên đống vàng hay là ngự trên ngai vàng. Còn những kẻ sanh ra đã bị tật nguyền, đui mù, ngu dại, nếu không có định luật thiên nhiên công bình vô đối của Đại Từ Phụ tức nhiên của Đức Chí Tôn thì lẽ bất công ấy chúng ta phải giải nghĩa ra thế nào mà chớ ? Cái triết lý bí yếu ấy, Đức Thích Ca đã tìm đặng tức là Nhơn Quả của ta. “Nhơn”  nghĩa là ta đã có làm điều chi thì “quả”  của nó trả lụng lại. Cái Luật Nhơn Quả ấy nó là căn kiếp sống của ta. Có nhiều kẻ cả đời làm lụng nhọc nhằn vợ con đông đúc, cả mọi điều gì muốn thi thố ra đều thất bại, mà cái thất bại ấy chẳng phải dở, cái miệng thường những kẻ ấy trong cơn đau khổ nói số kiếp của tôi nó thế nào, tội tình gì mà làm cho tôi như thế đó, là kẻ bên Đạo Phật. Các Tôn giáo khác không cần luận, ta thấy họ đã quyết định cái quả kiếp là gì, Phật đã nói: Cái kiếp sống đương nhiên của ta, định số phận của ta đương kiếp sống hiện thời là do căn quả của ta đã tạo kiếp trước, bây giờ cái triết lý ấy biểu ta muốn cho nên kiếp tới thì kiếp nầy ta chẳng nên gây nhơn quả nhiều hay nặng nề, vì cớ cho nên những bổn Đạo cùng những người tín ngưỡng theo triết lý của nhà Phật, khi họ thấy căn kiếp của họ đã nhiều bằng cớ không may, hoặc về tình ái, hoặc về sanh kế, hoặc về công danh, hoặc về nghèo giàu, bất kỳ quả kiếp của con người ta thường nương lấy đó mà sống, làm cho cái khổ của con người đã sanh ra chịu khổ rồi quả kiếp nặng nề ấy lại tăng thêm khổ nữa”.
Khi quá sức chịu của trí não người phải làm sao?   - Hễ khi nào bị khổ não quá chừng thì tìm phương pháp an ủi, bởi cớ cho nên nhà Phật là nhà hay an ủi tâm hồn của những kẻ đau khổ hơn hết đặng tự giác lấy mình,hiểu cái quả kiếp mà mình đã đào tạo, vì tại mình vi chủ tạo thành nó ra, bây giờ tìm phương giải nó đi, tức nhiên tránh kiếp tới, nếu ta đã biết kiếp nầy không may để ta trả nó mà thôi, ta đừng gây thêm quả kiếp nữa.”…

3 - Lòng mộ Đạo Phật của gia đình Bà Lâm Hương Thanh
            Đức Hộ Pháp tiếp:”Ngày Vía của Đức Phật Thích Ca và Bà Nữ Đầu Sư trùng ngày với nhau. Nếu như chúng ta tin về đạo đức, chúng ta nói rằng có thể tin về mê tín, thì Bần-Đạo nói rằng: Không có ai thương yêu Đức Phật Thích-Ca trong kiếp sống của mình hơn là Bà Nữ Đầu-Sư. Trong một đời của Bà, Bần Đạo tưởng thiệt là một người giữ Đạo, Bà chỉ giữ Đạo của Đức Phật Thích-Ca mà thôi. Khi Đức Chí Tôn đến mở Đạo, Bà theo chân của Đức Chí Tôn đã đành, không ai dại khờ gì khi người đã có tâm Đạo mà còn mơ hồ e-lệ sự chọn lựa của mình, nhưng Đức Chí Tôn là khác, mà kính trọng thờ phượng Đức Thích-Ca đối với Bà Nữ Đầu-Sư là khác, huống chi trọn cái gia đình từ Mẹ dĩ chí Bà đều thờ phượng một cách rất tôn-nghiêm, dám chắc phần nhiều không có ai thờ phượng được như cả
gia-tộc của Bà đã thờ phượng Đức Thích-Ca.
Luận tới đây Tôi nghĩ ngày này đáng lẽ nếu nói rằng nước Việt-Nam chủng tộc ta có thể thờ Đức Phật Thích-Ca nhiều hơn hết, nhưng đến Đại Lễ này nếu không tưởng niệm đến Đức Thích-Ca đi nữa là cũng còn đoái đến tình của Bà Nữ Đầu-Sư, mà dòm lại Phái Nữ trong Đại Lễ thấy lơ-thơ, có phải vô tình chăng ? Hay là Đạo của Phật Thích-Ca và công nghiệp của Bà Nữ Đầu-Sư bị có cơn mưa rồi lạnh ngắt, đã lạnh trước rồi bị trận mưa nữa nó lạnh luôn ? Bần-Đạo xin nói thật, Đức Phật Thích Ca, dầu sự trị thế của Ngài đã hết, chúng ta chỉ nói là hết thôi. Hai ngàn năm trăm năm (2.500) lập Đạo trên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống kia, Môn-đệ của Ngài nhiều lắm, các người đừng tưởng Ông già ăn mày ấy không đủ quyền năng mà các người khi dễ. Nội cái Bình Bát-Vu của Ông đựng cả chơn hồn trong Càn Khôn Vũ Trụ, Ông ăn mày tại thế này vậy mà ngôi vị Cực Lạc Thế Giới của Ông các người xin một phẩm Liên Hoa Ông có thể cho; là một người không nên khi dễ, không nên nguội lạnh với người đó, bởi vì Môn đệ của Ngài trên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống nhiều lắm. Bà Nữ Đầu-Sư hồi còn tại thế này cũng vậy, hay về cõi Thiêng-Liêng cũng vậy thương Em lắm, thương phái nữ lắm, Bà binh vực bảo trọng từ khi mới mở Đạo, biết bao phen Đức Lý-Giáo-Tông đã phẫn nộ, chính mình Bần Đạo cũng không thế binh vực được mà còn có thể ghét nữa mà chớ. Duy có một mình Chị binh vực bảo trọng phái nữ còn tồn tại đến ngày nay, bằng không thì bị phế rồi, bị Đức Lý phế rồi đó. Bần-Đạo nói thật mấy chị. Ôi! Không phải kiếp sanh dễ gì ngộ Đạo, Bần-Đạo đã chán biết khó khăn kiếp sống của mình tại thế bao giờ cũng vậy, nó làm cho mình nặng nề khổ não về tinh thần, nhưng chúng ta đem lên mặt cân thiêng liêng, chúng ta lấy trí khôn ngoan để suy đoán cho cùng, chúng ta phải lấy trí khôn ngoan công chánh mà phán đoán, phần nào xác là xác, phần nào hồn là hồn, cái xác thịt nó không phải ở đây cho đến lúc tận thế đa nghe ! Kiếp sống tại thế gian này của mấy người không mấy lát, cao trọng cần yếu hay chăng là phần hồn, đừng sa xuống Địa Ngục, đừng xuống đó là hơn hết. Xuống cửa đó rồi khó giải thoát lắm, khó giải thoát lắm đa nghe ! Còn phần xác thì xác, hồn là hồn, mình lấy cái trí não của mình, lấy cái trung dung của mình làm sao cho Đạo có công chánh, hòa bình, xác cũng vậy, hồn cũng vậy. Chỉnh cầm cân giữ mực thước làm sao cho xác thế nào, thì phần hồn kia cũng vậy, đừng trọng bên này, phụ bên kia, là khôn ngoan hơn hết. Còn một cái trọng yếu hơn nữa là phải nhớ luôn luôn phụng sự Đức Chí-Tôn, công nghiệp ấy không bao giờ mất, bởi Ông già đó chẳng chịu thiếu nợ ai hết, trái lại nếu chúng ta có phương thế lập vị chúng ta rồi mà chúng ta còn dư thừa công nghiệp đối với Ngài. Nhớ lại trong Cửu Huyền Thất Tổ của ta chưa chắc họ đều siêu thoát đặng, để chút của cải ấy đặng độ họ, tội nghiệp biết đâu trong Cửu Huyền Thất Tổ của mỗi đứa ta lại không có người ở dưới Phong Đô, rán tiện tặn chút đỉnh cho có của cải Thiêng Liêng cho họ hưởng mới khỏi uổng kiếp sanh của mình. Đấng đó không biết thiếu nợ ai hết và đã nói chẳng hề khi nào sai lời. Đã ngộ Đạo, đã biết Đạo, đã theo chân Đức Chí-Tôn mà không biết tự mình tìm phương giải thoát, dầu chúng ta không mong mỏi cứu độ Cửu Huyền Thất Tổ đi nữa, cũng mong mỏi tự giải thoát cho mình là trọng yếu hơn hết, biết Đạo mà nguội lạnh tốt hơn hết đừng có ở trong cửa Đạo, tốt hơn đừng ngồi trong cửa Đạo, ngồi nữa thêm tội không ích gì. Thử chúng ta để dấu hỏi chúng ta tu đây trông mong cái gì?
Đừng như kẻ mờ hồ kia mà Đức Chí-Tôn đã để:
Ngồi lì mà đợi Lý Ngưng Vương,
Biểu xuống thuyền Tiên nói chẹt lườn.
Co cẳng muốn vào rồi lại thụt,
Biểu thương sao đặng buộc người thương?

4 - Bà Nữ Đầu Sư Chơn linh Long Nữ.
Long Nữ là ai ?
“Ngày nay là Lễ của Đức Phật Thích Ca và là ngày Lễ của Chị chúng ta, chúng ta nên để tâm cầu nguyện Chơn linh của Ngài và của Bà, tức nhiên là Long Nữ, cả thảy chúng ta đều biết cái bí mật ấy. Thật ra, là người đòi của Phật Quan Âm Bồ Tát đó vậy. Bần Đạo hiểu về cái thuyết bí mật của Đức Quan Âm Bồ Tát lãnh trách nhiệm trọng yếu, vâng lịnh Đức Di Lạc Vương Phật, chưởng quản điều khiển Bát Nhã Thuyền. Vì cớ cho nên Đức Quan Âm Bồ Tát không thể giáng trần được, chính mình Long Nữ là người hầu của Bà, tình nguyện giáng trần đặng hiệp với các Chơn linh, các Cung các Điện và Hộ Pháp, đặng mở nền Chánh giáo của Đức Chí Tôn, hầu tận độ vạn linh đoạt cơ giải thoát. Nguơn linh của Long-Nữ đã theo hầu Đức Quan Âm Bồ-Tát mấy kiếp đã đến trần thì căn Phật của Người vẫn thế”.
5- Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh được thờ nơi Nữ Đầu Sư Đường
“Hồi tưởng lại hai mươi mấy năm trước khi Đức Chí Tôn đến cùng chúng ta, cầm cây Linh bút của Ngài tạo nền Chơn giáo. Ông đến với một thân già nghèo của Ông, chính mình Ông khai rằng: Ông là một Ông già nghèo, Ổng nói “Tròi trọi mình không mới thiệt bần”. Ông đến cho ta một danh thể là lập Hội-Thánh cho con cái của Ổng, nhưng Ông còn cỡi được con Bạch hạc ở trên mây trắng, còn Thánh-Thể của Ông ở ngoài mưa nắng cũng không được nữa, nó khó lắm đó vậy. Tình trạng rất khó khăn, Ổng đến với một thân nghèo để tạo dựng Thánh Thể cho con cái Ổng. Mà ôi thôi! Đám Thánh-Thể của Ổng nó cũng nghèo nữa, nhưng mà cái nghèo đó chúng ta có một năng lực cao thượng vô giá không thể tưởng tượng được. Có lẽ cả thảy đều ngó thấy buổi phôi thai, là khi Đền Thánh mới tạo, con cái của Ngài phải chịu biết bao nhiêu khổ hạnh, ăn thì bữa đói bữa no đặng tạo dựng Đền Thánh, đến bây giờ thành tướng làm cho Vạn quốc ngó thấy, trông vào đều khen ngợi, đó là khối muối của sắp nhỏ trở nên hình đó, do sự nhẫn-nại nhọc nhằn của sắp nhỏ mà nên đại nghiệp ngày nay đó vậy. May thay! Đám con chí hiếu của Ngài trước sao sau vậy, liều mảnh thân phàm nầy làm con tế vật cho Đạo. Cả thảy Hội-Thánh tưởng lại coi tạo dựng một dinh thự Nữ Đầu Sư-Đường như vậy chỉ có 250.000$ (hai trăm năm chục ngàn đồng bạc chẵn) có tay thợ nào dám làm không? Tôi dám chắc không dám. Bởi vì giọt mồ hôi nước mắt của sắp nhỏ nó đổ vô trong này bằng ba lần như vậy, đó chỉ có nhờ thiên hạ cho mớ vật liệu hòa với giọt mồ hôi đám sắp nhỏ mà nên hình tượng đó vậy.
Các Con, các Em để ý coi Ông già đó, Ổng không chịu thiếu nợ ai hết, công nghiệp của mấy Em, Ông trả nơi thế nầy không đặng thì về cửa Thiêng Liêng Hằng Sống Ổng cũng trả cho được Ổng mới nghe. Các con đã ngó thấy, những đứa con hiếu hạnh của Ông giờ phút nầy có biết định phận của nó thế nào đối với Thánh Thể. Mấy đứa trong Quân Đội bây giờ là ai ? Là đám công thợ buổi trước tạo dựng nghiệp Đạo rồi nó còn hy sinh xương máu bảo vệ đại nghiệp cho con cái của Ngài nữa, đương đầu với những trở lực oai quyền, hiện giờ nó nuôi lại Em nó, chia từ miếng cơm manh áo cho mặc. Cả đại nghiệp nầy là nhờ đám con chí hiếu của Ngài tạo dựng nên, chớ Tôi không làm gì được hết, chỉ có là đốc thúc vô cho chúng nó làm chớ thân nầy ôm viên gạch cũng không nỗi. Bần-Đạo chỉ mong có một điều là toàn thể con cái của Ngài Nam Nữ mỗi ngày đều tưởng tượng đến công khó nhọc Anh Em nó, khó nhọc của đồng bào toàn thể nước nhà, nòi giống đã tạo dựng nên nghiệp ấy, lấy cả sự nghiệp nầy làm môi giới, giữ đạo đức làm bùa hằng tâm, thương yêu với nhau, giữ nghĩa với nhau cho đến bảy trăm ngàn năm (Thất ức niên) theo lời của Đức Chí-Tôn đã định, dầu Bần-Đạo còn ở đây hay về cõi Hư-Linh. Cung ấy an lạc đi nữa, cũng nhớ đến đại nghiệp con cái của Ngài và Bần-Đạo dám đại ngôn với Ngài rằng: Con cái của Ngài giữ tâm chí hiếu với Ngài và đối với Phật Mẫu cũng vậy”.

6 - Công lao và tài sản của Bà Lâm Hương Thanh
Nhắc lại hai mươi mấy năm trước, hai mươi sáu năm chúng ta hội hiệp với nhau thế nào, ngày hôm nay kẻ còn người mất, dầu ai có gan sắt đá cũng phải não nề. Luật thiên nhiên định vậy, duy có một điều hạnh phúc cho kiếp sống của chúng ta chỉ về Thiêng liêng thấy cả toàn thể em út đã nối chí đặng giữ nghiệp Đạo, nếu có hưởng đặng mảy may hạnh phúc chăng chỉ có bao nhiêu đấy thôi.
            Ôi! Biết bao nhiêu khổ não, truân chuyên thương Em, mà điều chẳng qua liễu Đạo của Chị, cái chết của Chị
trong đầu óc Em biết sao mà nói, tưởng tượng quả quyết rằng vì Chị bị cường quyền khảo quá thế, một người đa tình đa cảm như Chị chúng đã khảo duợt với một phương pháp ấy không thế nào sống đặng. Đương khi bịnhchúng dắt đi hầu Tòa, dẫn ra dẫn vô đến nỗi khi trong Tòa ra rồi Chị nói rằng: Không có chết giấc tại đó mà thôi, về tới nhà bịnh làm cho tới chết, mà chết phải chăng cái việc nghi ngờ của Em không phải là mờ hồ, thì Em dám lộng ngôn nói rằng Chị đã tử vì Đạo là không quá lời!. Em đã làm Hộ-Pháp chỉ ân hận một điều: Chị giàu sang tưởng nơi mặt thế này, người nào có thể nói với thiên hạ rằng: trong kiếp sanh tôi giàu sang, nào ruộng đất, lầu đài ngọc ngà châu báu, không có món gì mà Chị không có, chỉ tiếc một điều là của cải ấy không để nơi nào nó phải để. Nếu giờ phút này Bần-Đạo nói: Người Chị của ta có ân hận chăng là chỉ có bao nhiêu đó mà thôi !.
Bần-Đạo nhớ lại khi khởi cất Đền-Thánh thì đã ba phen thâu của tín-đồ, thâu của nhơn sanh, đặng cất Tòa Thánh cất không nỗi. Tới ngày khởi cất, ngày Bần-Đạo nhất định cất, có 13 ngàn đồng buổi đó không phải dễ, mở trong tủ ra chỉ còn 1$46 (một đồng bốn cắc sáu). Cất Toà Thánh trong lúc thời thế nguy ngập, người ta bất-tín nhiệm chạy tiền không ra, không biết làm thế nào khởi đương ra cho mạnh mẽ đặng thâu tín nhiệm thiên hạ lại. Túng tiền, Bần-Đạo phải đến tại Vũng-Liêm, tưởng đâu Chị có dư-dả mới đến, con người như thế này không đến nước túng thiếu quá lẽ. Xuống tới dưới, tới chừng khi hỏi Chị đặng mượn số tiền về khởi công cất Tòa Thánh, Chị dắt đi xuống chỉ mấy kho lúa đầy nhóc hết, mà lúa 0$20 (hai cắc) một giạ, hồi đời đương khuẩn bách từ Á tới Âu. No thì no triệu, bán lúa nếu có thể với giá bây giờ dầu 10 triệu trả cũng được. Một giạ có 0$20 tiền Chị đó Em !.
Ôi ! Lúa có 0$20 có chết được không, Qua nói thiệt với Em trong mình Qua không còn gì hết. Ngồi suy nghĩ một hồi, vô mở tủ sắt lấy ra một hòm sắt lớn đầy vàng hết, từ Bà Cụ dĩ chí gia đình đều để đồ kỹ-niệm trong ấy, hột xoàn nhiều hơn hết, đem hòm ấy đưa cho Em đi cầm, thời buổi khuẩn-bách này ngoài 90 ngàn tới 100 ngàn đặng khởi công cất Tòa Thánh thì được rồi, nhưng một ngày kia tới chừng trả rồi mới làm sao; lấy cầm thì được tới chừng chuộc thì tiền đâu, biết chuộc đặng hay không? Nói như vậy rồi cười với nhau mà thôi !. Chị nói trên có huyền linh của Đức Chí-Tôn dưới có cả đức-tin con cái của Ngài, Nam cũng thế, Nữ cũng thế, đâu Em về cất bướng coi, không cần lấy đồ này, cứ tin Đức Chí-Tôn, Em làm lúng cái coi được hay không. Bần-Đạo về với hai bàn tay trắng làm đến thành…”.
7- Nơi cửa Thiêng Liêng không phải giàu mà lập nghiệp được, còn nghèo mà không đâu !
“Từ ngày Khai Đạo năm Bính-Dần cho đến ngày hôm nay…Một người Chị hồi đó đã chịu cả khó nhọc cùng toàn thể Thánh Thể Đức Chí Tôn tạo cho nên nghiệp Đạo, ngày giờ qui liễu của Chị, Chị chưa ngó thấy cái tướng diện cơ nghiệp của Đạo sẽ thành hình như thế nào. Bần Đạo tưởng, nếu giờ phút chót của Chị, Chị còn có một điều ân hận, khi xuất hồn ra khỏi xác, có thể Chị để dấu hỏi (?) chẳng biết tương lai của Đạo nó sẽ ra thế nào ? Chẳng biết mấy Em của tôi có đủ cương quyết, đủ nghị lực, đủ tài đức đặng tạo cho thành tướng hay chăng ? Đó là một điều Chị lo ngại hơn hết. Bần-Đạo nhớ lại lời của Đức Chí-Tôn đã có nói trước rằng: “Nếu Đạo không thành thì chính mình Thầy sẽ đến”.
Tôi tưởng chẳng phải một mình Chị mà thôi, mà cả mấy Anh đã qua đời, dĩ vãng rồi, giờ chót họ còn một điều ái ngại trọng hệ hơn hết là đây…”.

&

02 - Ông Lê-Văn-Trung (1876 - 1934)
Thánh danh
QUYỀN GIÁO TÔNG LÊ VĂN TRUNG

              Ðêm 30 tháng chạp Ất Sửu (dl: 12-02-1926)
      THẦY cho ông Lê Văn Trung thi:
Ðã thấy ven mây lố mặt dương,
Cùng nhau xúm xích dẫn lên đường.
Ðạo cao phó có tay cao độ,
Gần gũi sao ra vạn dặm trường.
(Thăng)

I-Tiểu sử Ðức Quyền Giáo Tông (Diệp Văn Kỳ viết)
 Ông LÊ VĂN TRUNG, người hạt Chợ-lớn, con ông Lê-văn-Thanh và bà Văn Thị Xuân, sanh tại làng Phước Lâm, tổng Phước Ðiền Trung, trong năm 1875, sanh ra được vài tháng, thì ông thân của Ngài tạ thế. Tuy là sớm phải gặp cảnh mồ côi cha, song cũng nhờ nghĩa phương của một bà Từ mẫu nên việc học vấn của ông cũng tuần tự theo trình độ trí thức mà thăng tiến.
Năm 18 tuổi, nhằm ngày 14 Juillet 1893, thì ông đã được bổ vào ngạch thơ ký Chánh phủ Nam Kỳ. Sau lại từ chức, ra tranh cử Hội đồng Quản Hạt quận nhì (Gia Ðịnh, Chợlớn, Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Bà Rịa, Cap-St-Jacques) Ông thường nhắc việc nầy mà nói: Cái ma lực buộc người hay có xa vọng về chánh trị nó mạnh lạ thường. Tranh cử lúc đó còn phải tốn tiền hơn bây giờ xấp trăm, xấp ngàn. Vậy mà tiền không, thế lực nỏ có, thì tranh cử cái gì, mà Tôi cũng xin thôi việc quan đặng ra tranh cử ?".
"Người ta là con vật chánh trị!" Văn sĩ xưa nào đã nói như vậy ! Ông đắc cử Nghị viên Quản Hạt lần I năm 1906. Thế thường Hội Ðồng Quản Hạt là cái máy ghi chép “đít-cua” thì đáng lẽ ông cũng theo thường “quì quì, dạ dạ” để xin "mày đai" Huyện hàm, khẩn đất mà thủ lợi. Thế mà không, sau khi đắc cử, Hội Ðồng mới nhóm một kỳ đầu tiên, thì đã gặp ngay bản dự thảo thuộc về “Lục hạng điền” của ông Outrey, quyền Thống Ðốc Nam Kỳ, trình xin Hội Ðồng phải thảo luận và thừa nhận. Ông và ông Diệp Văn Cương, Hội Ðồng Bến Tre, đứng ra cầm đầu cho tất cả sáu ông Quản Hạt An-Nam phản kháng lại bản dự thảo của Chánh phủ. Song, số Nghị-Viên  An-Nam
lúc bấy giờ chỉ bằng phân nửa số Nghị Viên Lang-sa, thì dầu cho có phản kháng kịch liệt thế nào, cứu cánh rồi cũng chẳng có kết quả. Tình thế chính trị như vậy mặc dầu, ông cùng các người đồng chí cũng chẳng chịu thua  Hội Ðồng  Quản Hạt, với mười mấy lá thăm Langsa, vừa thừa nhận khoản thuế “Lục hạng điền” thì bên nầy, tất cả sáu ông Hội Ðồng Quản Hạt An Nam đều gởi đơn từ chức. Ðối với thái độ ấy, có lẽ ngày nay chúng ta chẳng lấy chi làm lạ. Song, nếu chúng ta thử tưởng tượng lại cái hoàn cảnh chánh trị cách 30 năm nay, thì dám làm như thế, dám phản kháng Chánh phủ một cách công nhiên như họ đã làm, thật là một việc đáng khen và không phải là không có chi nguy hiểm cho những người xướng xuất. Từ chức xong, tất cả sáu ông đều ra ứng cử lại và thảy đều được tái đắc cử. Trừ duy ông Hội Ðồng Hoài, bị ông Bùi Quang Chiêu a-phụ với ông Outrey xúi người bà con là ông Bùi Thế Khâm ra phá nên thất cử.
Hội Ðồng Quản Hạt mà được trở nên một Nghị trường có nhiều ít thanh thế một đôi vẻ chánh trị có lẽ cũng là nhờ vụ “Lục hạng điền” làm nước bước đầu tiên. Trong bước đầu tiên ấy, ông Lê Văn Trung lại là một người hướng đạo rất khẳng khái. Thế lực chánh trị của ông  từ đó về sau mỗi ngày càng lớn thêm. Ðối với cử tri, bây giờ tức là các Hương chức, ông là một người đã bảo thủ quyền lợi của nông dân điền chủ; đối với Chánh phủ, thì ông là một người trong những người mà các nhà đương đạo khó khinh thường. Nhờ thế lực ấy, nên trong năm 1911 ông mới hiệp sức với một vài nhà trí thức, quyền bính Sàigòn, Chợ-lớn mà khởi xướng được một vài việc rất mới mẻ có quan hệ mật thiết, ảnh hưởng lớn ở  xã hội Việt Nam ngày nay.
 Chú thích: (1) An-Nam là chỉ người Việt Nam.
   Phân biệt người Pháp gọi là Lang-sa tức là Francais)

2 - Tôi muốn nói về việc lập Nữ Học Ðường:
Ðương giữa buổi mà sự giáo dục của con trai, đàn ông, hãy còn phôi thai, cậu nào đậu được bằng cấp Thành chung là đã tự Thánh, tự Thần, xách đi cùng Lục tỉnh đặng kiếm vợ giàu; đương giữa buổi mà những anh chàng du học đem về được cái bằng cấp Tú tài, thì đã hô lớn lên một cách rất vinh diệu, tự đắc rằng mình quên hết tiếng An Nam; đương giữa buổi mà khắp cả cha mẹ trong nước đều công nhận rằng: Cho con gái có nhiều ít học thức là một mối hại lớn cho gia đình, cho xã hội; đương giữa buổi như thế mà đứng ra đề xướng Nữ học, xin lập trường Nữ học để dạy bên gái bằng như bên trai, có phải là một việc quá bạo gan chăng ? Những người đề xướng có phải là những bực tiên kiến chăng ?
Bạo gan thật, tiên kiến thật, vì Chánh phủ lúc bấy giờ, như tuồng cũng cho việc ấy là một việc chưa hợp thời, lại trái với phong tục cũ kỹ của An-nam, nên chi tuy là không ngăn cấm, song cũng chẳng chịu xuất công nho ra làm chi phí, mà chỉ để cho những người xướng xuất mở cuộc lạc quyên, góp của công chúng, cất lên được mấy tòa nhà đồ sộ mà chúng ta còn thấy ở đường Le Grand de la Liraye; tòa nhà ấy đã đào tạo ra biết bao nhiêu nhơn tài trong nữ giới. Vậy mà nếu ai chịu khó lật cuốn sổ lạc quyên năm nọ ra xem, thì sẽ thấy ở dưới mấy lời tuyên bố có tên của ông Lê Văn Trung là người khởi xướng đứng kế phương danh bà cụ Tổng Ðốc Ðỗ-Hữu. Trong một cái phạm vi chánh trị eo hẹp, dưới chế độ chẳng phải khinh thường mà đã làm được những việc tôi vừa nhắc lại trên đây, thời tuy nó chưa phải là những sự nghiệp của anh hùng, vĩ nhơn, song thế cũng đủ gọi rằng khỏi mang tiếng “quì quì, dạ dạ” là cái danh hiệu của phần đông trong mấy ông Hội Ðồng, từ xưa đến nay, ở xứ này. Ðó là sự  nghiệp.
Còn công danh, nếu lấy theo nghĩa hẹp của nó và theo thế tình, thì ông Lê Văn Trung, Hội Ðồng Quản Hạt, Nghị viên Thượng Nghị Viện, thưởng thọ  Bắc  Ðẩu  Bửu Tinh, sanh tiền cũng đã từng có đủ công danh.
Nhưng, than ôi! Dầu cho những điều đó mà có thể gọi là công danh, sự nghiệp đi nữa, đối với người đã lấy lòng tín ngưỡng làm phương châm cho sự hành vi, lấy đức bác ái, phổ độ làm mục đích cho cái đời sống, thì công danh, sự nghiệp cũng chẳng nên nhắc lại làm chi. Vả, trước khi đem thân phàm tục để nhờ “Con Mắt huyền diệu của Thầy” soi thấu, thì Ông Lê Văn Trung cũng đã lãnh đạm với công danh sự nghiệp ấy. Ba bốn tháng trước khi nhập Ðạo, Ông Lê Văn Trung đã gởi đơn đề ngày 6 Octobre 1925 cho Quan Thống Ðốc Nam Kỳ mà xin từ chức Nghị Viên Thượng Nghị Viện.
“Mãi đến ngày mồng năm tháng Chạp năm Ất Sửu (28 Janvier 1926) ở Saigon, Ðức THƯỢNG ÐẾ giáng cơ dạy hai ông Cư và Tắc, đem cơ vô nhà ông Trung (Chợ lớn, Quai Testard) cho “Ngài” dạy việc. Hai ông này lấy làm bợ ngợ, vì thuở nay chưa hề quen biết ông Trung"
- Ông Lê-văn-Trung ngộ Đạo:
Tôn chỉ "Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt" Đạo Cao Đài từng giai đoạn bành trướng nền Tân Tôn giáo:
Từ 1920-1926 giai đoạn này cầu cơ thỉnh Tiên để học hỏi về vô hình, các đồng tử được phong là Đạo sĩ hoặc Tiên đồng. Thời kỳ này, Đạo thu hút nhân tài lãnh-đạo Cao Đài về sau. Ông Lê Văn Trung cũng trong trường hợp những người thích nghe tiên tri, lời Thánh mà ngộ Đạo. Ngày 5-12-Ất Sửu (dl: 18-1-1926) Đức Chí-Tôn giáng cơ dạy hai ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc đem Cơ đến nhà ông Lê Văn Trung (ở Quai Testard) độ ông ấy.  
  Đức Hộ Pháp kể lại rằng:
 “Buổi nọ Ông Lê-Văn-Trung đang làm Thượng Nghị Viện. Hội-đồng Thượng Nghị-Viện chẳng khác bây giờ là một vị Tổng-Thống đời Pháp-thuộc. Chức Nghị Viện lớn lắm ! Ông là người Nam làm đến bực đó thôi; mà nghe ra Ông là người quá sức đờiTôi và Đức Cao Thượng Phẩm không hạp chút nào. Tôi kỵ hơn hết, ý định không làm điều đó đặng. Khi chúng tôi ôm cái Cơ đến nhà Ngài đặng Đức Chí Tôn độ. Mục đích của chúng tôi là Đức Chí Tôn bảo đâu làm đó vậy thôi. Khi vô tới nhà thú thật với Ngài rằng chúng tôi được lịnh Đức Chí Tôn đến nhà Anh phò loan cho Đức Chí Tôn dạy Đạo.  Ông biết Đấng đó hơn chúng tôi (là nhờ Đàn Chợ Gạo đã nói ở trên). Lo sắp đặt bàn ghế sửa soạn buổi phò loan rồi ông nhập môn. Trong nhà có một người con nuôi tên là Thạnh còn nhỏ tuổi. Hai cha con kiếm được cái Cơ, vái cầu Cơ. Khi phò loan thằng nhỏ ngủ, ông thì thức. Cơ chạy hoài. Ông hỏi thì Đức Chí Tôn trả lời, chỉ có hai người biết với nhau thôi. Từ đó ông mới tin Đức Chí Tôn”.[(ĐHP 13-10-Giáp Ngọ (1954) ]
Trong đàn cơ  Đức Chí Tôn phán dạy:
         Ngài đã phân rằng: Ngài đã sai Lý-Bạch dìu dắt ông Trung nơi đàn Chợ-gạo đã lâu rồi. Đến ngày 21-1-1926, Đức Chí Tôn lại dạy rằng:
      “TRUNG, nhứt tâm nghe con. Sống cũng nơi Thầy, thác cũng nơi Thầy, thành cũng nơi Thầy mà đọa cũng nơi Thầy. Con lấy sự sáng mắt  của con mà suy lấy”.
                                  Thầy cho thi:
Một Trời, một Đất, một nhà riêng.
Dạy-dỗ nhơn-sanh đặng dạ hiền,
Cầm mối Thiên-Thơ lo cứu chúng.
Đạo người vẹn-vẻ mới thành Tiên (AĂÂ)
Ghi chú: Giấy Căn Cước của ông thời 1876,  trong Bằng cấp Bắc Ðẩu Bửu Tinh lại là 1875. Ông tuổi Tý, 1875 đúng hơn.
            Từ đó cho đến lúc qua đời, ông Lê Văn Trung được
sáng mắt lại. Con nuôi tên Thạnh khỏi dẫn dắt nữa. Sau đó
ông Ca Bảo Đạo cũng được Đức Chí Tôn cho sáng mắt.
Ông Trung cũng nhận được nhiều bài thi kế tiếp:
Mặt Nhựt hồi mô thấy xẻ hai ?
Có thương mới biết Đấng Cao Đài
Cũng con cũng cái đồng Môn đệ,
Bụng muốn phân chia hỏi bởi ai ?

Chuyện trên đây tôi do ở cuốn sách "Ðại Ðạo Căn Nguyên" của Ðạo Cao Ðài mà chép ra và chỉ để ghi lấy ngày nhập Ðạo cho tiện sự chia đời của ông làm hai đoạn:
- Ðoạn trước, ở thế gian: từ ngày 14 Juillet 1893, ông được bổ ra làm Thơ ký, cho đến 6 Octobre 1925 là ngày ông từ chức Nghị viên Thượng Nghị Viện.
- Ðoạn sau, thuộc về đời hành đạo: đời tu niệm của Ông, từ 28 Janvier 1926 cho đến 19 Novembre 1934.
Bước đường ở ngoài thế gian trong khoản 32 năm được hanh thông chừng nào, thì 9 năm trong Ðạo lại càng mắc phải nhiều khổ hạnh chừng nấy. Sau khi nhập Ðạo chưa đầy một năm, Ông với các Ðạo hữu đi thuyết đạo khắp cùng Lục Tỉnh và nội trong mấy tháng mà số người theo Ðạo Cao Ðài tính hơn một triệu, thì ông cùng Bà Lâm Hương Thanh, Chánh Phối Sư, với 247 người Ðạo hữu đứng vào một lá đơn trình với Chánh phủ xin phép KHAI ÐẠO.

3- Lá đơn ấy đề ngày 29 Septembre 1926: nó là tấm Giấy Khai Sanh của Ðạo vậy.
Lúc bấy giờ, Ðàn cầu cơ đã có khắp cả mọi nơi: Cầu Kho, Chợ-lớn, Tân Kim, Lộc Giang, Tân Ðịnh, Thủ Ðức…mỗi chỗ đều có người chủ trương riêng. Vì Ðạo Cao Ðài là do ở Cơ Bút phát sanh; điều đó ai cũng biết. Tuy nhiên, chí kinh dinh kiến tạo của Ông ở ngoài đời Ông vẫn đem nó theo để đạt một mục đích khác. Vì Ông nóng lòng về sự lo cho nền Ðạo được thống nhứt, nên trong năm đó, ngày 19 Novembre, đêm 14 rạng Rằm tháng mười năm Bính Dần, thì làm lễ Khánh Thành Thánh-Thất ở Từ Lâm Tự và lễ chánh thức Khai Ðạo. Tính từng ngày một thì cộng là 8 năm, không thiếu không dư một bữa:
 - 19 Novembre 1926  khai Đạo
 - 19 Novembre 1934  ông mất.
Trong điều đó có chi huyền diệu chăng ?

Huyền diệu hay không, tôi tưởng ai là Tín đồ Cao Ðài, thời cũng phải lấy ngày đó làm một ngày kỷ niệm rất quí hóa, kỷ niệm lễ chánh thức KHAI ÐẠO, kỷ niệm húy nhựt của Ông Quyền Giáo Tông và kỷ niệm cho nhớ rằng hành đạo là một việc khó, Cơ Bút thường hay có những điều lưu tệ. Vì chánh ngay đêm đó, có hai Tín đồ nam và nữ tự xưng là Tề Thiên Ðại Thánh và Quan Âm Bố Tát nhảy lên làm cho công chúng thất vọng. Và cũng vì việc rắc rối ấy mà làm cho ai nấy đều ngã lòng, thối chí, thành thử nổi lên một cuộc công kích rất kịch liệt do những người hoặc vì thiển kiến, hoặc vì tư lợi mà sanh ra.
Có một điều lạ chẳng ai ngờ, là cái hiệu quả của cuộc công kích ấy chỉ làm cho số Tín đồ Cao Ðài mỗi ngày mỗi đông thêm.
Cách đó chẳng bao lâu, Thánh Thất Cao Ðài lại phải dời về nơi sở rừng 140 mẫu, tọa lạc tại làng Long Thành Tây Ninh  cho đến bây giờ. Trong khoảng thời gian từ ngày lập Ðạo cho đến lúc dời Thánh Thất về làng Long Thành, ông Lê Văn Trung đã trải biết bao nhiêu công khó mới gầy dựng nên được cơ sở vững chắc như ngày nay. Song Ông thường hay nói với tất cả mọi người:
- Công khó ấy đều nhờ ở lòng tín ngưỡng thành kính của anh em, chị em trong Ðạo. Công  của  tôi  chẳng bao giờ lớn hơn công của một “Tiểu Giáo Nhi” nào !
Tuy nhiên, trong lúc vừa dời Tòa Thánh về làng Long Thành Tây Ninh, thì các Chức Sắc, các Giáo Hữu, các Tín đồ đều đã rõ thấu công lao của Ông đối với nền Ðạo, nên ai nấy đều vui mừng về việc ông được tôn lên Quyền Giáo Tông nhằm ngày mồng 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930). Vả lúc ấy, là lúc Ðạo đương trải qua thời kỳ toàn thạnh mà chủ quyền lại được thống nhứt về trong tay của một người nhiều kinh lịch, đủ nghị lực như ông LÊ VĂN TRUNG thì ai cũng tưởng nền Ðạo từ đó về sau sẽ được vững chải hơn.
Ai ngờ hai chữ “GÍAO TÔNG” lại thành ra cái cớ để khiến những tay cầm quyền Ðạo đương thời họ đã làm cho nảy sanh chẳng biết bao nhiêu việc chia lìa, oán khích. Chẳng những là ở trong Ðạo thì họ đã buộc tội, viết tờ Châu Tri để thống mạ, mà ngoài đời, thì họ lại còn xúi giục Tín đồ lầm lạc đem những việc phi lý, vô bằng cớ đến Tòa mà kiện và vu cáo với các nhà đương quyền rằng để cho Ông Lê Văn Trung cầm quyền Ðạo tức Cao Ðài là dung dưỡng cho một ổ cách mạng, họ đã làm cho đến nỗi lúc bấy giờ chẳng có ngày nào mà Ông Lê Văn Trung chẳng bị ông Thẩm-án nầy đòi hay là Tòa kia đem ra xử. Còn những Chức Sắc nào trong Ðạo mà ái mộ Ông Giáo Tông, thì họ lại kiếm phương nầy thế khác mà làm cho bị tù bị tội. Ðương giữa buổi nguy nan như thế, Ông Lê Văn Trung vẫn cứ điềm tĩnh, ngồi lo sắp đặt công việc bên Nữ phái trong Ðạo, mong sao cho Nam, Nữ được bình quyền mà nói rằng: “Ðiều ấy là một cái xa vọng của tôi đã có từ khi đương còn ở ngoài đời, cho đến ngày nhập Ðạo. Lúc trước tôi đã giúp bà cụ Tổng Ðốc Ðỗ Hữu lập trường Nữ Học, bây giờ tôi hiệp sức với Bà Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh tổ chức các Nữ Viện, cũng đồng một ý nghĩa. Tôi chỉ ước ao sao cho Nam-Nữ bất bình đẳng ở ngoài đời chẳng còn trong Ðạo nữa”.
Có nhiều người thấy Ông điềm nhiên như vậy, thì tức mà hỏi: Ngài không dùng phương pháp chi để đối phó với mấy kẻ tiểu nhơn kia sao?
- Sao mà lại được kêu những kẻ ấy là tiểu nhơn ? Nếu may mà mình phải, thời tự nhiên một ngày kia người ta sẽ biết quấy, lo ngại chi sự ấy. Song, than ôi ! Lời nói đó chỉ là đúng với lý tưởng của người lương thiện, tu hành. Chớ thật tế ở đời nầy có đâu được như thế !.
Sau khi đối với Ðạo, Ðạo biết Ông vô tội; đối với Tòa, Tòa biết Ông vô tội; cái danh hành Ðạo của Ông được trắng như tuyết.
Ông Lê Văn Trung, nguyên Thượng Nghị Viện thưởng thọ Bắc Ðẩu Bửu Tinh, Quyền GIÁO TÔNG CAO ÐÀI, lại do hai cái án “tuần cảnh” phạt hai tên đánh xe bò của Tòa Thánh về tội không thắp đèn và bò thiếu dây buộc ách mà phải bị bắt vô chịu tù ở khám đường Tây Ninh. Ngày Ông vô khám nhằm lễ Khai  hạ, mồng bảy  Tết  năm
Giáp Tuất (1934) trước Vía Trời vài ba bữa.
Tôi còn nhớ khi sơn-đầm đem hai bổn sao lục của hai cái án nói trên đây vô Giáo Tông Ðường đặng bắt Ông ra Tòa Bố Tây-Ninh, thì ông chậm rãi, khăn áo chỉnh tề, mang Bắc Ðẩu Bửu Tinh và huy hiệu Giáo Tông vào rồi đi theo sai-nha không nói một tiếng chi khác hơn là dặn các Giáo Hữu, các Tín đồ hãy yên lặng mà lo việc cúng Vía.
Mấy ngày Ông ngồi trong khám, ngoài Tòa Thánh từ các Chức Sắc cho đến Tín đồ họ đều nhịn đói chờ Ông. Mãn hạn ba ngày, Ông về Tòa Thánh, Chức Sắc, Tín đồ người khóc, kẻ ôm tay Ông hun, Ông xem cũng như tuồng có ý cảm động nhiều hơn trong những dịp khác.
Làm Lễ Vía Trời vừa xong thì  Ông  liền  viết  một
bức thơ gởi cho Chánh phủ mà xin trả Bắc Ðẩu Bửu Tinh lại. Thơ ấy có nhiều câu ý vị sâu xa. Song tôi không muốn thuật ra đây, vì sau khi Quan Toàn Quyền ROBIN qua trấn nhậm, Ông đã có vào diện yết Ngài và hai đàng cũng đã điều đình công việc “Tự do tín ngưỡng” của Ðạo, thì nhắc lại chuyện cũ sợ e có hại đến hòa khí của Ông đã đào tạo ra. Tôi chỉ muốn thêm rằng trả Bắc Ðẩu Bửu Tinh là một “việc làm” sau hết của cái đời sống của ông và nhắc lại lời của ông đã cắt nghĩa “việc làm” ấy:
            - “Ðừng tưởng tôi trả Bắc Ðẩu Bửu Tinh mà còn có ý chi phiền Chánh phủ, trách những nhà đương quyền lúc bấy giờ. Danh giá thể thống của Viện Bửu Tinh buộc tôi phải làm như vậy. Tôi mà nói đây chẳng phải vì nghi sợ điều chi mà chỉ vì ước ao ai nấy đều hiểu rằng tôn chỉ, mục đích của Ðạo chúng tôi là Hòa bình, thân ái khắp cả chúng sanh “nhứt thị đồng nhơn” thì chúng tôi đâu được phép phiền trách hờn giận. Huống chi, theo thiển kiến của tôi đối với vấn đề thực dân, thì dầu cho lúc ban sơ nó là “việc làm do ở cường quyền” song dần dần bên cai trị và bên bị cai trị cùng nhau tiếp xúc, rồi biết rõ nhau mà yêu nhau, thì chúng ta lại có thể hy vọng rằng cái “việc làm do ở cường quyền” kia  sẽ  thành  ra  một  mối  dây  đoàn  thể, thân thiện của dân tộc nầy đối với dân tộc khác”.

Ðã nói đến thân thế sự nghiệp của Ông LÊ VĂN TRUNG tất nhiên là phải bàn đến ÐẠO CAO ÐÀI. Vì ông là một người sáng lập, lại là một ông Giáo Chủ. Ðạo Cao Ðài, thì ông là công Thủ, Ðạo Cao Ðài mà quấy, thì ông lại là tội Khôi. Song tôi còn nhớ Chương Thái Viêm,  nhà Bác học Tàu mỗi khi thảo luận đến các vấn đề Tôn giáo đều nói:
- “Thiên trung điểu tích, họa giả giai nan” nghĩa là
dấu chơn của con chim bay trên không, thợ  vẽ  nào  cũng
phải chịu là khó. Thật thế, người ta mà muốn tìm ra cội rễ của Tôn-giáo thời chẳng khác nào chú thợ vẽ muốn vẽ dấu chơn của chim bay trên không.
Huống chi, ÐẠO CAO ÐÀI mới phát hiện ra ở xứ nầy chưa đầy chín năm, bao nhiêu những lý thuyết hình thức của ÐẠO hiện đương còn ở thời kỳ phôi thai và do Cơ Bút mà có, thì chẳng thế chi nghị luận cho được xác đáng. Người tín ngưỡng do sự thần bí mà tín ngưỡng đã đành; chí như những kẻ công kích mà cũng đem sự thần bí ra đặng công kích thì thật là lạ. Song dầu chi đi nữa, tôi cũng nhớ rằng cái “biết” của loài người ngày nay chưa có thể chi giải quyết được những chỗ khuyết nghi ấy và ở trong khoản vài chục trương giấy viết ra cho kịp ngày Điếu tang, thì tôi đâu dám đem một vấn đề trọng đại như vấn đề Tôn giáo mà nghị luận. Tuy nhiên, trước khi ngừng bút, tôi còn muốn đứng về phương diện xã hội mà Ông Lê Văn Trung sanh tiền thường gọi là Nhơn Ðạo, mà kết luận:
Sự hành động của Ðạo Cao Ðài, từ khi sáng lập đến nay, không phải là mỗi mỗi đều được tận thiện tận mỹ. Ở trong đời, có chi là tận thiện tận mỹ? - Song nếu xét ra cho thật công bình, thì Ðạo Cao Ðài chưa hề làm điều chi có hại đến nhân quần xã hội. Trái lại, Ðạo Cao Ðài đã nhờ truyền bá giỏi, tổ chức hay mà gây nên tình thân ái, đoàn thể trong một triệu mấy dân Nam Kỳ là một việc đáng làm cho ai cũng nên kính phục. Ðó là tôi chưa nói đến cái đức tin rất mạnh mẽ của Tín đồ. Tôi chưa nói, là vì trước khi tôi muốn nhắc cho các Thiên Phong Chức Sắc trong Ðạo có trách nhậm kế chí của Ông Giáo Tông, đều nhớ rằng: Ðức tin là một con dao hai lưỡi. Nếu dùng nó phải, thì chẳng chi lợi bằng, nếu dùng nó quấy, thì chẳng hại nào hơn. Và chỗ đó là tội là công của Ông Lê Văn Trung vậy.

DIỆP VĂN KỲ (Viết tại Saigon ngày 28 Novembre 1934)
  II - Sứ mạng Cao-Đài-giáo nay phải làm gì?
            “Thầy dặn rằng: Thầy đến chẳng phải lập một nền Đạo mới mà đến đặng nhắc các con rằng: Ngày tận tuyệt đã hầu gần, Quỉ Vương sắp đến, Thánh ngôn các Đạo đã khai từ thuở tạo thiên không đủ kềm thúc nhơn sanh đặng trọn lành. Đời càng ngày càng trở nên hung bạo, nhơn loại giết lẫn nhau, cả hoàn cầu giặc giã, bịnh chướng biến sanh, thiên tai rắp đến. Ấy là các điều Thầy đã nói tiên tri rằng: Ngày tận thế đã đến!”
            Thầy  đã tạo thành đủ cả Pháp luật.
            Thầy đến chỉ độ kẻ vô Đạo chớ không phải sửa Đạo. Các con hiểu à!” (23-11 Bính Dần – 1926)
- Thọ Thiên Ân Đầu Sư Thượng Trung Nhựt:
Vào 30 Tết (Thứ Sáu: 12-02-1926), theo lịnh Đức Chí Tôn các Môn-đệ đầu tiên đi thăm và chúc Tết gia đình các Đạo-hữu. Đêm đó, phò loan là hai ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc. Mỗi ông đều được Đức Chí Tôn cho một bài Tứ tuyệt mà bài của ông Lê Văn Trung là một lời tiên tri về cơ Phổ độ sẽ phát triển :
Đã thấy ven mây lố mặt Dương,
Cùng nhau xúm xít dẫn lên đường.
Đạo cao phó có tay cao độ,
Gần gũi sau ra vạn dặm trường.

Đây là ý muốn của Ông Ngô văn Chiêu xin Đức Chí Tôn điểm danh các vị Môn đệ đầu tiên. Thầy liền giáng, là chiều theo ý muốn của Người. Cơ liền gõ:
Chiêu, Kỳ, Trung độ dẫn Hoài sanh
Bản Đạo khai  Sang, Qúi, Giảng thành
Hậu, Đức, Tắc, Cư thiên địa cảnh
Huờn, Minh, Mân đáo thủ đài danh.

Mười hai tên nhưng 13 Đệ tử, vì hai ông Võ Văn Sang và Cao Hoài Sang điểm chung một tên. Huờn, Minh, Mân là ba người khách của ông Vương Quan Kỳ đến hầu đàn.
*Đàn Phố Hàng Dừa (chợ Thái Bình) lập tại nhà ông Cao Quỳnh Cư không đủ cung ứng cho cơ Đạo ngày càng phát triển nên mở thêm các Đàn khác ở nhiều nơi.
* Đàn Cầu Kho.
* Đàn Lộc Giang tại chùa Phước Long (Chợ Lớn)
* Đàn Tân Định tại nhà ông Nguyễn Ngọc Thơ,
Đàn Thủ Đức
* Đàn Tân Kiêm (Cần Giuộc).
            Theo chính quyền Pháp, ở Nam Kỳ đã xuất hiện hai mươi mốt địa điểm là nơi lập đàn của Đạo Cao Đài  (Gouvernement Général de I' Indochine, Contribution à I'Histoire des Mouverment Politique de I' Indochine  Francaise, VII- Le Caodaisme - Hà nội 1934, trang 81 ).
Việc lập Đàn Cơ phổ độ lúc đầu đem lại nhiều kết quả tốt. Nhiều người có địa vị và giàu sang theo Đạo như Đốc phủ Lê Bá Trang, Tri phủ Nguyễn Ngọc Tường, Lê Văn Hoá, Ông Bà Huyện Nguyễn-Ngọc-Thơ và Lâm Thị Thanh. Các bậc chân tu như Lê-Văn-Lịch, Trần Đạo Quang, Nguyễn-Văn-Kinh, Hoà Thượng Như Nhãn, Yết Ma Luật, Yết-Ma Nhung ...
Người nhập môn ngày càng đông, các ông Trung, Kỳ, Bản lập đàn giảng đạo, ông Cao Quỳnh Diêu lo việc Lễ Nhạc, Bà Mỹ Ngọc lập Đồng nhi, Bà Nguyễn-Thị-Hiếu may áo mão cho kịp kỳ Thiên-phong.
Để chuẩn bị Thiên-phong tại nhà ông Lê Văn Trung, Đức Cao-Đài dạy ông Trung sắp đặt bốn cái ghế để tạm thay một Ngai Rồng (Giáo Tông) và ba Ngai Lân (3 vị Đầu Sư).
Bàn thờ Ngũ Lôi đặt phía trước Thiên Bàn, có  bài  vị “Cửu Thiên Cảm Ứng Lôi Thinh Phổ Hoá Thiên Tôn” và lá bùa Kim Quang Tiên. Đối diện với Thiên Bàn lập bàn Vi Hộ-Pháp (Vi-Đà Hộ-Pháp, một trong Tứ Thiên Vương, viết bằng chữ V. Hai bàn thờ này cho Đạo hữu (Đạo hữu là bạn đạo. Chức sắc và Tín đồ mới là cấp bực người theo Đạo) lập thệ khi được phong Chức sắc hay khi mới nhập môn.
Đêm 13-3-Bính Dần (dl: 24-4-1926), Đức Chí Tôn dạy vì sao phải lập các phẩm Chức sắc như vầy:
            "Thầy nhứt định chính mình Thầy đến mà độ rỗi các con, chẳng chịu giao Thánh giáo cho tay phàm. Nhưng mà buộc phải lập Chánh thể có lớn nhỏ đặng dễ bề cho các con dìu dắt lẫn nhau. Anh trước em sau mà đến nơi Bồng Đảo".
            Tuy vậy, Đức Chí Tôn nhấn mạnh:
“Chẳng một ai dưới thế này còn đặng phép nói rằng thế quyền của Thầy mà trị phần hồn cho nhân loại”.
Ngày 14-3 (dl: 25-4), Đức Chí Tôn dạy cách hành lễ Thiên phong, về sau coi đó mà noi theo.
Trước bàn Ngũ Lôi, hai tay chấp trên trán, cúi xuống lá bùa Kim Quang Tiên và thề.
       Ðức Chí Tôn giáng cơ tại nhà Ngài Trung và thực hiện cuộc Thiên phong tại đây, vào ngày: 14-3-Bính Dần, (Chúa nhựt: 25-4-1926). Phò loan: Cư - Tắc.
Thầy dạy: “Biểu hai vị Ðầu Sư xuống ngai, đến quì trước mặt Ngũ Lôi, hai tay chấp trên  đầu,  quì  ngay bùa Kim Quang Tiên mà thề như vầy:
"Tôi là Lê Văn Trung tự Thiên ân là Thượng Trung Nhựt và Lê Văn Lịch tự Thiên ân là Ngọc Lịch Nguyệt, Thề Hoàng Thiên Hậu Thổ trước bửu pháp Ngũ Lôi rằng làm trọn Thiên đạo mà dìu dắt cả mấy em chúng tôi đều là Môn đệ của Cao Ðài Ngọc Ðế, nhứt nhứt do lịnh Thầy phân định, chẳng dám chuyên quyền mà lập thành Tả đạo, như ngày sau hữu tội thì thề có Ngũ Lôi tru diệt."
Ðến bàn Vi Hộ Pháp cũng quì xuống, vái y vậy, điều câu sau  thì  như vầy : "Như  ngày  sau  phạm  Thiên
điều, thề có Hộ Pháp đọa tam đồ bất năng thoát tục."
  
ĐỌA TAM ĐỒ BẤT NĂNG THOÁT TỤC
            E: To be pumished three tours of metempsychosis, without going out from world
F: Être puni à trois tours de métempsycose, sans pouvoir sortir de monde 
            Ðọa Tam đồ bất năng thoát tục là Ðọa đày ba vòng luân hồi không thể thoát khỏi cõi trần, tức là bị luân hồi từ phẩm kim thạch cho đến phẩm nhơn loại, rồi trở lại kim thạch, luân hồi ba vòng như vậy thì mới xong hình phạt.
Câu thề “Tận đoạ tam  đồ  bất  năng  thoát  tục” để thấy sự nhiệm mầu của Đạo pháp: Chơn linh nào bị “Tận đoạ Tam đồ” thì bị ngăn cản, không hiệp được với Chơn thần (tức đệ Nhị xác thân) phải chuyển kiếp trở lại từ Kim thạch cho tới con người, như thế ba vòng. Nói cách khác: là ai phạm thệ thì bị đoạ xuống cấp chót là vật chất rồi tiến lên thảo mộc, thú cầm mới tới nhơn phẩm. Đây là một vòng. Mỗi vòng tiến hoá như thế gọi là “Đồ”(nghiã là con đường) khoảng ngàn (1.000) năm. Ba vòng cộng lại là ba ngàn năm (3.000 năm)
“Bất năng thoát tục” là lẩn quẩn trong cõi đoạ đày, không trở về với Đức Chí-Tôn được. Tại sao vậy ? Bởi vì trong ba ngàn năm “Tam đồ” Chơn linh lỗi thệ phải trả quả nghiệp, không rảnh rang lập công mà về Thiên Đàng.
Thể hiện lời thề này là sau khi  tốt  nghiệp  Luật  sự
Pháp  Chánh Hiệp-Thiên Đài, các Tân khoa phải thề trước
Cung Đạo Bát-Quái Đài, câu này:
            “Chúng tôi là Luật sự Pháp Chánh thề luôn luôn trung thành với Đạo và giữ dạ vô tư hành sự, nếu phạm lời Minh Thệ này sẽ bị các Đấng Thiêng liêng hành pháp “Tận đoạ Tam đồ bất năng thoát tục”.
Như thế, chìa khóa "Đại ân xá, tận độ chúng sanh" được mở ra, nếu ta biết ăn năn và tu luyện kiếp sanh trở nên tốt đẹp.
Đến thời Tý, ngày 15-3-Bính Dần (dl: 26-4-1926) Đức Chí Tôn ân phong:
- Đầu Sư Thượng Trung Nhựt  (Lê Văn Trung) 
- Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt      (Lê Văn Lịch) 
- Thượng Sanh Cao Hoài Sang 
- Thượng Phẩm, Tá Cơ Tiên Hạc Đạo Sĩ Cao Quỳnh Cư.

- Hộ Pháp Hộ giá Tiên Đồng Tá Cơ Đạo Sĩ Phạm Công Tắc.
- Tiên Hạc phò cơ Đạo Sĩ : Trương Hữu Đức và  Nguyễn Trung Hậu. 
- Tiên Sắc Lang Quân Nhậm Thuyết Đạo Giáo Sư: Vương  Quan Kỳ. 
- Tiên Đạo Công Thần Thuyết Đạo Sư : Đoàn Văn Bản.
Từ Xây bàn đến đây chưa tròn một năm mà cơ chế Hội Thánh đã manh nha hình thành hai Đài: Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài. Đó là niềm vui lớn cho nhân sanh, nhưng là nỗi lo cho chính quyền bảo hộ. Vì thế, Ngài Lê Văn Trung phải sắp xếp mọi thủ tục để khai Tịch Đạo hầu  tránh mọi khó khăn sau này.
 Khai tịch Đạo với chính quyền Pháp:
Tập trung nhiều người mà không có giấp phép hội họp là nỗi lo lớn của Ngài Lê Văn Trung. Các Đàn cơ đâu thể nào tránh khỏi sự theo dõi của Mật thám Pháp. Ông phủ Chiêu, Nguyễn Văn Hoài, Võ Văn Sang biết Luật pháp chính quyền đô hộ hơn ai hết. Dù được điểm đạo là Môn đệ của Đức Cao Đài, các Ông vẫn lánh xa các cuộc tụ tập đông đảo. Trong tập Le Caodaisme, Thanh tra Lalaurette đã nhắc đến các văn kiện lập qui thời đó về Tín ngưỡng dân gian:
- Điều 144 Hình luật, Quyển 6, Đoạn 6 bắt nạn nhân phải chịu xử giảo.
- Nghị định ngày 22-4-1873 cho phép truy nã những Tín đồ. Đô đốc La Font cho mật thám trà trộn theo dõi các nơi đáng nghi ngờ. (Lalaurette et Vilmont, Le Caodaisme,Sàigòn 1933, tr.91).
- Pháp cho Thông dịch viên Nguyễn Văn Tường, cảnh sát Trần Văn Tạ, quản Báo, trà trộn để theo dõi Đạo nhưng rốt lại các người này lại theo Đạo và thọ Thiên ân.

1- ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG ĐĂNG TIÊN
            Người Đệ tử Đức Cao Đài đầu tiên là Ngài Ngô Văn Chiêu. Trong đàn cơ 14-10-1926, Đức Chí Tôn dự kiến phong cho Ngài làm Giáo Tông nên dạy rằng :
"Trung, Cư, Tắc ba con lập tức lên Chiêu, biểu nó sắm liền một bộ Thiên phục màu trắng, có các quẻ của Bát Quái y theo Thầy vẽ, thêu bằng chữ vàng. Dặn nó mua thứ hàng thiệt tốt, mão cũng vậy".
            Vốn là "Chiêu minh linh giác"  (ngộ  đạo  thấy  rõ),
Ngài biết Đức Cao Đài thử lòng đệ tử vì áo Giáo Tông chỉ vẽ là áo Tiểu phục dành cho Ngài Lê Văn Trung sau này. Đến khi ban hành Pháp Chánh Truyền, toàn đạo mới biết:
"Bộ Đại phục Giáo Tông thì toàn trắng, có thêu bông sen vàng từ trên tới dưới, hai bên cổ áo, mỗi phía có ba cổ pháp là Long Tu phiến, Thư Hùng kiếm và Phất Chủ. Đầu đội mão vàng năm từng Bát Quái".
Đức Hộ Pháp đã thuyết Đạo (1948) rằng:
       "Mỗi vị tín đồ đều có cái mão Giáo Tông và Hộ Pháp,
không lấy được là lỗi ở mấy em, chẳng lẽ Đạo chỉ có một người cầm đầu mà người đó chết thì diệt tiêu nền Đạo".
            Nhưng phải lên ngôi Giáo Tông, Hộ Pháp thế nào cho phù hợp với luật lệ Đạo. Khi Ngài Ngô không tới thọ phong tại nhà Ngài Lê Văn Trung, mãi đến ngày 29-10-1926 Đức Chí Tôn mới giao “quyền thưởng phạt đã vào tay Lý Thái Bạch". Sau đó Đức Lý thấy không thể giải quyết mọi việc phàm trần nhanh chóng nên "ban quyền cho Thượng Đầu Sư thay mặt cho Lão mà thi hành các phận sự Quyền Giáo Tông về phần xác, còn về phần Thiêng Liêng có Lão".  
  Lưu ý mấy chữ "Quyền Giáo Tông về phần xác", tức là Ngài Lê-văn-Trung chỉ được nửa quyền Giáo Tông.
Đây phải thấy rõ không ai phủ nhận rằng Thầy đã ban quyền Giáo Tông cho Ông Ngô văn Chiêu trong 10 ngày, nhưng ông Chiêu không được vinh-hạnh hưởng phẩm ấy vì bị quỉ khảo nên ông bị rớt ngôi Ngôi Tông.
   Tuy nhiên con số 3 chỉ ngôi Giáo Tông vẫn tròn đầy:
- Đức Lý là Giáo Tông vô vi, thuộc về Thần
-Đức Quyền Giáo Tông, trung gian giữa vô và hữu là Khí.
- Ngài Ngô văn Chiêu có công kêu gọi thuộc về Tinh.
Tinh-  Khí-  Thần đã hiệp thành Tam Bửu vậy.
Kết luận: Trong thời Tịch đạo Thanh Hương, nơi cửa Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ này, ngòai ba vị Giáo Tông kể trên thì không một ai được xứng danh là Giáo Tông cả.
2. Châu tri báo tang của Hội Thánh:
Đức Quyền Giáo Tông bị chói nước mang bịnh sốt rét rừng phải nằm nhà thương. Chẳng ngờ bịnh trở nặng, nóng nhiều, uống thuốc vô ói ra hết, không ăn, rồi qui Tiên. Toà Thánh báo tin như sau:
“Hội Thánh Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ rất đau đớn
mà cho chư Hiền huynh, Hiền tỷ hay tin buồn: Đức Quyền
Giáo Tông đã qui Tiên tại Giáo-Tông-Đường ngày 13-10-Giáp Tuất (19-11-1934) hồi 3 giờ chiều hưởng thọ 59 tuổi.
           Lễ tống chung định ngày 26-10-Giáp Tuất đúng 9 giờ sớm mai”.
o0o

Thánh danh Ngọc Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt
Thánh ngôn Thầy dạy:
Ngọc Ðàn Vĩnh Nguyên Tự  (Cần Giuộc) Thứ bảy ngày 17-7-1926  (âl 8-6-Bính Dần)
Thầy,
“Hỉ chư môn đệ, chư ái nữ. Ðại hỉ! Ðại hỉ!
Ngọc Ðầu Sư khả tu truyền pháp, thuyết đạo.
Kẻ nào trai giới đặng 10 ngày đổ lên, thọ bửu pháp đặng.
Chư môn đệ phải trai giới. Vì tại sao?
Chẳng phải Thầy còn buộc theo Cựu luật, song luật ấy rất nên quí báu, không giữ chẳng hề thành Tiên Phật đặng. Thầy cắt nghĩa: Mỗi kẻ phàm dưới thế nầy đều có hai xác thân: Một phàm gọi là Corporel, còn một thiêng liêng gọi là Spirituel, mà cái thiêng liêng do nơi cái phàm mà ra nên gọi nó là bán hữu hình, vì có thể thấy đặng mà cũng có thể không thấy đặng.
Cái xác vô hình huyền diệu thiêng liêng ấy do nơi Tinh- Khí- Thần mà luyện thành. Nó nhẹ nhàng hơn không khí. Khi nơi xác phàm xuất ra thì lấy hình ảnh xác phàm như khuôn in rập. Còn khi đắc đạo mà có Tinh, Khí, không có Thần thì không thế nhập mà hằng sống đặng. Còn có Thần không có Tinh, Khí thì khó huờn đặng Nhị xác thân.
Vậy ba món báu ấy phải hiệp mới đặng.
Nó vẫn là chất tức hiệp với không khí Tiên Thiên, mà trong khí Tiên Thiên thì hằng có điển quang. Cái Chơn thần buộc phải tinh tấn trong sạch mới nhẹ hơn không khí, ra khỏi ngoài Càn khôn đặng.
Nó phải có bổn nguyên chí Thánh, chí Tiên, chí Phật, mới xuất Thánh, Tiên, Phật đặng.
Phải có một thân phàm tinh khiết mới xuất Chơn thần tinh khiết.
Nếu như các con còn ăn mặn, luyện đạo rủi có ấn chứng thì làm sao mà giải tán cho đặng.
Như rủi bị huờn, thì đến khi đắc Đạo, cái trược khí ấy vẫn còn, mà trược khí thì lại là vật chất tiếp điển (bon conducteur d'électricité) thì chưa ra khỏi lằn không khí đã bị sét đánh tiêu diệt.
Còn như biết khôn thì ẩn núp  tại  thế  mà  làm  một
 bậc Nhân Tiên thì kiếp đọa trần cũng còn chưa mãn.
Vì vậy, Thầy buộc các con phải trường trai mới đặng luyện đạo.”
Ông Lê văn Lịch là Thầy Tu làng Long-An Chợ Lớn.  Ngọc Lịch Nguyệt là Thánh danh của  Ngài  Lê  Văn
Lịch,  Đức Chí Tôn phong Ngài làm  Đầu  Sư  phái  Ngọc.
Ngài Ngọc Lịch Nguyệt, hiệu là Thạch Ẩn Tử, sanh ngày mùng 1 tháng 9 năm Canh Dần (dl: 14-10-1890) tại làng Long An, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn.
Thân sinh của Ngài là Cụ Lê Văn Tiểng, tu theo Đạo Minh Sư đến bực Thái Lão Sư, hiệu Lê Đạo Long, là người sáng lập ngôi chùa Vĩnh Nguyên Tự ở Cần Giuộc. Cụ Tiểng tu đắc đạo, sau khi qui liễu, đắc quả Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn. Cụ có lời di chúc:
"Lập Vĩnh Nguyên Tự để sau nầy có Thập Nhị Khai Thiên đến mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ."
Thân mẫu của Ngài Lê Văn Lịch là Cụ Bà Trần Thị Đắc, hiền nội của Ngài là Bà Trần Thị Khá, con gái của Ngài Trần Văn Thụ (Ngọc Chưởng Pháp). Ngài Lê Văn Lịch có người con gái là Cô Lê Ngọc Trang, Đạo hiệu Bạch Tuyết.
Ngài Lê Văn Lịch thọ nhận từ phụ thân bí thuật huyền môn của Đạo Lão (Tiên giáo) và Y thuật. Sau khi nhập môn vào Đạo Cao Đài, Ngài không dùng bí thuật huyền môn nữa, chỉ truyền lại cho con gái Lê Ngọc Trang về Y học cổ truyền.
Đầu năm Bính Dần 1926, quí Ngài Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc được lịnh Cơ Bút dạy xuống Vĩnh Nguyên Tự lập đàn cầu Cơ, Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn (Cụ Lê Văn Tiểng, đạo hiệu Lê Đạo Long, thân sinh của Ngài Lịch) giáng cơ dạy Ngài Lịch, lúc bấy giờ đã tu tới bực Dẫn Ân (Minh Đường), phải hiệp với quí Ngài CƯ
TẮC để mở Đạo Cao Đài.
Trong thời gian nầy, Ngài Đốc phủ Nguyễn Ngọc Tương đang làm Chủ quận Cần Giuộc đã gia nhập Đạo Cao Đài, nên cũng khuyên Ngài Lê Văn Lịch nhập môn vào Đạo Cao-Đài.
Đêm 12-3-Bính Dần (dl: 23-4-1926), Ngài Lê Văn Lịch được Đức Chí Tôn giáng cơ ân phong Ngọc Đầu Sư, Thánh danh Ngọc Lịch Nguyệt, cùng một lượt với Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, trong cuộc Lễ Thiên phong đầu tiên tại nhà Ngài Lê Văn Trung (Chợ Lớn).
Trong TNHT, Đức Chí Tôn có giáng cơ dạy Ngài Ngọc Lịch Nguyệt như sau: TNHT. I.14:
"Cao Đài. Lịch! Con nghe Phật Như Lai nói chưa?
Tam Kỳ Phổ Độ là gì ? - Là phổ độ lần thứ ba.
Sao gọi là phổ độ? Phổ độ nghĩa là gì?
- Phổ là bày ra, độ là cứu chúng sanh.
Muốn trọn hai chữ Phổ độ, phải làm thế nào? Chúng sanh là gì ?
- Chúng sanh là toàn cả nhơn loại, chớ không phải là lựa chọn một phần người, như ý phàm các con tính rối.
Muốn trọn hai chữ Phổ độ, phải làm thế nào? Thầy hỏi?-  Phải bày bửu pháp chớ không đặng giấu nữa. Con phải luyện lại cho thành, nội trong tháng năm nầy về theo Trung đi truyền đạo. Nghe và tuân theo...
Phải mặc y phục như Trung, mà màu hồng."
TNHT. I. 22:
"Thích Ca Như Lai thị Ngã, dục cứu chúng sanh, tá danh Cao Đài Đại Bồ Tát. Nhữ tri hồ?
Hữu Ngã đồ Thái Đầu Sư tại thử, nhĩ vô thức luyện đạo, Ngã phái Ngọc Đầu Sư chỉ giáo thọ bửu pháp.
            Tam thập tứ vị chúng sơn bất tri Chơn lý luyện thành. Ngã vi Chủ khảo giáo hóa. Khả tuân Ngã mạng.
Nhữ đẳng tu thọ pháp, tu thọ pháp. Khâm tai!".
Diễn nôm:
Thích Ca Như Lai là Thầy (TA), muốn cứu chúng sanh, tá danh Cao Đài Đại Bồ Tát. Con biết không?
Có học trò của Thầy là Thái Đầu Sư tại  đây,  nó  không
biết luyện đạo. Thầy phái Ngọc Đầu Sư chỉ giáo thọ bửu  pháp.
34 vị tăng không biết Chơn lý luyện thành. Thầy là Chủ khảo giáo hóa. Khá tuân lịnh Thầy.
Các con tu thọ pháp, tu thọ pháp. Kính vậy thay!
            Quyển "TỨ THỜI NHỰT TỤNG KINH:
Những ngày đầu Khai Đạo, Ngài Ngọc Lịch Nguyệt đóng vai trò quan trọng không kém Ngài Thượng Trung Nhựt.
Ngài được lịnh Đức Chí Tôn sưu tập ba bài Kinh Tam giáo trong Kinh Tam Thánh Đại  Động để  làm  Kinh
của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ. Ngài cùng với Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt phụng soạn và ban hành quyển "TỨ THỜI NHỰT TỤNG KINH", trong đó các bài Kinh Nhựt Tụng của Đạo Cao Đài được viết bằng chữ Nho, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ, cùng là giải thích ý nghĩa tổng quát của mỗi câu kinh, có phần phụ thêm giải về Nghi tiết phụng thờ của Đạo Cao Đài, in và ban hành vào năm Mậu Thìn (1928).
Khi hai Ông Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang rút khỏi Toà Thánh Tây Ninh lập Ban Chỉnh Đạo ở Bến Tre, thì Ngài Ngọc Lịch Nguyệt cũng rời Tòa Thánh, trở về Vĩnh Nguyên Tự tu hành.
Năm 1943, trong công cuộc nhà cầm quyền Pháp khủng bố Đạo Cao Đài, Ngài bị họ bắt đày đi Côn Đảo, đến năm 1945, Ngài mới được trả tự do trở về.
         Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt bị sát hại trong cuộc
chiến chống Pháp xâm lược của phong trào Việt Minh, Ngài qui tại Chợ Lớn ngày 2-9-Đinh Hợi (dl: 15-10-1947) thọ 58 tuổi. Mộ của Ngài đặt tại phần đất phía sau Vĩnh Nguyên Tự, gần mộ của thân phụ Ngài là Cụ Lê Văn Tiểng. Ngài Ngọc Lịch Nguyệt thỉnh thoảng có giáng cơ tại đàn cơ ở Vĩnh Nguyên Tự. Ngày 7-1-Ất Tỵ (1965),
                     THI
NGỌC  chiếu khai xuân đã vẹn tròn,
LỊCH  trình quí giá đáng vàng son.
NGUYỆT  lai sẽ rõ cơ mầu nhiệm,
MỪNG  thấy đệ huynh chí chẳng mòn.
Hỡi chư Hiền Đệ, Hiền Muội!
                       THI
Bần Đạo thấy khắp trong huynh đệ,
Gối đã dùn, chẳng nệ mỏi xương.
Bạc màu tóc đã điểm sương,
Mà không nệ nhọc trên đường quả công.

Thiệt quí giá phúc hồng hiếm có,
Bước dặm trường đi đó đi đây.
Phổ thông giáo lý Đạo Thầy,
Thiêng liêng nương đó giải bày thiệt hơn.

Dầu nóng bức chẳng sờn cực nhọc,
Dẫu ngày đêm lăn lóc phụng hành.
Hiệp hòa lớn nhỏ em anh,
Rày đây mai đó chẳng canh cải lời.

Bần Đạo thấy nghĩ thôi quá tiếc!
Mảnh thân phàm bị diệt tiêu tan.
Lấy đâu làm một con thoàn,
Để cùng huynh đệ một đàng thi đua.

Còn ở tục dễ thừa hành đạo,
Nương cõi đời giả, tạo cái Chân.
Có nhiều phương tiện xa gần,
Để mà khuyến thiện dìu nhân trở về.

Như Bần Đạo lỡ bề thoát tục,
Cõi vô hình mấy lúc tiếc thương.
Tùng chung Tiên Phật một đường,
Muốn dìu sanh chúng phải nương cơ huyền.

Vì lẽ đó lời khuyên hơn thiệt,
Để đệ huynh nghiệm biết gần xa.
Ráng mà khắc kỷ xông pha,
Ráng mà giữ tánh để ra giúp đời.

Đừng bê trễ than ôi uổng bấy!
Đời mỏi mòn chẳng phải còn xa.
Trước tiên gìn giữ chữ Hòa,
Tuy rằng số ít mà ra muôn phần.

Đến Chùa, Thất, rửa lần tội lỗi,
Nghe kệ kinh tắm gội linh hồn.
Mau chân mà tiến bước dồn,
Quả đầy công đủ bảo tồn nguyên căn.
                     THI
Căn lành gìn giữ chớ buông lơi,
Dù mấy năm qua cũng một đời.
Mải miết mặc, ăn cùng chỗ ở,
Hơi tàn vạn sự thảy buông trôi.

Ðêm 22 rạng 23-4-1926 (âl 11/ 12-3-Bính Dần
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI Giáo Đạo Nam phương
I. Ba con nghe dạy cuộc sắp Thiên phong:
“Các con vui không?
Ðạo phát trễ một ngày là một ngày hại nhơn sanh. Thầy nôn nóng nhưng mà Thiên cơ chẳng nghịch đặng, nên phổ thông trắc trở.
Vậy thì ba con (Trung, Cư, Tắc) cứ sắp đặt thế nầy: Trung nghe! Con dời bài vị của Lý Bạch để dưới tượng Thầy, con dọn dẹp trong hết, để một cái ghế kế một bên tran thờ, rồi để lên một cái ghế lớn đặng làm ngôi Giáo Tông, ba cái nữa để sắp hàng theo ở dưới đặng làm ngôi cho ba vị Ðầu Sư. Con phải bao bốn cái ghế ấy cho tinh khiết. Con đem Thiên phục Giáo Tông để nơi ghế ở trên, còn bộ Thượng Thanh thì để giữa, bộ Ngọc Thanh bên hữu, còn ghế bên tả, con phải viết một miếng giấy để chữ "Thái" cho lớn mà dán lên chỗ dựa.
Ngay chỗ bàn ngự của Thầy, phải để một cái ghế trước ngôi ba vị Ðầu Sư, vọng một bài vị, biểu Lịch viết như vầy:
CỬU THIÊN CẢM ỨNG LÔI THINH PHỔ HÓA THIÊN TÔN" lại vẽ thêm một lá bùa "KIM QUANG TIÊN" để thòng ngay giữa, ai ai ngó vào cũng đều thấy đặng. Bàn Thầy giáng cơ thì để trước bàn vọng Ngũ Lôi, khi giáng cơ rồi thì dời đi cho trống chỗ, đặng nhị Ðầu Sư quì mà thề.
Con lại để thêm một cái bàn giữa bên cửa sổ, đằng trước ngó vô.
II. Cư! Nghe dặnCon biểu Tắc tắm rửa sạch sẽ (xông hương cho nó), biểu nó lựa một bộ quần áo Tây cho sạch sẽ, ăn mặc như thường, đội nón. Cười....
Ðáng lẽ nó phải sắm khôi giáp như hát bội, mà mắc
nó nghèo, Thầy không biểu. Bắt nó lên đứng trên, ngó mặt ngay vô ngôi Giáo Tông, lấy chín tấc vải điều đắp mặt lại. Lịch! Con viết một lá phù "GIÁNG MA XỬ"  đưa nó  cầm.
Các con phải thanh tịnh, kể từ ngày nay diệt tận phàm tâm, chớ nhơ một điểm thì ngày ấy thề mới đặng.
Cư! Khi đem ba bộ Thiên phục đến vọng trên ba cái ngai thì con phải chấp bút bằng nhang như mọi lần, đặng Thầy trấn Thần trong ba bộ Thiên phục và ba ngai ấy, rồi mới kêu hai vị Ðầu Sư đến quì trước bửu ngai của nó, đặng Thầy vẽ phù vào mình.
Khi hai vị Ðầu Sư vái rồi, phải đến trước Bửu điện Thầy mà làm lễ (12 lạy) và trước ngôi Giáo Tông (9 lạy), rồi biểu Giảng xướng lên: "Phục vị", thì hai người leo lên ngồi. Cả thảy môn đệ phân làm ba ban, đều quì xuống.
Biểu Tắc leo lên bàn, con chấp bút bằng nhang, đến bàn Ngũ Lôi đặng Thầy triệu nó đến, rồi mới tới trước mặt Tắc đặng Thầy trục xuất Chơn thần của nó ra, nhớ biểu Hậu, Ðức, xông hương tay của chúng nó, như em có giựt mình té thì đỡ.
Rồi biểu hai vị Ðầu Sư xuống ngai, đến quì trước mặt Ngũ Lôi, hai tay chấp trên đầu, quì ngay bùa Kim Quang Tiên mà thề.
Tới phiên các Môn đệ, từ người đến bàn Ngũ Lôi mà thề rằng:
"Tên gì? . . . Họ gì? . . . Thề rằng: Từ đây biết một Ðạo Cao Ðài Ngọc Ðế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư môn đệ, gìn luật lệ Cao Ðài, như sau có lòng hai thì Thiên tru Ðịa lục." (36 chữ)
Tới trước bàn Hộ Pháp cũng thề như vậy, rồi mới đến lạy nhị vị Ðầu Sư.
Bài Thánh Ngôn trên được chia làm hai phần: I và II.
      -PhầnI có trong ÐS.I.108 và Phần II có trong ÐS.I.112.
*Phần I: Ðức Chí Tôn giáng cơ tại nhà Ngài Cao Quỳnh Cư, vào đêm 22 rạng 23-4-1926, Phò loan: Cư - Tắc, hầu đàn có mặt hai Ngài Trung và Lịch. Ðức Chí Tôn dạy hai Ngài Trung và Lịch sắp đặt cuộc Thiên phong nơi nhà Ngài Trung ở đường "Quai Testard", Chợ Lớn.
*Phần II: Ðức Chí Tôn giáng cơ tại nhà Ngài Trung và thực hiện cuộc Thiên phong tại đây, vào ngày Chúa nhựt 25-4-1926 (âl: 14-3-Bính Dần), Phò loan: Cư - Tắc.
Trong ngày nầy, Ðức Chí Tôn trục xuất Chơn thần của Ngài Phạm Công Tắc để Chơn thần của Vi Hộ Pháp nơi cõi thiêng liêng nhập vào, mượn xác Phạm Công Tắc chứng thệ cho nhị vị Ðầu Sư và các môn đệ Ðức Chí Tôn.
Xong rồi, Ðức Chí Tôn lập Minh Thệ cho hai vị Ðầu Sư: Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt.
Sau, Ðức Chí Tôn lập Minh Thệ cho các môn đệ. Ðức Chí Tôn nói: "Bộ Ngọc Thanh bên hữu, còn ghế bên tả để chữ Thái." Nếu tả hữu nầy là bên hữu và bên tả của Ðức Chí Tôn.
            Thơ, con đã ngoan đạo, mà sự ngoan đạo của con đó còn độ lắm kẻ. Thầy khen con!.
Bính, Thầy thưởng công con, cho lên chức Phối Sư. Thầy cám cảnh lòng yêu mến của con, Thầy cám ơn lòng đạo đức của con. Sanh linh còn nhờ công con mà thoát qua khổ hải.
Bản, Thầy thăng chức Giáo Sư.
Trò, Thầy cho lên chức Giáo Hữu.
Nhiều đứa khác nữa, ngày mùng 9, Thầy biểu đòi về cho Thái Bạch phong thưởng.
Thầy ban ơn trọn cả các con, dầu không có mặt tại đây cũng vậy.
Thầy giở cơ lên, các con đều chun ngang qua cho Thầy ban Phép Lành.
Thầy cầu cho các con đặng ngoan đạo như Thơ vậy, sửa mình cho nên Chí Thánh, vì Ðạo năm nay sẽ rõ thấu hoàn cầu, môn đệ tăng thêm hằng hà sa số, phận sự các con lại càng nặng nề hơn nữa, nhưng các con nhớ biết thương Thầy, mà hễ thương Thầy thì ắt thương Ðạo, mà hễ thương Ðạo thì thương hết chúng sanh. Các con biết Thầy là trọng thì biết trọng Ðạo, mà hễ trọng Ðạo thì cũng phải trọng cả chúng sanh.
Trong tháng Giêng nầy, Thái Bạch sẽ hội Nữ phái đặng lập cho hoàn toàn. Thầy trông công các con lắm đó.
Thầy ban ơn cho các con một lần nữa. Thầy thăng”
2 - ĐẦU SƯ NGỌC LỊCH NGUYỆT
            Ngày 28-02-Bính Dần (dl: 10-04-1926) Đức Chí Tôn khai đàn cho ông Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt:
          Đức Cao-Đài dạy: Trung, sau khi cho chư Nhu cầu Đạo rồi, phải khai đàn cho Lịch nội ngày nay. (sau khi khai đàn tại Vĩnh Nguyên Tự xong, chư vị lập đàn Cơ, Đức Chí-Tôn giáng ban cho Ngài Lê-văn-Lịch 4 câu thi):
Đầu Sư phái Ngọc hiệp quần Nho,
Tam Giáo Qui Nguyên dẫn ngã đồ,
Vạn tải vô tư đương hội ngộ,
Đạo thành chí khởi lập Da-Tô.
Ngày 14-07-Bính Dần (dl: 21-08-1926) Thầy dạy về trường hợp Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt. Bài này có in trong Thánh Ng ôn Hiệp Tuyển, xin trích ra một đoạn:
“…Nhưng có điều là Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm Tự phá cổ nên tu nhiều mà thành ít. Vì vậy các con coi thử lại, từ 2000 năm nay bên Á-Đông này đã đặng bao nhiêu Tiên Phật. Các con duy biết có một mình Huệ Mạng Kim Tiên mà thôi”.
(Phần bổ sung) “Các con nghĩ sự tu hành khổ hạnh
dường nào. Đời mạt kiếp này dữ nhiều lành  ít.  Nếu  Thầy
không chuyển Pháp lại thì chưa ai tu đặng trọn Đạo nên Thầy lựa Ngọc Đầu Sư trong hạng thiếu  niên  mới  có  đủ
công phổ độ.
Trong phần nhiều các con chưa vừa lòng cho Lịch ngồi địa vị ấy cho nên có điều cản trở trong sự truyền đạo. Thầy cũng nhìn như vậy, song vì tiền kiếp của Lịch và nhơn đức của Tiểng nên Thầy mới phú thác cái trách nhiệm tối đại ấy cho nó. Các con đều có Chức sắc lớn,  nhỏ; đều thọ Thiên phong nơi Thầy. Cứ giữ phẩm vị các con nhưng có một điều yếu thiết là cầu các con lập nhiều công quả nơi trường Thầy sáng tạo cho khỏi phế hủy nửa chừng. Các con khá gìn luật lệ cho tới ngày Thầy lập thành Tân Luật. Thành cùng chẳng thành cũng do nơi Thầy. Đương lúc đầu Thầy khai Đạo thì Luật pháp rẻ rúng đặng dụ kẻ biếng  nhác. Các con đừng phế phận”
&

(1870-1946)
Thầy Tu làng Hạnh-Thông-Tây

Thánh danh Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Quang Ngài Trần Ðạo Quang, thế danh là Trần Văn Quang (có tài liệu chép là Trần Thanh Nhàn) sanh ngày 10-11-Canh Ngọ (dl: 31-12-1870) tại Ban Dầy, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho.
  Ngài là con trai duy nhứt của ông Trần Chí Hiếu và bà Dương Mỹ Hậu. Hai ông bà làm nghề nông và tu theo đạo Minh Sư, tông Phổ Tế. Ngài có lòng mộ đạo từ nhỏ: năm 12 tuổi, Ngài noi theo cha mẹ, phát tâm tu theo Minh Sư. Ngài chí quyết tu hành. Năm 16 tuổi, Ngài bắt đầu ăn chay trường. 21 tuổi, Ngài  xuất gia  tu  hành,  bắt  đầu  tu  Nhứt Thừa: Nhứt bộ rồi Nhị bộ và Tam bộ, sau tiến lên tu Nhị Thừa qua bốn bậc: Thiên Ân, Chứng Ân, Dẫn Ân, Bảo Ân, rồi Ngài tiếp tục tu lên Tam Thừa, qua hai bậc:
Ðảnh Hàng: lấy đạo hiệu Trần Vận Quang.
 Thập Ðịa là Thái Lão Sư: lấy đạo hiệu là Trần Ðạo Quang. Thái Lão-Sư Trần Ðạo Cửu nhận làm thầy đứng ra khai thị cho Ngài. Việc tu tiến dần lên đến bậc cuối Thái Lão Sư, đạo hiệu phẩm này là Trần Đạo Quang (năm Ngài 45 tuổi). Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang, được sự tín nhiệm của 12 vị Lão Sư Tông Phổ Tế đạo Minh Sư ở Việt Nam, nên Ngài về trụ trì chùa Linh Quang Tự là Tổ đình của Tông Phổ Tế. Sau đó chuẩn bị nhận Tổ Ấn Tông Phổ Tế từ Tổ Sư Trần Đạo Khánh (Trung Hoa). Người dự định phong cho Ngài Trần Ðạo Quang làm “Việt Nam Ðệ Nhứt Tổ” của Tông Phổ Tế đạo Minh Sư ở Việt Nam. (Tài liệu của Huệ Nhẫn)
Khoảng đầu năm Bính Dần, quí Ngài Lê văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Vương Quan Kỳ, Nguyển văn Kinh…đến Linh Quang Tự (Gò Vấp) là nơi Ngài Trần Đạo Quang đang trụ trì, xin lập Đàn cơ theo lịnh Đức Cao-Đài. Tuy đột ngột nhưng do hiểu đạo lý và tự tin, Thái Lão Sư chấp thuận. Đêm ấy, Đức Cao-Đài đã chuyển tâm được Thái Lão Sư Trần Đạo Quang chịu qui hiệp Cao Đài. Nhiều tín đồ tông Phổ tế Minh Sư lúc ấy theo gương Ngài, trong số đó đặc biệt có chư vị  Nguyễn văn Tương (sau đắc phong Thượng Chưởng Pháp), Nguyễn văn Kinh, Bà Lê Thị Ngân (Đạo Minh), Bà Nguyễn  thị  Quyền ( con g ái  Ngài
Nguyễn văn Tương)..
Ngài Trần Đạo Quang thọ Thiên ân Quyền Thượng Chưởng Pháp ngày 12-12-Bính Dần  (dl: 15-01-1927), sau đó Ngài thọ phong chính thức là Ngọc Chưởng Pháp…
Ngài Trần Đạo Quang khi được Đức Chí-Tôn dạy chuyển về Cao-Đài đang là Thái Lão Sư trụ trì Linh Quang Tự tại Hạnh Thông Tây. Một số Đệ tử lúc ấy cũng theo Ngài qui hiệp .
Thời gian tách ra lập Chi Phái:
Sau cùng rồi Ngài cũng tách rời Toà Thánh bởi Ông Thái Ca Thanh lôi kéo được một số Chức sắc hiệp tác với ông buổi đầu như: Ngài Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang.
Khi Ngài Thượng Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương đăng Tiên tại làng Hữu Ðạo quận Cai Lậy thì khoảng hơn một tháng sau, Ðức Chí Tôn phong Ngài Trần Ðạo Quang làm Quyền Thượng Chưởng Pháp ngày  12-12-Bính  Dần (dl: 15-1-1927). (Theo Ðạo Sử của Bà Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu Q.II/ trang 172 và 192)
Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Văn Thụ đăng Tiên ngày 14-5-Ðinh Mão, thì sau đó ít lâu, Ðức Chí Tôn ân phong Ngài Trần Ðạo Quang làm Ngọc Chưởng Pháp chánh vị.
Trong cơ Ðạo phân chia Chi phái, năm 1931 Phối Sư Thái Ca Thanh rút khỏi Toà-Thánh Tây-Ninh về Mỹ Tho lập phái Minh Chơn Lý, Ngài Ngọc Chưởng Pháp hợp tác với Minh Chơn Lý, sau đó thấy ông Ca và ông Phùng sửa đổi hết cách thờ phượng, nên Ngài rút khỏi Minh Chơn Lý, xuống Bạc Liêu hợp với ông Cao Triều Phát mở
ra phái Minh Chơn Ðạo năm 1935.
Năm 1937, Ngài Trần Đạo Quang ra hành đạo ở Ðà Nẵng. Lúc đi ra Trung, Ngài không có giấy thuế thân, nên Ngài lấy giấy thuế thân của người trong làng tên là Hà Văn Thuần để xin làm căn cước thì mới được phép ra Trung. Thế nên khi hành đạo ở Ðà Nẵng, Ngài lấy tên là Hà Văn Thuần. Ngài ủng hộ bổn đạo nơi đây xây dựng được Thánh-Thất Trung-Thành, để làm cơ sở hoạt động của Cơ Quan Truyền Giáo Trung Việt.
Ngày 17-2-Bính Tuất (dl: 20-3-1946), Ngài Trần Ðạo Quang qui Thiên tại chùa Linh Quang Tự ở Gò Vấp, Gia Ðịnh, hưởng thọ 77 tuổi.
Thi hài của Ngài được an táng tại nghĩa trang Minh
Sư gần Linh Quang Tự. Sau nầy, do nhu cầu mở rộng sân bay Tân Sơn Nhứt, Linh Quang Tự và nghĩa trang đều bị giải tỏa, bổn đạo cải táng Ngài về phần đất ở phía sau Thánh Tịnh Minh Kiến Ðài vào ngày 15-8-Kỷ Mùi (1956) thuộc xã Thông Tây Hội, cũng thuộc quận Gò Vấp.
Phái nầy do ba Ngài:
1 - Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang,
2 - Cao Triều Phát, và
3 - Nguyễn Ngọc Thiệu.
Tách khỏi phái Minh Chơn Lý (vì thấy hai ông Ca và Phùng biến cải theo Tà đạo), qui tụ về Giá Rai tỉnh Bạc
Liêu, lập ra phái Minh Chơn Ðạo vào năm 1935. Lúc đầu trụ sở đặt tại Chùa Minh Sư của Ngài Trần Ðạo Quang tại Giá Rai, sau mới lập Tòa Thánh Ngọc Minh ở Giồng Bướm Giá Rai, cũng gọi là Tòa Thánh Hậu Giang. Gần Tòa Thánh nầy có Ngũ Hành Tòa để làm Hiệp-Thiên-Ðài. Phái nầy hoạt động khá mạnh, lên tới tỉnh Vĩnh Long.
           Phái Minh Chơn Ðạo giữ đúng theo Tân Luật, Pháp
Chánh Truyền và lễ nghi của Ðạo buổi sơ khai. Phái nầy không luyện đạo, mặc dầu Ngài Trần Ðạo Quang, trước khi gia nhập Ðạo Cao Ðài, Ngài là Thái Lão Sư cầm đầu Chi Minh Sư ở Việt-Nam. Ngài Trần Ðạo Quang được phong chức Chưởng quản Vô Vi Chưởng quản Cửu-Trùng Ðài, Ngài Cao Triều Phát chức Thái Chưởng Pháp Chưởng quản Hiệp Thiên Ðài, Ngài Nguyễn Ngọc Thiệu chức Ðầu Sư Ngọc Thiệu Nhựt. Sau nầy, Ngài Cao TriềuPhát lại tách ra, ông Nguyễn Văn Kiện tự Huân được phong chức Hộ Pháp Thiên Ấn Tinh Quân, chưởng quản Hiệp Thiên Ðài. Cơ bút của phái Minh Chơn Ðạo phong gần đủ các phẩm Chức sắc cao cấp Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng Đài, như: Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh, 9 vị Thời Quân, 2 vị Chưởng Pháp, 7 vị Ðầu Sư, 3 Chánh Phối Sư (không có phẩm Giáo Tông, bên Cửu Trùng Đài thì chức Chưởng quản Vô Vi là cao nhứt). Sau cuộc đảo chánh của Nhựt Bổn, quân đội Pháp trở lại dùng phi cơ dội bom, trúng Tòa Thánh Ngọc Minh tan tành. Ngài Cao Triều Phát hợp tác với Việt Minh để bảo vệ tín đồ. Sau Hiệp Ðịnh Genève 1954, Ngài Cao Triều Phát tập kết ra Bắc và qui liễu tại đó trong năm sau.

05 - ÔNG NGUYỄN-NGOC-TƯƠNG
(1881-1951)
Tri phủ chủ Quận Cần-Giuộc

1 - Phần đời: Ông Nguyễn Ngọc Tương sanh ngày 26-5-Tân Tỵ (dl: 22-6-1881) tại làng An Hội, tỉnh Bến Tre, thuở nhỏ học tại Collège Mỹ Tho, rồi lên Sài Gòn học ở Lycée Chasseloup Laubat, đậu bằng Thành Chung năm 1902, xin làm Thơ ký phòng Thượng Thơ. Làm nơi đây được một  năm thì xin về làm Thơ ký nơi Tòa Bố tỉnh Bến Tre suốt 17 năm liền.
Năm 1919, thi đậu ngạch Tri Huyện, được bổ làm Chủ Quận Châu Thành Cần Thơ, rồi Chủ Quận Hòn Chông (Hà Tiên), đến năm 1924 thì đổi về làm Chủ Quận Cần Giuộc, qua năm 1927 đổi ra làm Chủ Quận Xuyên Mộc (Bà Rịa).
2 - Phần Đạo: Ngày 19 tháng Chạp năm Ất-Sửu (dl: 1-2-1926) Quí Ngài Lê văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc bạch xin Thầy xuống Cần Giuộc độ Ngài Nguyễn Ngọc Tương, lúc ấy đang làm Chủ Quận. Do trước đó, trong thời gian công vụ tại Hòn Chông  Hà Tiên (1920-1924), Ngài Nguyễn Ngọc Tương có tìm học Đạo Minh Sư, có ăn chay và tập tu thiền, nên con đường nhập môn của Ngài được nhiều thuận lợi. Ngày rằm tháng Giêng Bính Dần (dl: 27-02-1926) tại nhà Ngài (Dinh Quận Cần Giuộc) chư vị lập Đàn Cơ. Thầy giáng rằng:
“Tương, từ đây con trấn nhậm nơi nào thì là hồng phúc của nơi ấy, con nghe!
Con trị ai Thầy cũng trị ai,
Một lòng đạo đức chớ đơn sai.
Năm năm công quả tua bền chí,
Chỉ dẫn nhơn sanh bước lạc loài.
            Ông nhập môn theo Ðạo Cao-Ðài vào tháng 2  năm
Bính-Dần (1926), thọ phong Thượng Chánh Phối Sư ngày 17-5-Bính Dần (dl: 26-6-1926).
Năm 1930, thăng lên Quyền Ðầu Sư.
Cũng năm này, tuân lời dạy của Đức Chí-Tôn, Ngài
Tương xin từ quan.(lúc ấy Ngài 50 tuổi)  để  trọn  lo  hành
Đạo, ứng với lời Thánh truyền “Năm năm công quả tua bền chí” trước  kia.
3- Ngài Tương tách khỏi Toà Thánh Tây Ninh:
Ðầu năm 1934, ông Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang tách khỏi Tòa Thánh Tây Ninh, rút về làng An Hội lập Ban Chỉnh Ðạo và sau đó biến thành Chi phái Bến Tre.
Ngày 8-1-Ất Hợi (dl: 11-2-1935), Ðại Hội Vạn Linh của phái Bến Tre bầu ông Tương làm Giáo Tông phái Bến Tre.
Ngày 7-4-Ất Hợi (dl: 9-5-1935) cử hành Lễ Ðăng điện cho Ngài Tương lên ngôi Giáo Tông ở Thánh Thất  An Hội Bến Tre và từ đó, Thánh Thất An Hội được gọi là Tòa Thánh Bến Tre.
Từ năm 1942 đến 1951, ông Tương thường nhập tịnh trong Tịnh Thất riêng, lúc đó ông thường tự xưng là Lý Giáo Tông.
Ngày 14-4-Tân Mão (dl: 19-5-1951), ông Tương qui thiên, tháp được xây dựng ngay trước Thánh Thất An Hội, Bến Tre
Ngày 18-11-Giáp Tuất (Thứ Hai: 24-12-1934)
Hai ông Tương và Trang về Thánh-Thất An-Hội (Bến Tre) phổ biến châu tri 147 mạ lỵ Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung và Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc.
Hai ông tự phong chức là:
- Tri phủ Lê Bá Trang là CHƯỞNG PHÁP
- Tri phủ Nguyễn Ngọc Tương làm ĐẦU SƯ của
phái Bến Tre.
          4 -  Lập Ban Chỉnh Ðạo (Phái Bến Tre):
Nhớ lại vào đầu năm 1934, khi hai ông rút khỏi Tòa Thánh Tây Ninh về Bến Tre lập Ban Chỉnh Ðạo, với mục đích chấn chỉnh lại nền Ðạo, qui tụ được 85 Thánh Thất theo về với hai ông. Trong lúc đó, toàn Ðạo Cao Ðài chỉ có 128 Thánh Thất, như vậy số Thánh Thất theo hai ông Tương và Trang cùng với số tín đồ chiếm hết 2/3, Tòa Thánh Tây Ninh chỉ còn lại 1/3. Hai ông cố gắng lôi kéo một số vị Thời Quân Hiệp-Thiên-Đài theo về hai ông để cho có đủ hai Ðài: Hiệp-Thiên-Đài và Cửu-Trùng-Đài, nhưng không thành công, vì một số vị Thời Quân, tuy có bất mãn Ðức Hộ Pháp nhưng quí vị ấy muốn giải quyết vấn đề theo chiều hướng khác hơn hai ông kia, nên quí vị ấy không hợp tác với hai ông được.
Thế lực của hai ông rất mạnh, lại được chánh quyền Pháp ủng hộ, nên hai ông tổ chức thuê bao gần chục chiếc xe đò đưa rất đông tín đồ của hai ông về Tây-Ninh dự định sẽ dùng sức mạnh chiếm Nội-Ô Toà-Thánh. Hai ông báo cho Ðức Quyền Giáo-Tông biết ngày 20-1-Giáp Tuất (1934) hai ông sẽ kéo lên Tòa Thánh, vì hai ông nghĩ rằng phần thắng nắm chắc trong tay.
Ðức Quyền Giáo Tông liền thông báo cho Ðức Hộ Pháp. Ðức Hộ Pháp tức cấp huy động tất cả khoảng 500 công quả Phạm Môn chia nhau giữ chặc các cửa vào Nội Ô Toà Thánh. Với sức kháng cự quyết liệt mạnh mẽ của 500 công quả Phạm Môn, lực lượng của hai ông Tương và Trang phải chịu thảm bại, rút lui về Sài Gòn.
Cuối năm 1934, Ðức Quyền Giáo Tông đăng Tiên (ngày 13-10-Giáp Tuất, dl: 19-11-1934). Trong khi đó, tại Thánh Thất An Hội Bến Tre, Ngài Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang tổ chức Ðại Hội toàn thể Chức sắc và tín đồ thuộc Ban Chỉnh Ðạo để bầu cử chức Giáo-Tông:
- Lần bầu cử thứ nhứt: Ngài Lê Bá Trang lên chức Ngọc Chưởng Pháp;
- Lần bầu cử thứ nhì, Ngài Nguyễn Ngọc Tương lên chức Giáo Tông. Ðó là vào năm 1935 (Ất Hợi).
Năm 1938, Ngài Nguyễn Ngọc Tương cử  hành  một
lễ long trọng, tuyên bố nhiệm vụ của Ban Chỉnh Ðạo chấm
dứt. Như vậy là Ngài lập thành Chi phái Bến Tre, xây dựng Thánh Thất An-Hội thành Tòa-Thánh Bến-Tre, tổ chức Cửu Viện, thăng thưởng một số Chức sắc cầm quyền Cửu Viện. Thực lực của phái Bến Tre lúc đầu rất đông và rất mạnh, nhưng vì không có chánh nghĩa nên số người theo ông lần lần rút lui, các hoạt động chỉ cầm chừng, dần dần suy tàn, nhất là sau khi Ngài Lê Bá Trang qui vị. Ngài Nguyễn Ngọc Tương thường nhập tịnh theo cách riêng của ông, càng về sau nầy, Ngài tự xem mình như là một phân thân của Ðức Lý Giáo Tông, nên Ngài tự xưng là Lý Giáo Tông. Năm 1951, Ngài Nguyễn Ngọc Tương qui vị.
Sau đó, phái Bến Tre phân ra làm hai nhóm nhỏ độc lập nhau: Một nhóm tại Tòa Thánh Bến Tre, một nhóm tại Thánh Thất Tân-Túc (Bình Chánh) và Thánh Thất Ðô Thành đường Hậu Giang Chợ Lớn. (Ðức Quyền Giáo Tông giáng cơ tiết lộ cho biết: Ngài Nguyễn Ngọc Tương là chơn linh của Ngô Tôn Quyền tái kiếp, Ngài Lê Bá Trang là chơn  linh  Quan Vân Trường thời Tam quốc)
Trong  thời gian này có 5 bức thư khá quan trọng: Bức thơ số 1
    Ông Thượng Tương Thanh gởi cho Thái Ca Thanh Ghi lại mấy ý chánh:
- Tôi thấy rõ là một cuộc khảo do nơi Tam-Trấn để cho Tà Thần mượn tên cám dỗ, trong ba cái bịnh lớn của con người là “Tham, Sân, Si” Nếu bậc cầm đuốc dẫn đường mà không trừ hết, còn một hai cũng phải bị vướng.
       Thánh-ngôn Cơ Bút của Hậu-giang từ khi ban sơ đến bây giờ… Có một phần rất ít của Tiên Thánh, còn bao nhiêu đều là Tà mưu chước quỉ của Tà Thần cám dỗ.
…Nếu phăn lại gốc thì Tôi rõ biết, khi ban  sơ  lúc  Anh
thay mặt cho Tôi ở Toà-Thánh, Anh có bất bình về sự hành
động cử chỉ của mấy vị Đại-Thiên-Phong nơi đây đối đãi với Anh.
…Dụ được Anh rồi nó dắt Anh đi lần lần, từ mấy thứ “An Thiên Đại Hội” qua đến lập Toà-Thánh Tam Bình Kiên-giang Thất Sơn, đã nhiều phen tiên tri này nọ đều trôi hết, nay đem Anh trở về lập Toà-Thánh Trung ương Mỹ tho, là chỗ ở của Anh, Tôi xét kỹ thiệt toàn là công cuộc của Cơ cám dỗ Hậu-giang. Do sự bất bình kia mà gầy tạo ra đó ! Anh suy-nghĩ đến thì Anh thấy liền, Cơ ấy lợi dụng cái danh, cái chức của Đạo mà dụ người
 …Sau khi kích bác nhục mạ Tây-Ninh rồi bố cáo mà dán khắp Lục Tỉnh mong Anh và các Chư vị giúp để cho Tà Thần xúi giục mà hăng-hái thọ lãnh gia phong lập riêng một Hội-Thánh Trung-ương tự mình làm chủ, làm cho ai trông vào cũng thấy cái Chủ nghĩa Minh-Chơn-lý của Hậu-giang kết chung lại là một trường háo danh ham chức đó là “Tôi”. Đạo ở nơi nào? Đức ở nơi nào?
  … nên Thầy đã căn dặn: Ngoài Thập Nhị Thời quân của Thầy đã chọn đừng vội tin Thầy có giáng Cơ nơi này nơi nọ, mà phải bị lầm mưu Tà quái cám dỗ.
    …Trong lòng anh thiệt hết giận rồi, thì cái màn bí mật che án sẽ xủ xuống. Anh sẽ thấy tỏ rõ chi cũng có Thầy biết, cũng có chư Phật, Thánh, Tiên hay.
       Thiên-phong Chức sắc nào ở Tây-Ninh thiệt có tội thì bị phạt, không khi nào chạy khỏi.
 Vì Anh sẽ thấy rõ chữ Nhựt trong Đạo-hiệu Thái Ca-Thanh của Anh. Đó là một cái lắt-léo của Cơ để cho Anh biết mà phân biệt chơn giả đó. Trong lòng Anh thiệt hết giận rồi, tự nhiên Anh cũng sẽ thấy rõ-ràng là không có Thần hay Tiên Thánh nào xúi Anh thêm nghịch, dạy Anh chia lìa, đốc Anh truyền rao nhục mạ Tây-Ninh rồi lại gia phong cho Anh và các vị theo giúp Anh, hối đốc lập dựng Thánh Thất Cầu Vỹ mà làm Toà-Thánh để nhóm Hội-Thánh Tây Ninh, mượn nhà Anh mà làm Hiệp-Thiên Đài, Anh sẽ thấy rõ ràng là cơ cám dỗ nương cái hơi phiền-phức của Anh và chư vị kia mà phát hiện những sự ấy đặng giúp cho mấy Anh Em được thoả tình tư tưởng.
….   Nếu Anh và các Anh theo Anh mà còn dụ-dự, tiếc áo-mão thì cái Minh-Chơn-lý của mấy Anh em sẽ bị nơi áo-mão đó mà mất hết chủ-nghĩa hay, rồi cũng vì áo-mão đó trì nặng phải chìm không phương cứu vớt.
       Tây-Ninh 1er Novembre 1932( Thượng Tương Thanh)
            Thầy có dạy rồi: Trời không hai mặt, đất chẳng hai vua. Cũng vì chữ “NHỰT” của Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt mà ông Thái Ca Thanh quá ham muốn nên mích lòng với Ngài Đầu Sư xong rồi tách khỏi Toà Thánh Tây Ninh và xưng đạo hiệu là Thái Ca Nhựt, cũng như ông Ngọc Thiệu cũng lấy đạo hiệu là Ngọc Thiệu Nhựt, rồi nảy sanh chi phái. Thực ra chữ NHỰT đây trước nhứt là phải đủ Tam bửu của Trời là NHỰT- NGUYỆT- TINH do Đức Chí Tôn ban cho thì mới có giá trị, chứ nào phải đâu do ham muốn quá mà tự ban cho mình thì có giá trị gì đâu !
Thầy có dạy rồi:
Đạo Thầy nhiều nhánh các con ôi!
Nhánh có trái bông, nhánh cụt còi.
Thiết nghĩ đây là do Thiêng liêng ban thưởng nào phải do ý phàm mà tính rối, rồi mích lòng mà lập ra chi phái này nọ, nọ kia làm cho cơ Đạo phân chia manh mún, thật là của qúi không biết dùng, lại vội phân chia mà tan tành manh mún. Ôi thương thay Đạo Trời cao vòi vọi, mà trí phàm thì quá hạn chế !

06 - NGUYỄN-NGỌC-THƠ
(1873-1950)
Thánh danh Đầu Sư Thái Thơ Thanh
1 - Phần đời:
Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh, thế danh là Nguyễn Ngọc Thơ, tên thật là Nguyễn Văn Tơ, sanh năm 1873 tại quận Bãi Xàu tỉnh Sóc Trăng, sau lên Sài Gòn lập nghiệp ở Tân Định. Thân sinh là Ông Nguyễn Hưng Học, cháu ruột của Trung Quân Nguyễn Văn Thiền (kêu bằng Chú ruột), vốn dòng trâm anh thế phiệt, trung hưng công thần.
Thuở thiếu thời, Ngài theo Nho học, sau theo Tây học, rất ái mộ Phật giáo, phụng thờ cha mẹ rất hiếu hạnh. Ngài có làm Thơ Ký tại phòng Phiên dịch được ít lâu, sau nghỉ ở nhà, noi theo nghiệp làm thầy hốt thuốc Bắc của ông thân, rồi ra làm thầy hốt thuốc, lại có phụ dịch nhựt trình cho nhựt báo tỉnh.
Sau đó, Ngài bước qua đường buôn bán, mở mang trước nhỏ, sau to, trở nên giàu có, mua được một sở Đại Thương Cuộc tại Sài Gòn. Nhà cầm quyền Pháp lúc bấy giờ cử Ngài làm Hội Đồng Thẩm Án tại Tam Tòa Sài Gòn, tất cả trước sau được thưởng 7 Huân chương với 2 tấm Kim Khánh, Kim Tiền.
Chánh thất của Ngài là Bà Bùi Thị Đông, một phụ nữ khôn khéo bề tề gia nội trợ, thuận tùng theo chồng, tạo lập nhà cửa, phố xá tại Tân Định, sự nghiệp càng ngày càng thạnh lợi, bề thế lớn lao.
Về sau, Ngài được ban cho phẩm Hàm Tri Huyện, nên người đời thường gọi Ngài là ông Huyện Thơ.
Ông Nguyễn Liên Phong, trong tập Điếu Cổ Hạ Kim Thi Tập có làm bài thơ khen tặng Ngài Nguyễn Ngọc Thơ:
Làm trai chí khí trước sau bền,
Án viện luận bàn hiển họ tên.
Nề nếp ông thân khuôn những tạc,
Phụng thờ từ mẫu thảo tâm đền.
Dựng nền buôn bán ra đồ sộ,
Cậy sức vợ hiền hiệp giúp nên.
Nẻo lợi thâu vào thành nghiệp cả,
Ơn nhờ che chở hộ hai bên.

Con gái của Ngài Nguyễn Ngọc Thơ là Nguyễn Thị
Hương, có chồng là Trương Văn Tuấn, chủ nhà in Đức Lưu Phương ở Tân Định, sanh người con trai là Bác sĩ Trương Văn Quýnh. Bà Nguyễn Thị Hương cũng theo cha nhập môn vào Đạo Cao Đài, đắc phong phẩm Giáo Hữu ngày 14-Giêng-Đinh Mão (dl: 15-2-1927) đàn cơ Phong Thánh Nữ phái kỳ I.
2- Phần đạo:
Đầu năm Bính Dần (1926), Ông Phạm Tấn Đãi, nhà ở Rạch Kiến, tỉnh Long An, thường chấp bút để học đạo. Ngày nọ, Ông chấp bút thì được lịnh Đức Chí Tôn dạy: "Con hiệp cùng Trung để đi độ Thơ."
Ông Phạm Tấn Đãi (sau đắc phong Khai  Đạo Hiệp  
Thiên-Đài) vâng lịnh Đức Chí Tôn lên Sài Gòn, tìm đến nhà Ông Cao Quỳnh Cư để hỏi thăm nhà Ông Trung.
- Bà Cư đáp: Ông Trung có ra đây, vừa mới đi lên nhà Ông Thơ.
Ông Đãi hỏi thăm địa chỉ của Ông Thơ, liền đi lên Tân Định tìm nhà Ông Thơ, thì gặp Ông Trung tại đó.
Ông Đãi liền trình bày Thánh giáo của Đức Chí Tôn dạy cho hai ông xem. Ông Thơ xem xong nói: Tôi muốn làm sao hai ông cầu nguyện thế nào cho tôi chấp bút được thì tôi mới tin.
Ông Trung liền chịu và bảo Ông Thơ phải trai giới ba ngày, đồng thời hai Ông Trung và Đãi cũng ở đó hiệp nhau cầu nguyện. Ông Thơ chấp bút thông công được với các Đấng một cách tốt đẹp, nên Ông bằng lòng theo Đạo. Ông nói với Ông Trung và Ông Đãi làm thế nào để độ cho vợ của Ông là Bà Lâm Ngọc Thanh đang ở Vũng Liêm theo Đạo luôn cho thuận chiều xuôi gió một đường.
Ông cầu nguyện, Ơn Trên cho biết hiện giờ nầy bà Lâm Ngọc Thanh đang làm gì ở Vũng Liêm, cho biết từng chi tiết để ông ghi chép, rồi hôm sau, ông đánh điện kêu bà lên Sài Gòn. Khi bà lên tới Sài Gòn, ông hỏi các hoạt động của bà trong ngày vừa qua thế nào, thì bà nói đúng như Ơn Trên đã mách bảo, không sai một mảy. Thế là hai ông bà đều tin và theo Đạo.
Hai ông bà Thơ bàn tính làm thế nào để độ Thầy mình là Hòa Thượng Như Nhãn theo Đạo luôn. Ông Trung và ông Thơ cậy ông Đãi ra nhà ông Cao Quỳnh Cư để mời ba ông Cư, Tắc, Sang và Đạo hữu đến nhà ông Thơ để lập đàn cầu cơ. Đàn Cơ được kết quả, Đức Chí Tôn thâu phục được Ngài Như Nhãn.
Tại nhà của Ngài Nguyễn Ngọc Thơ ở Tân Định, Đức Chí Tôn cho phép mở một cái Đàn để thâu nhận những người mộ đạo, Ngài Thơ chứng đàn, phò loan là hai Ngài: Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc.
Ngày 2-7-Bính Dần (dl: 9-8-1926), Đức Chí Tôn phong Ngài Thơ làm Phối Sư phái Thái, cầm quyền Thái Chánh Phối Sư, Thánh danh là Thái Thơ Thanh.
Ngày 17-2-Quí Dậu (dl: 12-3-1933), Ngài Thái Thơ Thanh được thăng lên Quyền Thái Đầu Sư.
Ngài Nguyễn Ngọc Thơ đã chấp nối thành vợ chồng với Bà Lâm Ngọc Thanh ở Vũng Liêm, tục gọi là Bà Huyện Xây. Hai Ông Bà đều được Đức Chí Tôn độ theo Đạo và về sau Bà Lâm Ngọc Thanh đắc phong Nữ Đầu Sư, Thánh danh là Hương Thanh.
Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh và Bà Lâm Hương Thanh, nhờ giàu có sẵn và một lòng tin tưởng vào nền Chánh giáo của Đức Chí Tôn nên đã đem nhiều tiền bạc ra hiến cho Đạo trong buổi sơ khai để xây dựng nền móng cho Đạo, như sau:
-  Khi Hòa Thượng Như Nhãn hiến chùa Từ Lâm Tự tại Gò Kén (Tây Ninh) cho Đạo Cao Đài làm Thánh Thất để tổ chức Lễ Khai Đạo, Ngài Thái Thơ Thanh xuất tiền ra tu bổ, sơn phết, trang trí lại thành một Thánh Thất Cao Đài, làm đường thông ra quốc lộ cho rộng rãi, cất thêm nhà cho bổn đạo ở làm công quả ... Nhờ vậy mới có chỗ rộng rãi tốt đẹp để tổ chức long trọng Đại Lễ Khai Đạo Cao Đài ngày 15-10-Bính Dần (dl: 19-11-1926).
- Qua đầu năm 1927, Hòa Thượng Như Nhãn đổi ý, đòi chùa Từ Lâm lại, không hiến cho Đạo Cao Đài nữa, Đức Lý Giáo Tông dạy Ngài Thái Thơ Thanh hiệp cùng chư Chức sắc Cửu Trùng Đài và Hiệp-Thiên-Đài đi coi mua 100 mẫu đất rừng tại làng Long Thành với giá 25.000 đồng thuở đó để làm nơi xây dựng Tòa Thánh và các cơ quan Trung ương của Đạo, trả chùa Từ Lâm Tự lại cho Hòa Thượng Như Nhãn. Số tiền 25.000 đồng mua đất do Ngài Thái Thơ Thanh và Bà Lâm Hương Thanh xuất ra cho Hội Thánh mượn..
- Ngài Thái Thơ Thanh xuất tiền in 10.000 tấm Thánh Tượng Thiên Nhãn Ngũ Chi khổ lớn để phát không cho bổn đạo lập Thiên bàn thờ Đức Chí Tôn tại tư gia.
Riêng phần Ngài Thái Thơ Thanh và Bà Lâm Hương Thanh thì xuất tiền ra khai thác một sở rừng hoang để xây dựng Cực Lạc Cảnh, có ý muốn qui tụ các tăng ni Phật giáo qui hiệp về đây tu hành theo Tân pháp Đạo Cao Đài, nên lập ra nhiều cảnh như: Quan Âm Các, Long Nữ Điện, Tây Vức Trì, đặt tên các con đường là: Phước Đức Cù, Di-Lạc Đạo. Tuy là cảnh tạm nơi cõi trần mà nghe qua như là cảnh Phật nơi cõi Cực Lạc Thế giới..
Sau đây là Sớ Văn phúc trình của Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh và Bà Lâm Hương Thanh (lúc cầm quyền Nữ Chánh Phối Sư) dâng lên Hội Thánh và Đức Chí Tôn.

ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Đệ lục niên)
Chánh ngoạt,  sơ  nhị  nhựt,  Tân  Vị,  Khâm  Thiên
Tổng quản Tài Chánh, phụng sắc Chưởng quản tài liệu, Tổng lý Công viện, Lương viện, Hộ viện, Nông viện, Phổ Độ viện.
Quyền Thái Đầu Sư Chủ Tọa Hội Thánh, Quản lý tạo tác Tổ đình, Thái Thơ Thanh kỉnh bút.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đệ lục niên, Chánh ngoạt, sơ tam nhựt, Tân Vị, Nữ Chánh Phối Sư Hương Thanh đề bút.
Tượng mảng Đại Đạo hoằng khai Tam Kỳ Phổ Độ lưu truyền thiên vạn cổ, bủa khắp Ngũ Châu, thì nền Chơn đạo phải to tát mới ra cảnh tượng thể thống Đạo cả.
Vì vậy mà hai tôi nong nã  đêm  ngày  lo  mở  mang
cuộc Thánh địa, chế ra nền Tây Vức, bởi công trường cực nhọc, trên nhờ sức thiêng liêng Đại Từ Phụ ban bố, mới xui khiến mua thêm được 100 mẫu đất rừng, của tư bổn vợ chồng tôi xuất ra mua, liên tiếp Thánh địa, nối dài ra tới Ngã ba Mít Một (Boulevard d'Anglais), bề mặt tiền trên 2000 mét, giáp ranh Bá Huê Viên, nối liền Động Đình Hồ, 1000 mét Thánh địa nữa, cộng chung là 3000 mét.
Cầu nguyện Đức Chí-Tôn ban ơn ngày sau Hội Thánh mở mang ba phía là Đông, Nam, Bắc, mỗi phía 3000 mét, vuông vức cộng là 12.000 mét vuông, đặng xây vách thành cao lớn giáp bốn phía, dựng nên miền Tây Vức, đề hiệu là THÁI CỰC TOÀN ĐỒ.
Trong chia ra hai cuộc: Phía Chánh Bắc, xây cửa thành lớn, đắp nổi cao chữ "ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ", lộ ra bốn chữ to tát là "ĐẾ THIÊN THƯỢNG HOÀNG"; còn phía Chánh Nam, cũng tại cửa thành y kiểu ba mặt như nhau, đề hiệu là "ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ", hiện ra bốn chữ "ĐẾ THÍCH PHẬT TỔ"; phía Chánh Đông, tạo một cuộc Ngũ Quang Môn, nghĩa là Đại Thành Môn, có năm cửa Ngũ  Chi  Đại  Đạo,  hiện  ra  bốn
chữ "THÁI CỰC TOÀN ĐỒ"; còn Chánh Tây Môn thì cửa thành y kiểu ba phía đề hiệu là Tây Vức Cảnh.
Trong Thái Cực Toàn Đồ chia ra làm hai cuộc: Bên phía Bắc là BẠCH NGỌC KINH, tạo tác Tổ Đình, có Bá Huê Viên, Động Đình Hồ, Đức Thế Tôn ngự mở cảnh thoát trần, Đức Di-Lạc giáng thế khai Long Hoa Hội. Hai bên là Rừng Thiên Nhiên, phía sau lập Cửu Viện, Thiên Phong Đường, Đầu Sư Đường, Chánh Phối Sư Đường, Hộ Pháp Đường, Thái Y Viện, Dưỡng Lão Ấu, Tịnh Thất Sở, và Học Đường, Dưỡng Đường, với các xưởng Bá công kỹ nghệ. Còn các con đường: 1 - Như Lai Đồ.  2- Di-Lạc  Đạo. 3-Phước Đức Cù. 4-Oai Linh Tiên. 5- Bình Đặng Đồ. 
6- Sử Quân Tử.  7- Thái Hòa Lộ,.   8- Bình Dương Đạo.
Còn bên phía Nam thì tạo CỰC LẠC VÔ VI CẢNH GIỚI, là đắp con đường chữ Thập lớn dài từ Nam chí Bắc, từ Đông giáp Tây, gọi là TỨ TƯỢNG ĐỒ biến BÁT QUÁI, chính giữa Ngã Tư biến ra Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Giữa trung tim, un đúc một cảnh Nội Điện Đế Thích, giống in như cuộc cổ tích trên chốn Đế Thiên gần nước Xiêm La vậy.
Phía bên hữu Tây Bắc thì tạo Quan Âm Các, phía bên tả Tây Bắc thì dựng Long Nữ Điện. Phía bên hữu Đông Bắc thì cất Tòa Kinh Viện 15 căn lầu ba từng nóc. Phía bên tả Đông Nam thì xây núi Tô Sơn, trên chót núi có đắp tượng Đức Thế Tôn nằm qui Niết Bàn, bề dài 12 thước tây, trên đảnh trung có Thạch động Phổ Đà Sơn, Đức Từ Hàng Đạo Nhơn thành Phật ấy là năm cuộc to lớn.
Còn các cuộc nhỏ khởi tạo trước là: tạo Thất Bửu Tháp, đào Tây Vức Trì, cất Thưởng Liên Đình, tạo Từ Thiền Lâm. Trong cuộc Từ Thiền có 3 con đường cái:
     1-Bát Nhã Đạo   2- Bồ Đề Lộ.  3- Như Ý Cảnh.
Lựa những bậc chơn tu  trường  trai   khổ  hạnh,  từ
trung thừa sắp lên mới cho vào trong cuộc Từ  Thiền  Lâm
nầy, vuông vức 500 công.
Ấy là bên hướng Nam.
Còn bên hướng Bắc thì Thái Bình Địa, cũng 500 công, cất Chợ Từ Bi, Nhà Thương, Nhà Thí, Nhà Mát, Nhà Nghỉ cho bực tín đồ nhập môn theo Hạ thừa sắp lên thì được phép ở. Ước mong ngày sau, Hội-Thánh mở mang cuộc Thánh Địa nầy cho giáp hết núi Điện Bà đặng ra vẻ nền Chơn đạo.
Trân trọng một bài kính cáo, nguyện cầu  Đạo mạch
hoàn toàn lưu truyền, trăm họ trước sau an nhàn.
Thái Thơ Thanh, Lâm Hương Thanh kỉnh đề.
Chuyển đạt Thiên Đình, ngưỡng vọng Đại Từ Phụ Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chứng chiếu.
Ngu đệ tử phục thủ bá bái.

3 - Vài nét về: CỰC LẠC CẢNH:
Nguyên nhân tạo Cực lạc Cảnh ? -Vào năm Quí Dậu (1933) Đức Hộ Pháp cho công thợ xây dựng Báo Ân Từ. Kể như Đức Ngài chuẩn bị dành khi di dời tạo Tòa Thánh sẽ làm nơi thờ phượng. Trong giai đoạn nầy ông Quyền Thái Đầu Sư chủ tọa Hội Thánh quản lý tạo tác Tổ đình, Thái Thơ Thanh kỉnh bút:
Ông cùng bà Lâm Hương Thanh, Nữ Chánh Phối Sư mua thêm 100 mẫu đất liên tiếp Thánh Địa, có thượng tấu với Đức Chí Tôn và thông tri toàn Đạo. Đông, Tây, Nam, Bắc mỗi phía ba ngàn thước vuông vức, chu vi là 12 ngàn thước đặng xây vách thành cao lớn bốn phía dựng ra miền Tây Vức đề  bốn chữ nổi “THÁI CỰC TÒAN ĐỒ”.
Ông Tạo Bát Bộ Kim Cang có 8 cảnh:
1 - Quan Âm Các     2 - Long Nữ Điện      3 - Tàng Kinh Viện
4 - Phổ Đà Sơn        5 - Kim Cang Động    6 - Bồ Đề Ốc
7 - Tây Vức Trì        8 - Bát Bửu Tịnh Thất.
Phần trong có Lục Thông Cơ sở:
1 - Giảng Đường      2 - Tịnh Đường              3 - Túc Đường
4 - Dưỡng Đường    5 - Thiên Ân Đường       6 - Học Đường.
            Còn về lộ:
1 - Như Lai Đồ          2 - Di Lạc Đạo         3 - Phước Đức Cù
4 - Oai Linh Tiên      5 - Bình Đẳng Đồ      6 - Sử Quân Tử
7 - Thái Hòa Lộ        8 - Bình Dương Đạo
9 - Tây Qui Trực Chỉ  10 - Thượng Hòa Lộ.
Bên ngoài phía Đông trong cuộc từ Thoàn Bát Bộ Kim Cang có 3 con lộ:
         1 - Bát-Nhã-Lộ       2 - Bồ Đề Lộ        3 - Như Ý Cảnh.
            Thế nên đêm 01-07-Tân Mùi (1931) tại Bửu Điện
Tòa Thánh Đức Hộ Pháp với Văn Pháp Phò Loan Đức Lý giáng cơ rầy ông Thái-Thơ-Thanh phải bỏ cả hình tướng Thiền-môn thì mới mong tạo thành Cực Lạc Vô Vi cảnh giới, hiểu à ? Muốn tạo Cực Lạc hỏi Hộ Pháp chỉ cho.
Đến 09-12-Tân Mùi, 12 giờ khuya Hộ Pháp chấp bút. Quan Âm giáng điển cho thi như sau:
Đại kế qui nguyên vĩ đình thì, 
Hành tàng cụ Pháp chưởng phong lôi.
Thiền môn nhược bất khai môn nội,
Cửu nhị nguyên nhân bất cố hồi.

Rồi đến 15-12-Tân Mùi (dl: 22-1-1932) tại Phạm Nghiệp: Phò Loan Hộ Pháp- Tiếp Đạo. Hầu bút Sĩ Tải Ngọ. Hầu đàn Đức Quyền Giáo Tông và ông Thái Thơ.
Đức Chưởng Đạo về cơ có câu:
Kẻ vì mị đoái hoài giả tạo, 
Kẻ hay tin quái giáo gây trò.
Nguyên nhân lỡ bước ai lo?
Đem đường Cực lạc đưa đò mê tân.
Đức Chưởng Đạo nói khó viết nên thăng nhờ Lục Nương tiếp giáng điển toàn bài  cũng  đề  tài  khuyên  ông
Thái Thơ có những từ như sau:
Phải hiểu nghĩa Thiền Lâm cho rõ, 
Các thinh âm chẳng có cửa Không. 
Bớt điều sắc tướng huờn vong, 
Bớt điều hồ mị nhọc lòng phạn hương 
Bớt các lễ người đương mê!
Đức Chí Tôn giáng cơ dạy Ngài Thái Thơ Thanh:
TNHT. II. 6: "THƠ, nghe dạy:
Thời kỳ Mạt pháp nầy khiến mới có Tam Kỳ Phổ Độ, các sự Hữu hình phải hủy phá tiêu diệt.
Thầy đến chuyển Đạo, lập lại Vô Vi, các con coi thử bên nào Chánh lý: Hữu hình thì bị diệt  đặng,  chớ  Vô
Vi chẳng thế nào diệt đặng.
Thơ! Thầy đã khiến con đi Đế Thiên Đế Thích đặng xem cho tạng mặt Hữu hình, nội thế gian nầy ngày nay ai cũng nhìn nhận cho là tối đại, mà con đã thấy nó còn bền vững đặng chăng? Lòng đạo đức của con, Thầy thấy rõ, nhưng thời giả dối đã qua, thời kỳ chân thật đã đến, Thầy không muốn cho con hao tài tốn của mà gìn giữ sự giả dối.
Chẳng cần chi con lập Thánh Thất của Thầy và sùng tu Phật tượng chi hết. Con hiểu bổn nguyên Bảo Sanh là bổn nguyên Thánh chất Thầy. Thầy khuyên con để dạ lo cho nhơn sanh mà thôi, phần hồn về Thầy."...
Các Đấng thiêng liêng giao cho Lục Nương Diêu Trì Cung giáng cơ trả lời Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh về Tờ Sớ xin làm Cực Lạc Cảnh và Thái Cực Đồ.
Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng mở đầu, sau đó nhượng cơ cho Lục Nương.
   NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN
Mặt nhựt rạng nhờ trời thanh bạch,
Cõi trần may nhờ khách đức dày.
Mùi hương sen Phật đã bay,
Từ bên Đông Á phô bày Tây Âu.
Nước hằng sống rửa bầu thế sự,

Khiến nguyên nhân đổi dữ theo lành.
Vạn bang dẹp cuộc chiến tranh,
Lập cơ thoát khổ độ sanh muôn loài.
Kẻ vì mị đoái hoài giả đạo,
Kẻ hay tin quái giáo gây trò
Nguyên nhân lỡ bước ai lo,

Đon đường Cực Lạc đưa đò mê tân.
Khá hiểu nghĩa Thiền Lâm cho chóng,
Các nguyên nhân trông ngóng bấy lâu.
Biết thân lại đợi ai cầu,

Tái cầu, Lục Nương tiếp:
Cầm gươm thần huệ soi lầu nguyệt quang.
Dục thế tục an nhàn lấy phận,
Cửa Thiên cơ khỏi vấn vương oan.

Để chân vào cõi Niết Bàn,
Thoát vòng luân chuyển may đàng tầm duyên.
Tu đặng phép nhà Thiền ít kẻ,
Những đam mê theo lẽ dối đời.

Sa môn chánh pháp đổi dời,
Con buôn cửa Phạm gạt người thiện tâm.
Khá hiểu nghĩa Thiền Lâm cho rõ,
Các thinh âm chẳng có cửa Không.

Bớt điều sắc tướng hoàn vong,
Bớt điều hồ mị nhọc lòng phạn hương.
Bớt những lẽ người đương mê tín,
Nhập Tịnh gia cậy lịnh Thích Ca.
Bớt điều làm sãi bó ma,
Đưa linh lại mượn có nhà minh sanh.
Bớt những lẽ giựt giành bái phước,
Lấy Vu Lan đặng được ấm no,
Bớt kinh bớt xá dâng thơ,
Mã môn con hát giả đò giải khiên.
Bớt cậy Phật lập quyền Địa Ngục,
Bớt đồ mưu lấy phục Di-Đà.
Bớt phương giải nạn tinh ma,
Lập nên danh phận cho nhà quỉ tăng.

Thái Thơ thanh,
Anh khá kiếm lời răn của Phật,
Lấy từ bi dìu dắt sa môn.
Phật tăng như xác không hồn,
Lấy câu cứu khổ làm môn độ đời.
Anh khá mở cho rồi Cực Lạc,
Lập đường tu cho các chư sơn.
Tùng theo Tân Pháp Chí Tôn,
Đường tu cửa Phật may huờn như xưa.
EM nói rõ cho vừa ANH hiểu,
Bác Thiền Lâm, tùng kiểu Tam Kỳ.
Phép mầu hai chữ Từ Bi.
THĂNG

Đức Chí Tôn giáng cơ tiết lộ cho biết, nguơn linh của Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh là Từ Hàng Bồ Tát, và của Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh là Long Nữ, đồ đệ của Đức Quan Âm Bồ Tát và của Ngài Đầu Sư Thái
Nương Tinh là Văn Thù Bồ Tát.
Sau đây xin chép lại bài: Đức Phạm Hộ Pháp xuất vía về Bạch Ngọc Kinh và Cực lạc Thế giới, thấy Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh, Chơn linh của Đức Từ Hàng Bồ Tát giáng trần, vào năm Đinh Mão (1927):
"Lúc mở Đạo ở Nam Vang (Tần quốc), Đức Phạm Hộ Pháp xuất Chơn thần về Thiên đình, qua Bạch Ngọc Kinh và Cực Lạc Thế giới, thấy Cửu phẩm Liên Hoa, nên thuật y câu chuyện lại cho Ngài Thái Thơ Thanh nghe như vầy: Đương lúc mơ màng, Chơn thần liền xuất đi, thấy ngồi trên một cái xe ngựa, day qua thấy cảnh Thất thập nhị Địa, qua đến Tứ Đại Bộ Châu, nhìn thấy Đức Chí Tôn đứng trên Tòa Kim Khuyết, Đức Lý Giáo Tông cũng đứng trên bàn, kế Chức sắc Thiên phong, mấy vị Đạo tâm đứng hầu Ngài….”
Năm 1950, Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh trở về nhà riêng ở Tân Định Sài Gòn để dưỡng bịnh. Ngài bị một bọn cướp ăn mặc giả trang là người thân đến thăm, lọt được vào nhà, chúng ám hại Ngài để cướp bóc tiền của và vàng bạc.
Ngài qui vị ngày  21-7-Canh Dần  (dl: 3-9-1950)
hưởng thọ 77 tuổi.
Hội Thánh hay tin, đem Liên đài xuống Sài Gòn để tẫn liệm thi thể rồi rước về Tòa Thánh Tây Ninh làm lễ Đạo táng rất long trọng. Liên đài nhập Bửu tháp, xây tại Đông Lang Tòa Thánh và đem bửu ảnh thờ nơi Báo Ân Từ
Bài thài hiến lễ Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh:
Tu thân giáo hóa chỉnh đời thanh,
Đồng chúc lê dân hưởng phước lành.
Cõi tục cầu an kinh tụng niệm,
Lời truyền nguyện thấu đến cao xanh.
Mưa nhuần gió thuận Nghiêu - Thang tịnh,
Nắng tốt tuyết hòa Thuấn - Võ thanh.
Đồng hưởng đời đời câu thạnh trị,
Tiêu diêu khoái lạc chí hùng anh.

Bài thài nầy về sau được Hội Thánh dùng làm bài thài hiến lễ chung trong Lễ cúng kỹ niệm và tế lễ  các vị Nam Nữ Đầu Sư quá vãng hằng năm.
Ngày mùng 8-4-Nhâm Dần (dl: 5-8-1962), tại Thánh Tịnh Huỳnh Quang Sắc ở Bình Đông, Chợ Lớn, Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh có giáng cơ cho bài thi ngụ ý cho biết Ngài trở về cõi thiêng liêng được đắc phong là Từ Hàng Đạo Nhơn.
                    THI
TỪ  bi xây dựng lập ban vui,
HÀNG  mặc viết tu bước thẳng xuôi.
ĐẠO  lý sáng soi dìu khách tục,
NHƠN  luân tô điểm tợ hoa tươi.
NGUYỄN  gia gội phước gìn nên một,
NGỌC  quí đượm màu giữ vẹn mười.
THƠ  phú Thần Tiên ngâm hiểu nghĩa,
GÍANG  khuyên ráng học đạo làm người.

Khoán thủ 8 câu thơ trên là: Từ  Hàng  Đạo  Nhơn
Nguyễn Ngọc Thơ giáng.
Tiếp theo, ngày 15-9-Nhâm Dần (dl: 13-10-1962), cũng tại Thánh Tịnh Huỳnh Quang Sắc, Ngài Thái Thơ Thanh giáng cơ ban cho Kinh Nhạc Đạo Hành Ca, giảng giải về Đạo lý:
TỪ   tâm cứu khổ độ quần sanh,
HÀNG  uyển chỉnh tu tạo sống lành.
ĐẠO  lý gieo truyền gầy hạnh lạc, 
NHƠN  luân bồi đắp tạc thinh danh.
NGUYỄN  gia phước huệ nêu màu đẹp,
NGỌC  tốt tinh vi rạng sắc thanh.
THƠ  viện sáng soi gìn giác thế,
GIÁNG  phân lẽ phải gắng thi hành.

Đàn nay, Bần đạo thừa vâng sắc lịnh của Đức Chí Tôn giáng tả Kinh NHẠC ĐẠO HÀNH CA quyển nhứt trên đường khai thông chuyển hóa.
                  TỰA KINH
NHẠC  lòng hòa tấu bản Đường Tu,
ĐẠO  đức sáng soi vẹt ngút mù.
HÀNH  hóa cảm thông khai mạch sống,
CA  ngâm đúng điệu tỉnh phàm phu.

Nhạc Đạo Hành Ca là những điệu sóng đàn lành mạnh hòa nhịp bản ca đạo đức, là những giọng dịu hiền giác hóa khách trần đi trên khúc quanh mê lộ.
- NHẠC ĐẠO hồn quê gọi kêu người lạc lối
- HÀNH CA lý tưởng khai triển bước quang vinh.
Câu đối:
- Nhạc ĐạoTam Kỳ giác ngộ trần mê khai tâm chuyển hóa,
- Hành Ca nhứt lộ xiển dương chánh pháp bỉnh tánh hồi nguyên.
[1] [2] [3] [4] [5]