Ghi theo thứ tự trong danh sách
1-Bà Lâm Ngọc Thanh
2-Ông Lê văn Trụng
3-Ông Lê văn Lịch
4-Ông Trần Đạo Quang
5-Ông Nguyễn Ngọc Tương
6-Ông Nguyễn Ngọc Thơ
7-Ông Lê Bá Trang
8-Ông Vương Quan Kỳ
9-Ông Nguyễn văn Kinh
10-Ông Ngô Tường Vân
11-Ông Nguyễn văn Đạt
12-Ông Ngô văn Kim
13-ông Đoàn văn Bản
14-Ông Lê văn Giảng
15-Ông Huỳnh văn Giỏi
16-Ông Nguyễn văn Tường
17-Ông Cao Quỳnh Cư
18-Ông Phạm Công Tắc
19-Ônng Cao Hoài Sang
20-Ông Nguyễn Trung Hậu
21-Ông Trương Hữu Đức
22-Ông Huỳnh Trung Tuất
23-Ông Nguyễn văn Chức
24-Ông Lại văn Hành
25-Ông Nguyễn văn Trò
26-Ông Nguyễn văn Hương
27-Ông Võ văn Kinh
28-Ông Phạm văn Tỉ
Thánh danh: Nữ Đầu
Sư LÂM HƯƠNG-THANH
1
- Phần Đời:
Thế danh là Lâm
Ngọc Thanh, sanh năm Giáp Tuất (1874) tại làng Trung Tín, quận Vũng Liêm, tỉnh
Vĩnh Long. Thân mẫu Bà là Trần thị Sanh. Không rõ tên ông thân sanh. Bà Lâm
Ngọc Thanh là vợ của một người Pháp
tên Monnier, gọi
là Ông Huyện Huỳnh-Ngọc-Xây, nên Bà
thường được người
ta gọi là Bà Huyện Xây, là một nghiệp chủ rất giàu có
tại Vũng Liêm. Ông và Bà có một người con gái tên là Huỳnh Thị Hồ. Ông
Huyện Xây qui, Bà tái giá với Ông Huyện Hàm Nguyễn-Ngọc-Thơ, một nghiệp chủ ở
Tân-Định Sài-Gòn. Hai Ông Bà đều hâm mộ Phật giáo, nên đều qui y theo Phật, thọ
giáo với Hòa Thượng Như Nhãn, trụ trì Chùa Giác Hải ở Phú Lâm, Chợ Lớn.
Bà Lâm-Ngọc-Thanh
rất sùng kính Đức Phật Thích Ca, nên gần bên biệt thự của Bà ở Vũng Liêm có lập
một ngôi chùa Phật để gia đình Bà cùng với dân chúng xung quanh và các tá điền
của Bà có nơi chiêm bái.
2 - Thời-kỳ gặp
Đạo Cao-Đài:
Bà Lâm Ngọc Thanh
là nghiệp chủ ở Vũng-Liêm. vừa giàu về vật chất lại giàu về tinh-thần, đã cống
hiến một sự-nghiệp, một tài sản lớn lao cho nghiệp Đạo
Bà sớm sùng mộ Đạo Phật. Có Đức-Tin trọn vẹn Đầu năm Bính-Dần (1926) Ông Phạm
Tấn Đãi ở Rạch kiến, huyện Bến Lức, tỉnh Long-an. Ông thường chấp bút học Đạo
được lịnh Đức Chí-Tôn dạy:
“Đãi, Con
hiệp cùng Trung để độ Thơ” (1)
Ông Phạm-Tấn-Đãi ra Sài-gòn gặp ông Thơ và trao Thánh giáo cho xem. Ông xem
xong nói:“Tôi muốn làm sao hai ông
cầu-nguyện cho tôi chấp bút được mới linh!”
Chấp bút, thông
công với các Đấng Thiêng-liêng được kết quả và xin tìm biết việc nơi quê nhà ở
Vũng liêm để độ Bà Lâm-Ngọc-Thanh và xin độ luôn ông Thầy là Hoà Thượng Như
Nhãn. Tất cả đều được mãn nguyện.
3 - Thời-kỳ hành
Đạo:
Bà Lâm-Ngọc-Thanh
được Đức Chí-Tôn độ vào Đạo Cao-Đài. Bà hiến dâng một phần sản nghiệp vĩ đại.
Bà in kinh phát không, may cho Đạo phục. Riêng Ông Như Nhãn bằng lòng hiến ngôi
Từ Lâm Tự ở Gò Kén Tây Ninh cho Đạo Cao Đài dùng làm Thánh Thất tạm, tổ chức Lễ
Khai Đạo. Khi cất ngôi chùa nầy, Ông Bà Thơ đã đóng góp một số tiền lớn, giờ
này tiếp-tục tu bổ và tạo tác thêm
Vào đêm 14 rạng
ngày rằm tháng 10 năm Bính-Dần (dl: 18-11-1926 ) là ngày Đại Lễ Khai Đạo tại Thánh
Thất tạm Từ-Lâm-Tự. Bà Lâm-Ngọc-Thanh thọ Thiên
Ân Nữ Giáo-Sư,Thánh-danh là Lâm-Hương-Thanh. (TNHT.II./13)
Trong kỳ Phong
Thánh Nữ-phái lần thứ I ngày 14 tháng giêng năm Đinh Mão (dl: 15-2-1927), Đức
Chí Tôn thăng phẩm cho Bà lên hàng Nữ Phối Sư, cầm đầu Nữ phái và phong
người con gái của Bà, Cô Huỳnh thị Hồ, vào phẩm Nữ Giáo Sư, Thánh danh Huỳnh
Hương-Hồ. Ông Bà xuất tiền riêng ra mua thêm một miếng đất rừng nữa, từ
ngã ba Ao Hồ vào giáp đất đã mua cất Tòa Thánh để tạo cảnh Cực Lạc Thế giới,
gọi là Cực Lạc Cảnh.
Ngày mùng 9-3-Kỷ
Tỵ (dl: 16-4-1929 ) Bà
Lâm Hương-Thanh được thăng phẩm Nữ Chánh-Phối-Sư, Chưởng quản
Hội-Thánh Nữ phái.
Năm Đinh Sửu
(1937) Đức Hộ Pháp cùng Hội Thánh đi Nam Vang lo Đạo sự, giao cho Bà ở nhà lo
ngoại giao với nhà cầm quyền Pháp ở những nơi nào Đạo bị làm khó dễ. Bà đi hầu
Tòa, rồi trở về, kế đó lâm trọng bịnh. Bà qui Thiên vào ngày mùng 8 tháng 4 năm
Đinh Sửu (dl: 17-5-1937 ) đúng
vào ngày Lễ Thánh đản của Đức Phật Thích Ca, tại quê nhà ở Vũng Liêm, hưởng thọ
64 tuổi. Đức Hộ Pháp lúc đó đang hành đạo ở Nam Vang, được tin điện, cấp tốc
trở về để cùng Hội Thánh lo Lễ Đạo táng cho Bà.
Một điều huyền
diệu là khi Bà Lâm Hương Thanh qui Tiên vẫn giáng cơ cho biết Bà sẽ lo tiếp, Bà
nói: Để Bà lo việc đó cho và yêu cầu Hội Thánh
cử người đến xin nơi chánh phủ, kỳ sau thì được dễ dàng. Quả
đúng y như vậy. Sau khi Bà qui Thiên được 17 ngày, đến ngày 25-4 Đinh Sửu
(dl: 3-6-1937 ), Bà
được Đức Chí-Tôn ân tứ lên phẩm Nữ Đầu Sư, vì Bà là người có đại
công với Đạo trong buổi sơ khai và là người Chị Cả của Nữ phái, dìu dẫn cả đoàn
em Nữ phái. Phẩm này là được Truy thăng.
Về sau, Hội Thánh
đem hài cốt của Bà ở Vũng Liêm về Tòa Thánh, đặt vào Bửu tháp Nữ Đầu Sư, xây ở
phía Tây Lang Tòa Thánh và tượng của Bà được tạc ở mặt tiền Đền Thánh, phía bên
Nữ phái, trên Lôi Âm Cổ Đài, để nhơn sanh chiêm ngưỡng một bậc Nữ Chức sắc đại
công của Đạo.
4- Lời Bà Tự
thuật:
a/- Lập
Thánh Thất: “Nhắc lại đoạn đầu khi Tôi Nhập môn rồi, khiến lòng Tôi
suy-nghĩ cuộc đời không thấy ích gì cho phần linh hồn, nên Tôi không còn luyến
tiếc sản nghiệp của Tôi nữa, nếu còn say mê vật-chất hữu hình này thì biết
chừng nào mới trở về quê xưa cho được, nên Tôi đem mình quì trước Thiên bàn
nguyện rằng: Hiến thân này cho Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ tùng Hội-Thánh Tây-Ninh,
ngõ hầu dìu dắt nhơn sanh vào đường đạo-đức. Riêng về Phật-tự, thì khi Tôi chưa
gặp Đạo Cao Đài Tôi có lập một kiểng Chùa tại Vũng-Liêm, sau này Tôi hiến cho
Đại-Đạo rồi, Tôi hiểu rõ rằng Cao-Đài là Phật giáo chấn hưng đó vậy, nên Tôi
sửa Chùa Phật lại làm ngôi Tiểu Thánh-Thất Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đặng tiện cho
việc phổ độ kẻ đồng huyện, đồng lân. Nào kẻ gần, người xa trong thôn quê sằng
dã, nào là Tá điền của Tôi đồng lòng đến Nhập môn, cầu Đạo mỗi ngày
đến 15, 20 người. hễ có em nào thiếu thốn gì thì Tôi ủng hộ mỗi người một bộ
Đạo-phục và một cuốn Kinh Lễ đặng học thuộc
Kinh để Cúng Tứ thời, Tôi dạy thờ, dạy lạy đâu đó đều được
xong.
b/- Khai
Đàn: Tôi hiệp với Chức sắc và Cô Ngọc Hồ cùng Nguyễn Thị-Hương đi khai đàn
Thượng Tượng, rồi Tôi giảng Đạo và đọc Thánh-ngôn cho chư vị mới Nhập môn nghe
cho hiểu Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là Chấn hưng Phật Đạo. Bởi
vì Tôi biết phần đông thì nhơn sanh còn tín-ngưỡng Đạo Phật, Tôi phải giải
nghĩa cho thiện tín nghe rõ rồi họ vô Nhập môn (tôi úp bộ hết tại Vũng Liêm).
Đức tin nhơn sanh nơi đây càng ngày càng tăng tiến rất đông, Tôi bèn lập
Bàn-trị-sự phân công cho phái Nữ có phận sự để làm Đạo. Ngày lụn tháng
qua đủ công nghiệp, Tôi dạy làm lai lịch dâng lên Hội-thánh xin cầu phong.
c/- Về việc Chùa
Gò-kén: Nhờ Thiêng-liêng dùng huyền diệu, trước khi Tôi chưa nhập môn,
khiến cho Tôi qui y Phật giáo, Thầy Tôi là ông Hoà-Thượng chùa Giác Hải. Tôi và
ông Huyện Thơ cúng một số tiền to để xây dựng chùa Từ-Lâm-Tự. Mỗi năm hai Tôi
xuống Chùa Gò-kén thường lắm. Nơi đây là hồi chưa mở Đạo, nhờ cớ ấy được gieo
cảm tình Thấy trò nghĩa nặng như phụ tử tình thâm, nên vâng lịnh Đức Chí Tôn
họp với Chức sắc Đại Thiên phong Hiệp-Thiên và Cửu-Trùng, Tôi chung lưng đâu
cật với Hội-Thánh khai mở Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ tại tỉnh Tây-Ninh, vì thế mà
hai Tôi mượn Chùa Gò-kén dễ-dàng. Thầy Tôi thuận cho mượn, thành thử thiêng
liêng đã sắp đặt trước nên tôi mới có sẵn một ngôi Từ Lâm-Tự đặng đúng ngày giờ
của Chí-Tôn khai Đạo. Vì Chí-Tôn tiền định trước mười ngàn năm
Thầy có cho thi:
Từ đây nòi
giống chẳng chia ba.
Thầy hiệp
các con lại một nhà,
Nam Bắc
cùng rồi ra ngoại quốc,
Chủ quyền
chơn Đạo một mình TA
Nhờ bài thơ của Đức Chí-Tôn trên đây, Tôi chung lo với Anh Cả Thượng Đầu-sư
Thượng Trung Nhựt cùng Đức Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh mà đi phổ độ cùng
Lục tỉnh. Việc phổ độ miền Hậu-giang lối tháng 9 năm Bính Dần đặng cho kịp ngày
14 tháng 10 năm Bính Dần mở Đạo tại Từ-Lâm-Tự (Gò-kén Tây-Ninh). Ông Huyện Thơ
và Tôi xuất tiền nhà ra lên cốt chư Phật, đủ Ngũ Chi, Tam Trấn, Tam giáo tức là
Đức Phật Tổ, Đức Lão Tử và Đức Khổng-Tử. Mở Đạo
tại chùa Từ-Lâm ba tháng thì ông Hoà Thượng chùa Giác-Hải đòi chùa lại, thì hai
Tôi (Huyện Thơ) cho Hội-Thánh mượn số tiền 24.000 đồng (hai mươi bốn ngàn đồng)
mua đất đặng dời chùa, thỉnh cốt chư Phật về bên đất mới mua (mua đất của ông
Kiểm lâm người Pháp). Bởi vì lúc mới phôi thai Hội Thánh chưa có tiền nên mượn
của hai Tôi. Mua đất xong rồi Tôi lên xuống thường, không ở luôn nơi đây được
vì lo xã giao với Chánh phủ Pháp đặng để cậy nhờ họ.
Buổi ban sơ khai Đạo (thời Pháp thuộc) Đạo gặp biết bao cảnh gay-go thống khổ
cũng vì việc Đạo Đời chưa tương đắc. Chánh phủ Pháp để dạ nghi nan, hăm doạ đủ
điều: nào là bắt Đạo-hữu hăm xẻ nhượng, nào là đóng cửa Thánh-Thất ở miền
Hậu-giang. Anh Thượng Đầu-sư cho Tôi hay, khi đó Tôi liền tìm kế gần-gũi với
Chánh-phủ xin mở cửa Thánh-Thất. Tôi làm đơn xin ngay với chánh phủ Pháp, Tôi
đứng bảo lãnh trách nhiệm, Tôi hứa và Tôi nhìn-nhận Đạo Cao-Đài
là chánh tông chấn hưng Phật giáo, Tôi nói trước mặt Chánh phủ Pháp
rằng: Tất cả Đạo Cao-Đài là bậc chơn tu, không biết làm sái luật chánh
phủ, thật là người tu-hành đạo-đức, cả thảy đều có lòng bác-ái, không sát sanh
hại vật, chỉ biết tu, ăn chay làm lành mà thôi, thì chánh phủ Pháp cho mở
cửa Thánh-Thất được yên ổn mà sự cúng kiến cũng được đông đảo tự do. Tôi
đã nói chắc-chắn trước mặt chánh phủ như vậy Tôi với
Anh Thượng Đầu-sư phải thường đi xuống miền Hậu giang để lời khuyến nhủ chư
Đạo-hữu tu hành cho chính-chắn và ăn chay làm lành như Tôi đã hứa trên.
d/- Nhắc việc cất
Tổ-Đình:
Khi trả chùa Gò
Kén lại cho Hoà-Thượng Như Nhãn rồi, Hội-Thánh dọn về đất mới mua, ngày nay là
Thánh Địa. Dời chùa thỉnh cốt Phật cũng là khó-khăn hết mức. Chính phủ cứ theo
rình mò, làm khổ sở cho Đức Cao Thượng-Phẩm, vì cớ mà bổn Đạo quá sợ, ít ai dám
tụ họp đông. Khách lai rai, có ít người đến Cúng thôi. Cũng vì cớ mà eo-hẹp tài
chánh,nên phát một ngôi chùa tạm lợp bằng tranh, đốn cây trong rừng làm cột,
tranh thì vô rừng cắt khỏi tốn tiền, cắt dây cổ rùa đem về làm lạt. Tuy là chùa
tranh, cây gỗ mặc dầu cũng chịu đựng được mười năm dư. Lúc này Đức Cao
Thượng-Phẩm đã qui Tiên, năm 1929.
Khởi đầu đúc nền
Toà-Thánh ngày mùng 1 tháng 11 năm Bính-Tý (1936). Còn Đức Hộ-Pháp thì Ngài
xuống
Vũng-Liêm thương
lượng với Tôi rằng: Chùa lợp tranh hư dột, mối ăn, cây hư hết, nên Đức Hộ-Pháp
tính cất chùa cho chắc, làm bằng xi-măng, sắt cho được vĩnh-viễn (Hoạ đồ Đức Lý
đã vẽ sẵn, coi theo hoạ đồ của Đức Lý
mà cất).
Việc mua đất Cực-Lạc:
Đất Cực-Lạc, hai
Tôi đứng mua đất này, sau Ông Huyện để là Đất Cực-Lạc vô vi cảnh
giới (ngày nay thành ra Nghĩa địa). Về việc xã-giao, Đời, họ trọng vật
chất hơn nên Tôi tìm phương gần-gũi với thượng khách, nói đạo đức cho đời họ
hiểu biết rồi mới độ được.
e/- Nhắc lại hồi
Tôi mới gặp Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ nhằm ngày mùng 5 tháng 6 năm Bính-Dần
(Mardi 15 Juillet 1926) Thầy giáng Cơ kêu hai Tôi quì trước Thiên bàn, Thầy ban
ơn cho hai Tôi, Thầy làm phép Hôn-phối đầu tiên hết (Phò loan có Thượng Phẩm, Hộ-Pháp)
Thầy cho 4 câu thi cùng dạy Đạo tại nhà ông Nguyễn-Ngọc-Thơ ở Tân Định
(ngày 5-6 Bính Dần):
Thầy:
“Thơ, con với vợ
con quì ngay giữa, nắm tay nhau
Thiên ân thử nhựt
tứ thành hôn,
Mãn thế bất ly thể
dữ hồn.
Đạo-đức nhất tâm
tu đáo cáo.
Chủ trung thị Ngã
chí Thiên Tôn
Dạy
con hiểu à!
g/ - Tượng Bà tạc trước mặt tiền Đền Thánh
bên lầu trống, tức
là Lôi Âm Cổ Đài. Còn bên lầu chuông thì tạc tượng của Đức Quyền Giáo- Tông
Lê Văn Trung đối xứng nhau. Khi Đức Hộ Pháp Trấn Thần vào ngày
6 tháng giêng Đinh-Hợi (dl: 27-1- 1947) đến hai bức tượng này, Ngài giải
thích rằng:
“Nhị vị ngự thường xuyên trước Đền Thánh để tiếp rước nhơn
sanh tiến bước vào đường Chánh giáo, năng lo dìu dắt con cái Chí-Tôn mỗi khi
vào Cầu nguyện và chiêm bái Đức Chí Tôn”..
Bà Nữ Đầu Sư Lâm
Hương Thanh giáng Cơ cho bài
thi để làm Bài
Thài tế điện:
Đầy giỏ Hoa Lam chất
ái tình,
Y theo mặt
luật của khuôn linh.
Thử căn linh thể
nơi phàm tục,
Mới hưởng hồng ân
chốn Ngọc đình.
Nam Hải là bờ ao
Thất Bửu,
Tây Ninh nền tổ
quán Tam Thanh.
Thuyền từ trở lái
lìa sông Lệ,
Nhớ bạn chơn mây
gởi tấc thành.
B - Bà Nữ Đầu Sư
Hương Thanh giáng Cơ:
Tại Hộ Pháp Đường,
đêm 1-1-1946 .
Phò loan: Khai Đạo
và Sĩ Tải Lợi.
“Chào Trí Thanh, cùng mấy em:
LÂM tuyền đã
ẩn mấy thu sang,
HƯƠNG đượm
nhuần trăng đã lố màn.
THANH thủy
châu về huờn kiếm báu,
ĐỀ danh
đến buổi đất nhà an”.
Khai
Đạo bạch:… ..
- Đây hết buổi
phong ba, đến hồi an tịnh. Vậy mà không sao. Mình muốn cho yên, trước phải
loạn, sau mới yên được. Muốn nước đang đục lóng trong thì phải quậy trộn cho dữ
mới lóng bùn được. Đạo có khảo mới cao. Chức sắc bị khảo mà chịu nỗi mới có giá
trị. Học trò chịu khảo thí mới lãnh cấp bằng. Nếu từ chối thì rớt. Thế thường
học nhiều đậu ít. Còn nơi đây là Trường Công Quả, vậy vị nào muốn xứng đáng
Môn-đệ của Đức Chí Tôn thì chẳng bao giờ ngần ngại các việc công quả, cho chung
Thánh-Thể Đức Chí-Tôn, cũng do nơi mấy em đào tạo về mặt ngoại giao. Vậy
có câu:
Ái
nhơn, nhơn hành ái chi,
Bất ái nhơn, nhơn
hành bất ái chi.
Kỉnh nhơn, nhơn
hành kỉnh chi,
Bất kỉnh nhơn,
nhơn hành bất kỉnh chi.
Có cảm mới có ứng. Nên hiểu lọc lừa đi cho khéo, đồ cho trúng thời đắc chí sở
nguyện. Tâm vững, cầm lèo lái chạy qua bỉ ngạn. Tuy sóng to gió lớn, lượn sóng
xuôi sẽ chạy, miễn rằng ngó phía trước thuyền, tránh cho lẹ những đồ vật ngăn
cản.
Sĩ Tải Lợi bạch:…
- Sợ không quen
sóng gió, buồn mửa. Nếu có mửa thì uống nước chanh. Mình ăn phủ bì chúng
nó mà.
- Em Thái Khý
Thanh, nhờ mới để bộ râu, nên vuốt râu thả mồi câu chúng nó. Nó mảng nghĩ nhìn
bộ râu, quên cả sự nghiệp, đành chịu phọt-phe. Ước mong sao mấy vị trong đám
cầm cờ chỉ nẻo Cửu Trùng đồng phun râu, chúng nó mới kinh hãi. Qua mừng và khen
tặng Chú Khách nầy làm gương cho kẻ Việt.
Nam Hải Prasey ấy
vẫn gần,
Hai đàng buổi
trước lại đồng thân.
Nhớ nhau khuyên
nhủ đôi lời tặng,
Cùng bạn khi
xưa lúc ở trần.
O0O
C - Đức Hộ-Pháp
Thuyết Đạo nhắc về công nghiệp của Bà Nữ Đầu-Sư Lâm-Hương-Thanh.
1 - Lòng tôn sùng Phật của Bà Hương Thanh:
“Đêm nay là Vía Đức Phật Tổ Thích
Ca Mâu Ni mà cũng là ngày Vía Chị Cả của chúng ta là Bà Nữ Đầu Sư
Lâm-Hương-Thanh.
Chẳng biết ngẫu nhiên hay là tiền
định mà Bà Nữ Đầu-Sư qui liễu nhằm ngày Vía Đức Phật Thích-Ca. Theo Bần Đạo
hiểu biết, tưởng những người ái mộ Đạo Phật nồng nàn hơn hết, chúng ta
có thế nói rằng: Bà Nữ Đầu Sư cũng là người đứng đầu sổ của thiên hạ vậy. Trước
ngày Đức Chí Tôn mở Đạo, Bà Đầu-Sư duy có biết Đạo Phật mà thôi, chính miệng Bà
thuật lại với Bần-Đạo: Từ bé, Bà chỉ để tâm ham mộ Đạo Phật. Không biết có
quyền năng lạ-lùng của Đức Chí-Tôn tiền định hay chăng? Mỗi khi niệm câu chú
của Phật để tồn tại, thì Đức Chí-Tôn Ngài đứng trong nhà Phật, gọi là Tam thiên
Đại Thiên Thế giái. Đức Chí Tôn là Phật vị, nên Bà đã thương lắm, thương một
cách nồng nàn. Khi Đức Chí-Tôn mở Đạo Cao Đài, tức nhiên Phật giáo Chấn hưng đó
vậy. Chị Nữ Đầu Sư vẫn thương yêu Đức Phật Thích Ca lắm. Tuy vân, Đức Chí-Tôn
đến kêu Người phải về cùng Thầy mà sự thật ra tâm Đạo của Chị từ bé tới lớn chỉ
theo chơn Đức Phật Thích-Ca mà thôi, nếu xét đoán ra đã biết Đạo thì sự ấy
không chi là lạ”.
2 - Bà Lâm Hương Thanh
hiểu rõ Triết Lý về Luật Nhân quả của Đức Phật Thích Ca:
“Ngài đã đoạt Đạo đặng rồi, tức
nhiên Chị hiểu cái huyền vi bí mật của kiếp sanh con người, Ngài tầm ra căn nguyên
bí yếu hơn hết là Luật Nhơn-Quả pháp định (Loi Karmique) Cái Luật Nhơn Quả của
Ngài nó trúng trong chơn lý lạ thường, thử ta chối con người không có quả kiếp
chi hết cũng như thuyết duy vật đã nói: con người đã sinh ra ở mặt thế nầy là
tình cờ mà thôi, sống như vạn vật kia vậy, nếu cái thuyết ấy quả nhiên là chơn
lý thì ta thử hỏi vậy chớ duyên cớ nào kẻ sanh ra vừa khỏi lòng Mẹ đã nằm trên đống vàng hay
là ngự trên ngai vàng. Còn những kẻ sanh ra đã bị tật nguyền, đui mù, ngu dại,
nếu không có định luật thiên nhiên công bình vô đối của Đại Từ Phụ tức nhiên
của Đức Chí Tôn thì lẽ bất công ấy chúng ta phải giải nghĩa ra thế nào mà chớ ?
Cái triết lý bí yếu ấy, Đức Thích Ca đã tìm đặng tức là Nhơn Quả của ta. “Nhơn” 因 nghĩa là ta đã có làm điều chi thì “quả” 果 của nó trả lụng lại. Cái Luật Nhơn
Quả ấy nó là căn kiếp sống của ta. Có nhiều kẻ cả đời làm lụng nhọc nhằn
vợ con đông đúc, cả mọi điều gì muốn thi thố ra đều thất bại, mà cái thất bại
ấy chẳng phải dở, cái miệng thường những kẻ ấy trong cơn đau khổ nói số kiếp
của tôi nó thế nào, tội tình gì mà làm cho tôi như thế đó, là kẻ bên Đạo Phật.
Các Tôn giáo khác không cần luận, ta thấy họ đã quyết định cái quả kiếp là gì,
Phật đã nói: Cái kiếp sống đương nhiên của ta, định số phận của ta đương kiếp
sống hiện thời là do căn quả của ta đã tạo kiếp trước, bây giờ cái triết lý ấy
biểu ta muốn cho nên kiếp tới thì kiếp nầy ta chẳng nên gây nhơn quả nhiều hay
nặng nề, vì cớ cho nên những bổn Đạo cùng những người tín ngưỡng theo triết lý
của nhà Phật, khi họ thấy căn kiếp của họ đã nhiều bằng cớ không may, hoặc về
tình ái, hoặc về sanh kế, hoặc về công danh, hoặc về nghèo giàu, bất kỳ quả
kiếp của con người ta thường nương lấy đó mà sống, làm cho cái khổ
của con người đã sanh ra chịu khổ rồi quả kiếp nặng nề ấy lại tăng thêm khổ
nữa”.
Khi quá sức chịu của trí não người
phải làm sao? - Hễ khi nào bị khổ não quá chừng thì
tìm phương pháp an ủi, bởi cớ cho nên nhà Phật là nhà hay an ủi tâm hồn của
những kẻ đau khổ hơn hết đặng tự giác lấy mình,hiểu cái quả kiếp mà mình đã đào
tạo, vì tại mình vi chủ tạo thành nó ra, bây giờ tìm phương giải nó đi, tức
nhiên tránh kiếp tới, nếu ta đã biết kiếp nầy không may để ta trả nó mà thôi,
ta đừng gây thêm quả kiếp nữa.”…
3 - Lòng mộ Đạo Phật của gia đình Bà
Lâm Hương Thanh
Đức
Hộ Pháp tiếp:”Ngày Vía của Đức Phật Thích Ca và Bà Nữ Đầu Sư trùng ngày với
nhau. Nếu như chúng ta tin về đạo đức, chúng ta nói rằng có thể tin về mê tín,
thì Bần-Đạo nói rằng: Không có ai thương yêu Đức Phật Thích-Ca trong kiếp sống
của mình hơn là Bà Nữ Đầu-Sư. Trong một đời của Bà, Bần Đạo tưởng thiệt là một
người giữ Đạo, Bà chỉ giữ Đạo của Đức Phật Thích-Ca mà thôi. Khi Đức Chí Tôn
đến mở Đạo, Bà theo chân của Đức Chí Tôn đã đành, không ai dại khờ gì khi người
đã có tâm Đạo mà còn mơ hồ e-lệ sự chọn lựa của mình, nhưng Đức Chí Tôn là
khác, mà kính trọng thờ phượng Đức Thích-Ca đối với Bà Nữ Đầu-Sư là
khác, huống chi trọn cái gia đình từ Mẹ dĩ chí Bà đều thờ phượng một cách rất
tôn-nghiêm, dám chắc phần nhiều không có ai thờ phượng được như cả
gia-tộc của Bà đã thờ phượng Đức
Thích-Ca.
Luận tới đây Tôi nghĩ ngày này đáng
lẽ nếu nói rằng nước Việt-Nam chủng tộc ta có thể thờ Đức Phật Thích-Ca nhiều
hơn hết, nhưng đến Đại Lễ này nếu không tưởng niệm đến Đức Thích-Ca đi nữa là
cũng còn đoái đến tình của Bà Nữ Đầu-Sư, mà dòm lại Phái Nữ trong Đại Lễ thấy
lơ-thơ, có phải vô tình chăng ? Hay là Đạo của Phật Thích-Ca và công nghiệp của
Bà Nữ Đầu-Sư bị có cơn mưa rồi lạnh ngắt, đã lạnh trước rồi bị trận mưa nữa nó
lạnh luôn ? Bần-Đạo xin nói thật, Đức Phật Thích Ca, dầu sự trị thế của Ngài đã
hết, chúng ta chỉ nói là hết thôi. Hai ngàn năm trăm năm (2.500) lập Đạo trên
cõi Thiêng Liêng Hằng Sống kia, Môn-đệ của Ngài nhiều lắm, các người đừng tưởng
Ông già ăn mày ấy không đủ quyền năng mà các người khi dễ. Nội cái Bình
Bát-Vu của Ông đựng cả chơn hồn trong Càn Khôn Vũ Trụ, Ông ăn mày tại thế này
vậy mà ngôi vị Cực Lạc Thế Giới của Ông các người xin một phẩm Liên Hoa Ông có
thể cho; là một người không nên khi dễ, không nên nguội lạnh với người đó, bởi
vì Môn đệ của Ngài trên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống nhiều lắm. Bà Nữ Đầu-Sư hồi
còn tại thế này cũng vậy, hay về cõi Thiêng-Liêng cũng vậy thương Em lắm,
thương phái nữ lắm, Bà binh vực bảo trọng từ khi mới mở Đạo, biết bao phen Đức
Lý-Giáo-Tông đã phẫn nộ, chính mình Bần Đạo cũng không thế binh vực được mà còn
có thể ghét nữa mà chớ. Duy có một mình Chị binh vực bảo trọng phái nữ còn tồn
tại đến ngày nay, bằng không thì bị phế rồi, bị Đức Lý phế rồi đó. Bần-Đạo
nói thật mấy chị. Ôi! Không phải kiếp sanh dễ gì ngộ Đạo, Bần-Đạo đã chán biết
khó khăn kiếp sống của mình tại thế bao giờ cũng vậy, nó làm cho mình nặng nề
khổ não về tinh thần, nhưng chúng ta đem lên mặt cân thiêng liêng, chúng ta lấy
trí khôn ngoan để suy đoán cho cùng, chúng ta phải lấy trí khôn ngoan công
chánh mà phán đoán, phần nào xác là xác, phần nào hồn là hồn, cái xác thịt nó
không phải ở đây cho đến lúc tận thế đa nghe ! Kiếp sống tại thế gian này của
mấy người không mấy lát, cao trọng cần yếu hay chăng là phần
hồn, đừng sa xuống Địa Ngục, đừng xuống đó là hơn hết. Xuống cửa đó
rồi khó giải thoát lắm, khó giải thoát lắm đa nghe ! Còn phần xác thì xác, hồn
là hồn, mình lấy cái trí não của mình, lấy cái trung dung của mình làm sao cho
Đạo có công chánh, hòa bình, xác cũng vậy, hồn cũng vậy. Chỉnh cầm cân giữ mực
thước làm sao cho xác thế nào, thì phần hồn kia cũng vậy, đừng trọng bên này,
phụ bên kia, là khôn ngoan hơn hết. Còn một cái trọng yếu hơn nữa là phải
nhớ luôn luôn phụng sự Đức Chí-Tôn, công nghiệp ấy không bao giờ mất, bởi
Ông già đó chẳng chịu thiếu nợ ai hết, trái lại nếu chúng ta có phương thế lập
vị chúng ta rồi mà chúng ta còn dư thừa công nghiệp đối với Ngài. Nhớ lại
trong Cửu Huyền Thất Tổ của ta chưa chắc họ đều siêu thoát đặng, để
chút của cải ấy đặng độ họ, tội nghiệp biết đâu trong Cửu Huyền Thất Tổ của mỗi
đứa ta lại không có người ở dưới Phong Đô, rán tiện tặn chút đỉnh cho có của
cải Thiêng Liêng cho họ hưởng mới khỏi uổng kiếp sanh của mình. Đấng đó không
biết thiếu nợ ai hết và đã nói chẳng hề khi nào sai lời. Đã ngộ Đạo, đã biết
Đạo, đã theo chân Đức Chí-Tôn mà không biết tự mình tìm phương giải thoát, dầu
chúng ta không mong mỏi cứu độ Cửu Huyền Thất Tổ đi nữa, cũng mong mỏi tự giải
thoát cho mình là trọng yếu hơn hết, biết Đạo mà nguội lạnh tốt hơn hết đừng có
ở trong cửa Đạo, tốt hơn đừng ngồi trong cửa Đạo, ngồi nữa thêm tội không ích
gì. Thử chúng ta để dấu hỏi chúng ta tu đây trông mong cái gì?
Đừng như kẻ mờ hồ kia mà Đức
Chí-Tôn đã để:
Ngồi lì mà đợi Lý Ngưng Vương,
Biểu xuống thuyền Tiên nói chẹt
lườn.
Co cẳng muốn vào rồi lại thụt,
Biểu thương sao đặng buộc người
thương?
4 - Bà Nữ Đầu Sư Chơn linh Long Nữ.
Long Nữ là ai ?
“Ngày nay là Lễ của Đức Phật Thích
Ca và là ngày Lễ của Chị chúng ta, chúng ta nên để tâm cầu nguyện Chơn linh của
Ngài và của Bà, tức nhiên là Long Nữ, cả thảy chúng ta đều biết cái bí mật
ấy. Thật ra, là người đòi của Phật Quan Âm Bồ Tát đó vậy. Bần Đạo hiểu về cái
thuyết bí mật của Đức Quan Âm Bồ Tát lãnh trách nhiệm trọng yếu, vâng lịnh Đức
Di Lạc Vương Phật, chưởng quản điều khiển Bát Nhã Thuyền. Vì cớ cho nên
Đức Quan Âm Bồ Tát không thể giáng trần được, chính mình Long Nữ là người hầu
của Bà, tình nguyện giáng trần đặng hiệp với các Chơn linh, các Cung các Điện
và Hộ Pháp, đặng mở nền Chánh giáo của Đức Chí Tôn, hầu tận độ vạn linh đoạt cơ
giải thoát. Nguơn linh của Long-Nữ đã theo hầu Đức Quan Âm Bồ-Tát mấy kiếp đã
đến trần thì căn Phật của Người vẫn thế”.
5- Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh
được thờ nơi Nữ Đầu Sư Đường
“Hồi tưởng lại hai mươi mấy năm
trước khi Đức Chí Tôn đến cùng chúng ta, cầm cây Linh bút của Ngài tạo nền Chơn
giáo. Ông đến với một thân già nghèo của Ông, chính mình Ông khai rằng: Ông là
một Ông già nghèo, Ổng nói “Tròi trọi mình không mới thiệt bần”. Ông đến cho
ta một danh thể là lập Hội-Thánh cho con cái của Ổng, nhưng Ông còn cỡi được
con Bạch hạc ở trên mây trắng, còn Thánh-Thể của Ông ở ngoài mưa nắng cũng
không được nữa, nó khó lắm đó vậy. Tình trạng rất khó khăn, Ổng đến với một
thân nghèo để tạo dựng Thánh Thể cho con cái Ổng. Mà ôi thôi! Đám Thánh-Thể của
Ổng nó cũng nghèo nữa, nhưng mà cái nghèo đó chúng ta có một năng lực cao
thượng vô giá không thể tưởng tượng được. Có lẽ cả thảy đều ngó thấy buổi phôi
thai, là khi Đền Thánh mới tạo, con cái của Ngài phải chịu biết bao nhiêu khổ
hạnh, ăn thì bữa đói bữa no đặng tạo dựng Đền Thánh, đến bây giờ thành tướng
làm cho Vạn quốc ngó thấy, trông vào đều khen ngợi, đó là khối muối của sắp nhỏ
trở nên hình đó, do sự nhẫn-nại nhọc nhằn của sắp nhỏ mà nên đại nghiệp ngày
nay đó vậy. May thay! Đám con chí hiếu của Ngài trước sao sau vậy, liều mảnh
thân phàm nầy làm con tế vật cho Đạo. Cả thảy Hội-Thánh tưởng lại coi tạo dựng
một dinh thự Nữ Đầu Sư-Đường như vậy chỉ có 250.000$ (hai trăm năm
chục ngàn đồng bạc chẵn) có tay thợ nào dám làm không? Tôi dám chắc không dám.
Bởi vì giọt mồ hôi nước mắt của sắp nhỏ nó đổ vô trong này bằng ba lần như vậy,
đó chỉ có nhờ thiên hạ cho mớ vật liệu hòa với giọt mồ hôi đám sắp nhỏ mà nên
hình tượng đó vậy.
Các Con, các Em để ý coi Ông già
đó, Ổng không chịu thiếu nợ ai hết, công nghiệp của mấy Em, Ông trả nơi thế nầy
không đặng thì về cửa Thiêng Liêng Hằng Sống Ổng cũng trả cho được Ổng mới
nghe. Các con đã ngó thấy, những đứa con hiếu hạnh của Ông giờ phút nầy có biết
định phận của nó thế nào đối với Thánh Thể. Mấy đứa trong Quân Đội bây giờ là ai
? Là đám công thợ buổi trước tạo dựng nghiệp Đạo rồi nó còn hy sinh xương máu
bảo vệ đại nghiệp cho con cái của Ngài nữa, đương đầu với những trở lực oai
quyền, hiện giờ nó nuôi lại Em nó, chia từ miếng cơm manh áo cho mặc. Cả đại
nghiệp nầy là nhờ đám con chí hiếu của Ngài tạo dựng nên, chớ Tôi không làm gì
được hết, chỉ có là đốc thúc vô cho chúng nó làm chớ thân nầy ôm viên gạch cũng
không nỗi. Bần-Đạo chỉ mong có một điều là toàn thể con cái của Ngài Nam Nữ mỗi
ngày đều tưởng tượng đến công khó nhọc Anh Em nó, khó nhọc của đồng bào toàn
thể nước nhà, nòi giống đã tạo dựng nên nghiệp ấy, lấy cả sự nghiệp nầy làm môi
giới, giữ đạo đức làm bùa hằng tâm, thương yêu với nhau, giữ nghĩa với nhau cho
đến bảy trăm ngàn năm (Thất ức niên) theo lời của Đức Chí-Tôn đã định, dầu
Bần-Đạo còn ở đây hay về cõi Hư-Linh. Cung ấy an lạc đi nữa, cũng nhớ đến đại
nghiệp con cái của Ngài và Bần-Đạo dám đại ngôn với Ngài rằng: Con cái của Ngài
giữ tâm chí hiếu với Ngài và đối với Phật Mẫu cũng vậy”.
6 - Công lao và tài sản của Bà Lâm
Hương Thanh
“Nhắc lại hai mươi mấy năm
trước, hai mươi sáu năm chúng ta hội hiệp với nhau thế nào, ngày hôm nay kẻ còn
người mất, dầu ai có gan sắt đá cũng phải não nề. Luật thiên nhiên định vậy,
duy có một điều hạnh phúc cho kiếp sống của chúng ta chỉ về Thiêng liêng thấy
cả toàn thể em út đã nối chí đặng giữ nghiệp Đạo, nếu có hưởng đặng mảy may
hạnh phúc chăng chỉ có bao nhiêu đấy thôi.
Ôi! Biết bao nhiêu khổ não, truân chuyên thương Em, mà điều chẳng qua liễu Đạo
của Chị, cái chết của Chị
trong đầu óc Em biết sao mà nói,
tưởng tượng quả quyết rằng vì Chị bị cường quyền khảo quá thế, một người đa
tình đa cảm như Chị chúng đã khảo duợt với một phương pháp ấy không thế nào
sống đặng. Đương khi bịnhchúng dắt đi hầu Tòa, dẫn ra dẫn vô đến nỗi khi
trong Tòa ra rồi Chị nói rằng: Không có chết giấc tại đó mà thôi, về tới nhà
bịnh làm cho tới chết, mà chết phải chăng cái việc nghi ngờ của Em không phải
là mờ hồ, thì Em dám lộng ngôn nói rằng Chị đã tử vì Đạo là không quá
lời!. Em đã làm Hộ-Pháp chỉ ân hận một điều: Chị giàu sang tưởng nơi mặt thế
này, người nào có thể nói với thiên hạ rằng: trong kiếp sanh tôi giàu sang, nào
ruộng đất, lầu đài ngọc ngà châu báu, không có món gì mà Chị không có, chỉ tiếc
một điều là của cải ấy không để nơi nào nó phải để. Nếu giờ phút này Bần-Đạo
nói: Người Chị của ta có ân hận chăng là chỉ có bao nhiêu đó mà thôi !.
Bần-Đạo nhớ lại khi khởi cất
Đền-Thánh thì đã ba phen thâu của tín-đồ, thâu của nhơn sanh, đặng cất Tòa
Thánh cất không nỗi. Tới ngày khởi cất, ngày Bần-Đạo nhất định cất, có 13 ngàn
đồng buổi đó không phải dễ, mở trong tủ ra chỉ còn 1$46 (một đồng bốn cắc sáu). Cất
Toà Thánh trong lúc thời thế nguy ngập, người ta bất-tín nhiệm chạy tiền không
ra, không biết làm thế nào khởi đương ra cho mạnh mẽ đặng thâu tín nhiệm thiên
hạ lại. Túng tiền, Bần-Đạo phải đến tại Vũng-Liêm, tưởng đâu Chị có dư-dả mới
đến, con người như thế này không đến nước túng thiếu quá lẽ. Xuống tới dưới,
tới chừng khi hỏi Chị đặng mượn số tiền về khởi công cất Tòa Thánh, Chị dắt đi
xuống chỉ mấy kho lúa đầy nhóc hết, mà lúa 0$20 (hai cắc) một
giạ, hồi đời đương khuẩn bách từ Á tới Âu. No thì no triệu, bán lúa nếu có thể
với giá bây giờ dầu 10 triệu trả cũng được. Một giạ có 0$20 tiền Chị đó Em !.
Ôi ! Lúa có 0$20 có chết được
không, Qua nói thiệt với Em trong mình Qua không còn gì hết. Ngồi suy nghĩ một
hồi, vô mở tủ sắt lấy ra một hòm sắt lớn đầy vàng hết, từ Bà Cụ dĩ chí gia đình
đều để đồ kỹ-niệm trong ấy, hột xoàn nhiều hơn hết, đem hòm ấy đưa cho Em đi
cầm, thời buổi khuẩn-bách này ngoài 90 ngàn tới 100 ngàn đặng khởi công cất Tòa
Thánh thì được rồi, nhưng một ngày kia tới chừng trả rồi mới làm sao; lấy cầm
thì được tới chừng chuộc thì tiền đâu, biết chuộc đặng hay không? Nói như vậy
rồi cười với nhau mà thôi !. Chị nói trên có huyền linh của Đức Chí-Tôn dưới có
cả đức-tin con cái của Ngài, Nam cũng thế, Nữ cũng thế, đâu Em về cất bướng
coi, không cần lấy đồ này, cứ tin Đức Chí-Tôn, Em làm lúng cái coi được hay
không. Bần-Đạo về với hai bàn tay trắng làm đến thành…”.
7- Nơi cửa Thiêng Liêng không phải
giàu mà lập nghiệp được, còn nghèo mà không đâu !
“Từ ngày Khai Đạo năm
Bính-Dần cho đến ngày hôm nay…Một người Chị hồi đó đã chịu cả khó nhọc cùng
toàn thể Thánh Thể Đức Chí Tôn tạo cho nên nghiệp Đạo, ngày giờ qui liễu của
Chị, Chị chưa ngó thấy cái tướng diện cơ nghiệp của Đạo sẽ thành hình như thế
nào. Bần Đạo tưởng, nếu giờ phút chót của Chị, Chị còn có một điều ân hận, khi
xuất hồn ra khỏi xác, có thể Chị để dấu hỏi (?) chẳng biết tương lai của Đạo nó
sẽ ra thế nào ? Chẳng biết mấy Em của tôi có đủ cương quyết, đủ nghị lực, đủ
tài đức đặng tạo cho thành tướng hay chăng ? Đó là một điều Chị lo ngại hơn
hết. Bần-Đạo nhớ lại lời của Đức Chí-Tôn đã có nói trước rằng: “Nếu Đạo
không thành thì chính mình Thầy sẽ đến”.
Tôi tưởng chẳng phải một mình Chị
mà thôi, mà cả mấy Anh đã qua đời, dĩ vãng rồi, giờ chót họ còn
một điều ái ngại trọng hệ hơn hết là đây…”.
&
Thánh danh
QUYỀN GIÁO TÔNG LÊ
VĂN TRUNG
Ðêm 30 tháng chạp Ất Sửu (dl: 12-02-1926 )
THẦY cho ông Lê Văn Trung thi:
Ðã thấy ven mây lố
mặt dương,
Cùng nhau xúm xích
dẫn lên đường.
Ðạo cao phó có tay
cao độ,
Gần gũi sao ra vạn
dặm trường.
(Thăng)
I-Tiểu
sử Ðức Quyền Giáo Tông (Diệp Văn Kỳ viết)
Ông LÊ VĂN
TRUNG, người hạt Chợ-lớn, con ông Lê-văn-Thanh và bà Văn Thị Xuân, sanh tại
làng Phước Lâm, tổng Phước Ðiền Trung, trong năm 1875, sanh ra được vài tháng,
thì ông thân của Ngài tạ thế. Tuy là sớm phải gặp cảnh mồ côi cha, song cũng
nhờ nghĩa phương của một bà Từ mẫu nên việc học vấn của ông cũng tuần tự theo
trình độ trí thức mà thăng tiến.
Năm 18 tuổi, nhằm
ngày 14 Juillet 1893, thì ông đã được bổ vào ngạch thơ ký Chánh phủ Nam Kỳ. Sau
lại từ chức, ra tranh cử Hội đồng Quản Hạt quận nhì (Gia Ðịnh, Chợlớn, Tây
Ninh, Thủ Dầu Một, Bà Rịa, Cap-St-Jacques) Ông thường nhắc việc nầy mà
nói: Cái ma lực buộc người hay có xa vọng về chánh trị nó mạnh lạ
thường. Tranh cử lúc đó còn phải tốn tiền hơn bây giờ xấp trăm, xấp ngàn. Vậy
mà tiền không, thế lực nỏ có, thì tranh cử cái gì, mà Tôi cũng xin thôi việc
quan đặng ra tranh cử ?".
"Người ta là con vật chánh trị!" Văn sĩ xưa
nào đã nói như vậy ! Ông đắc cử Nghị viên Quản Hạt lần I năm 1906. Thế thường
Hội Ðồng Quản Hạt là cái máy ghi chép “đít-cua” thì đáng lẽ ông cũng theo
thường “quì quì, dạ dạ” để xin "mày đai" Huyện hàm, khẩn đất mà thủ
lợi. Thế mà không, sau khi đắc cử, Hội Ðồng mới nhóm một kỳ đầu tiên, thì đã
gặp ngay bản dự thảo thuộc về “Lục hạng điền” của ông Outrey, quyền Thống Ðốc
Nam Kỳ, trình xin Hội Ðồng phải thảo luận và thừa nhận. Ông và ông Diệp Văn
Cương, Hội Ðồng Bến Tre, đứng ra cầm đầu cho tất cả sáu ông Quản Hạt An-Nam
phản kháng lại bản dự thảo của Chánh phủ. Song, số Nghị-Viên An-Nam
lúc bấy giờ chỉ bằng phân nửa số Nghị Viên Lang-sa, thì dầu
cho có phản kháng kịch liệt thế nào, cứu cánh rồi cũng chẳng có kết quả. Tình
thế chính trị như vậy mặc dầu, ông cùng các người đồng chí cũng chẳng chịu
thua Hội Ðồng Quản Hạt, với mười mấy lá thăm Langsa,
vừa thừa nhận khoản thuế “Lục hạng điền” thì bên nầy, tất cả sáu ông Hội Ðồng
Quản Hạt An Nam đều gởi đơn từ chức. Ðối với thái độ ấy, có lẽ ngày nay chúng
ta chẳng lấy chi làm lạ. Song, nếu chúng ta thử tưởng tượng lại cái hoàn cảnh
chánh trị cách 30 năm nay, thì dám làm như thế, dám phản kháng Chánh phủ một
cách công nhiên như họ đã làm, thật là một việc đáng khen và không phải là
không có chi nguy hiểm cho những người xướng xuất. Từ chức xong, tất cả sáu ông
đều ra ứng cử lại và thảy đều được tái đắc cử. Trừ duy ông Hội Ðồng Hoài, bị
ông Bùi Quang Chiêu a-phụ với ông Outrey xúi người bà con là ông Bùi Thế Khâm
ra phá nên thất cử.
Hội Ðồng Quản Hạt mà được trở nên một Nghị trường có nhiều ít
thanh thế một đôi vẻ chánh trị có lẽ cũng là nhờ vụ “Lục hạng điền” làm nước
bước đầu tiên. Trong bước đầu tiên ấy, ông Lê Văn Trung lại là một người hướng
đạo rất khẳng khái. Thế lực chánh trị của ông từ đó về sau mỗi ngày càng
lớn thêm. Ðối với cử tri, bây giờ tức là các Hương chức, ông là một người đã
bảo thủ quyền lợi của nông dân điền chủ; đối với Chánh phủ, thì ông là một
người trong những người mà các nhà đương đạo khó khinh thường. Nhờ thế lực ấy,
nên trong năm 1911 ông mới hiệp sức với một vài nhà trí thức, quyền bính
Sàigòn, Chợ-lớn mà khởi xướng được một vài việc rất mới mẻ có quan hệ mật
thiết, ảnh hưởng lớn ở xã hội Việt Nam ngày nay.
Chú thích: (1)
An-Nam là chỉ người Việt Nam .
Phân biệt người Pháp gọi là Lang-sa tức là
Francais)
2 - Tôi muốn nói về việc lập Nữ Học Ðường:
Ðương giữa buổi mà sự giáo dục của con trai, đàn ông, hãy còn
phôi thai, cậu nào đậu được bằng cấp Thành chung là đã tự Thánh, tự Thần, xách
đi cùng Lục tỉnh đặng kiếm vợ giàu; đương giữa buổi mà những anh chàng du học
đem về được cái bằng cấp Tú tài, thì đã hô lớn lên một cách rất vinh diệu, tự
đắc rằng mình quên hết tiếng An Nam; đương giữa buổi mà khắp cả cha mẹ trong
nước đều công nhận rằng: Cho con gái có nhiều ít học thức là một mối hại lớn
cho gia đình, cho xã hội; đương giữa buổi như thế mà đứng ra đề xướng Nữ học,
xin lập trường Nữ học để dạy bên gái bằng như bên trai, có phải là một việc quá
bạo gan chăng ? Những người đề xướng có phải là những bực tiên kiến chăng ?
Bạo gan thật, tiên kiến thật, vì Chánh phủ lúc bấy giờ, như
tuồng cũng cho việc ấy là một việc chưa hợp thời, lại trái với phong tục cũ kỹ
của An-nam, nên chi tuy là không ngăn cấm, song cũng chẳng chịu xuất công nho
ra làm chi phí, mà chỉ để cho những người xướng xuất mở cuộc lạc quyên, góp của
công chúng, cất lên được mấy tòa nhà đồ sộ mà chúng ta còn thấy ở đường Le
Grand de la Liraye; tòa nhà ấy đã đào tạo ra biết bao nhiêu nhơn tài trong nữ
giới. Vậy mà nếu ai chịu khó lật cuốn sổ lạc quyên năm nọ ra xem, thì sẽ thấy ở
dưới mấy lời tuyên bố có tên của ông Lê Văn Trung là người khởi xướng đứng kế
phương danh bà cụ Tổng Ðốc Ðỗ-Hữu. Trong một cái phạm vi chánh trị eo hẹp, dưới
chế độ chẳng phải khinh thường mà đã làm được những việc tôi vừa nhắc lại trên
đây, thời tuy nó chưa phải là những sự nghiệp của anh hùng, vĩ nhơn, song thế
cũng đủ gọi rằng khỏi mang tiếng “quì quì, dạ dạ” là cái danh hiệu của phần
đông trong mấy ông Hội Ðồng, từ xưa đến nay, ở xứ này. Ðó là sự nghiệp.
Còn công danh, nếu lấy theo nghĩa hẹp của nó và theo thế
tình, thì ông Lê Văn Trung, Hội Ðồng Quản Hạt, Nghị viên Thượng Nghị Viện,
thưởng thọ Bắc Ðẩu Bửu Tinh, sanh tiền cũng đã từng có đủ
công danh.
Nhưng, than ôi! Dầu cho những điều đó mà có thể gọi là công
danh, sự nghiệp đi nữa, đối với người đã lấy lòng tín ngưỡng làm phương châm
cho sự hành vi, lấy đức bác ái, phổ độ làm mục đích cho cái đời sống, thì công
danh, sự nghiệp cũng chẳng nên nhắc lại làm chi. Vả, trước khi đem thân phàm
tục để nhờ “Con Mắt huyền diệu của Thầy” soi thấu, thì Ông Lê Văn Trung cũng đã
lãnh đạm với công danh sự nghiệp ấy. Ba bốn tháng trước khi nhập Ðạo, Ông
Lê Văn Trung đã gởi đơn đề ngày 6 Octobre 1925 cho Quan Thống Ðốc Nam Kỳ mà xin
từ chức Nghị Viên Thượng Nghị Viện.
“Mãi đến ngày mồng năm tháng Chạp năm Ất Sửu (28 Janvier
1926) ở Saigon, Ðức THƯỢNG ÐẾ giáng cơ dạy hai ông Cư và Tắc, đem cơ vô
nhà ông Trung (Chợ lớn, Quai Testard) cho “Ngài” dạy việc. Hai ông
này lấy làm bợ ngợ, vì thuở nay chưa hề quen biết ông Trung"
- Ông Lê-văn-Trung ngộ Đạo:
Tôn chỉ "Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt" Đạo Cao Đài từng giai đoạn bành trướng
nền Tân Tôn giáo:
Từ 1920-1926 giai đoạn này cầu cơ thỉnh Tiên để học hỏi
về vô hình, các đồng tử được phong là Đạo sĩ hoặc Tiên đồng. Thời kỳ này, Đạo
thu hút nhân tài lãnh-đạo Cao Đài về sau. Ông Lê Văn Trung cũng trong trường
hợp những người thích nghe tiên tri, lời Thánh mà ngộ Đạo. Ngày 5-12-Ất Sửu
(dl: 18-1-1926) Đức Chí-Tôn giáng cơ dạy hai ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc
đem Cơ đến nhà ông Lê Văn Trung (ở Quai Testard) độ ông ấy.
Đức Hộ Pháp kể lại rằng:
“Buổi nọ Ông Lê-Văn-Trung đang làm Thượng Nghị Viện.
Hội-đồng Thượng Nghị-Viện chẳng khác bây giờ là một vị Tổng-Thống đời
Pháp-thuộc. Chức Nghị Viện lớn lắm ! Ông là người Nam làm đến bực đó thôi; mà
nghe ra Ông là người quá sức đời, Tôi
và Đức Cao Thượng Phẩm không hạp chút nào. Tôi kỵ hơn hết, ý định không làm
điều đó đặng. Khi chúng tôi ôm cái Cơ đến nhà Ngài đặng Đức Chí Tôn độ. Mục
đích của chúng tôi là Đức Chí Tôn bảo đâu làm đó vậy thôi. Khi vô tới nhà thú
thật với Ngài rằng chúng tôi được lịnh Đức Chí Tôn đến nhà Anh phò loan cho Đức
Chí Tôn dạy Đạo. Ông biết Đấng đó hơn chúng tôi (là nhờ Đàn Chợ Gạo đã
nói ở trên). Lo sắp đặt bàn ghế sửa soạn buổi phò loan rồi ông nhập môn. Trong
nhà có một người con nuôi tên là Thạnh còn nhỏ tuổi. Hai cha con kiếm được cái
Cơ, vái cầu Cơ.
Khi phò loan thằng nhỏ ngủ, ông thì thức. Cơ chạy hoài. Ông hỏi thì Đức Chí Tôn
trả lời, chỉ có hai người biết với nhau thôi. Từ đó ông mới tin Đức Chí
Tôn”.[(ĐHP 13-10-Giáp Ngọ (1954) ]
Trong đàn cơ Đức Chí Tôn phán dạy:
Ngài đã phân
rằng: Ngài đã sai Lý-Bạch dìu dắt ông Trung nơi đàn Chợ-gạo đã lâu rồi. Đến
ngày 21-1-1926, Đức Chí Tôn lại dạy rằng:
“TRUNG, nhứt tâm nghe
con. Sống cũng nơi Thầy, thác cũng nơi Thầy, thành cũng nơi Thầy mà đọa cũng
nơi Thầy. Con lấy sự sáng mắt của con mà suy lấy”.
Thầy cho thi:
Một Trời, một Đất, một nhà riêng.
Dạy-dỗ nhơn-sanh đặng dạ hiền,
Cầm mối Thiên-Thơ lo cứu chúng.
Đạo người vẹn-vẻ mới thành Tiên (AĂÂ)
Ghi chú: Giấy
Căn Cước của ông thời 1876, trong Bằng cấp Bắc Ðẩu Bửu Tinh lại là 1875.
Ông tuổi Tý, 1875 đúng hơn.
Từ đó cho đến lúc qua đời, ông Lê Văn Trung được
sáng mắt lại. Con nuôi tên Thạnh khỏi dẫn dắt nữa. Sau đó
ông Ca Bảo Đạo cũng được Đức Chí Tôn cho sáng mắt.
Ông Trung cũng nhận được nhiều bài thi kế tiếp:
Mặt Nhựt hồi mô thấy xẻ hai ?
Có thương mới biết Đấng Cao Đài
Cũng con cũng cái đồng Môn đệ,
Bụng muốn phân
chia hỏi bởi ai ?
Chuyện trên đây tôi do ở cuốn sách "Ðại Ðạo Căn
Nguyên" của Ðạo Cao Ðài mà chép ra và chỉ để ghi lấy ngày nhập Ðạo cho
tiện sự chia đời của ông làm hai đoạn:
- Ðoạn trước, ở thế gian: từ ngày 14 Juillet 1893, ông
được bổ ra làm Thơ ký, cho đến 6 Octobre 1925 là ngày ông từ chức Nghị viên
Thượng Nghị Viện.
- Ðoạn sau, thuộc về đời hành đạo: đời tu niệm của
Ông, từ 28 Janvier 1926 cho đến 19 Novembre 1934.
Bước đường ở ngoài thế gian trong khoản 32 năm được
hanh thông chừng nào, thì 9 năm trong Ðạo lại càng mắc phải nhiều khổ
hạnh chừng nấy. Sau khi nhập Ðạo chưa đầy một năm, Ông với các Ðạo hữu đi
thuyết đạo khắp cùng Lục Tỉnh và nội trong mấy tháng mà số người theo Ðạo
Cao Ðài tính hơn một triệu, thì ông cùng Bà Lâm Hương Thanh, Chánh Phối Sư, với
247 người Ðạo hữu đứng vào một lá đơn trình với Chánh phủ xin phép KHAI ÐẠO.
3- Lá đơn ấy đề ngày 29 Septembre 1926: nó là tấm Giấy Khai
Sanh của Ðạo vậy.
Lúc bấy giờ, Ðàn cầu cơ đã có khắp cả mọi nơi: Cầu Kho,
Chợ-lớn, Tân Kim, Lộc Giang, Tân Ðịnh, Thủ Ðức…mỗi chỗ đều có người chủ trương
riêng. Vì Ðạo Cao Ðài là do ở Cơ Bút phát sanh; điều đó ai cũng biết. Tuy
nhiên, chí kinh dinh kiến tạo của Ông ở ngoài đời Ông vẫn đem nó theo để đạt
một mục đích khác. Vì Ông nóng lòng về sự lo cho nền Ðạo được thống nhứt, nên
trong năm đó, ngày 19 Novembre, đêm 14 rạng Rằm tháng mười năm Bính Dần, thì
làm lễ Khánh Thành Thánh-Thất ở Từ Lâm Tự và lễ chánh thức Khai Ðạo. Tính
từng ngày một thì cộng là 8 năm, không thiếu không dư một bữa:
- 19 Novembre 1926 khai Đạo
- 19 Novembre 1934 ông mất.
Trong điều đó có chi huyền diệu chăng ?
Huyền diệu hay không, tôi tưởng ai là Tín đồ Cao Ðài, thời
cũng phải lấy ngày đó làm một ngày kỷ niệm rất quí hóa, kỷ niệm lễ chánh thức
KHAI ÐẠO, kỷ niệm húy nhựt của Ông Quyền Giáo Tông và kỷ niệm cho nhớ rằng hành
đạo là một việc khó, Cơ Bút thường hay có những điều lưu tệ. Vì chánh ngay đêm
đó, có hai Tín đồ nam và nữ tự xưng là Tề Thiên Ðại Thánh và Quan Âm Bố Tát
nhảy lên làm cho công chúng thất vọng. Và cũng vì việc rắc rối ấy mà làm cho ai
nấy đều ngã lòng, thối chí, thành thử nổi lên một cuộc công kích rất kịch liệt
do những người hoặc vì thiển kiến, hoặc vì tư lợi mà sanh ra.
Có một điều lạ chẳng ai ngờ, là cái hiệu quả của cuộc công
kích ấy chỉ làm cho số Tín đồ Cao Ðài mỗi ngày mỗi đông thêm.
Cách đó chẳng bao lâu, Thánh Thất Cao Ðài lại phải dời về nơi
sở rừng 140 mẫu, tọa lạc tại làng Long Thành Tây Ninh cho đến bây giờ.
Trong khoảng thời gian từ ngày lập Ðạo cho đến lúc dời Thánh Thất về làng Long
Thành, ông Lê Văn Trung đã trải biết bao nhiêu công khó mới gầy dựng nên được cơ
sở vững chắc như ngày nay. Song Ông thường hay nói với tất cả mọi người:
- Công khó ấy đều nhờ ở lòng tín ngưỡng thành kính của anh
em, chị em trong Ðạo. Công của tôi chẳng bao giờ lớn hơn công của một “Tiểu
Giáo Nhi” nào !
Tuy nhiên, trong lúc vừa dời Tòa Thánh về làng Long Thành Tây
Ninh, thì các Chức Sắc, các Giáo Hữu, các Tín đồ đều đã rõ thấu công lao của
Ông đối với nền Ðạo, nên ai nấy đều vui mừng về việc ông được tôn
lên Quyền Giáo Tông nhằm ngày mồng 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930). Vả
lúc ấy, là lúc Ðạo đương trải qua thời kỳ toàn thạnh mà chủ quyền lại được
thống nhứt về trong tay của một người nhiều kinh lịch, đủ nghị lực như ông LÊ
VĂN TRUNG thì ai cũng tưởng nền Ðạo từ đó về sau sẽ được vững chải hơn.
Ai ngờ hai chữ “GÍAO TÔNG” lại thành ra cái cớ để khiến những
tay cầm quyền Ðạo đương thời họ đã làm cho nảy sanh chẳng biết bao nhiêu việc
chia lìa, oán khích. Chẳng những là ở trong Ðạo thì họ đã buộc tội, viết tờ
Châu Tri để thống mạ, mà ngoài đời, thì họ lại còn xúi giục Tín đồ lầm lạc đem những
việc phi lý, vô bằng cớ đến Tòa mà kiện và vu cáo với các nhà đương quyền rằng
để cho Ông Lê Văn Trung cầm quyền Ðạo tức Cao Ðài là dung dưỡng cho một ổ cách
mạng, họ đã làm cho đến nỗi lúc bấy giờ chẳng có ngày nào mà Ông Lê Văn Trung
chẳng bị ông Thẩm-án nầy đòi hay là Tòa kia đem ra xử. Còn những Chức Sắc nào
trong Ðạo mà ái mộ Ông Giáo Tông, thì họ lại kiếm phương nầy thế khác mà làm
cho bị tù bị tội. Ðương giữa buổi nguy nan như thế, Ông Lê Văn Trung vẫn cứ
điềm tĩnh, ngồi lo sắp đặt công việc bên Nữ phái trong Ðạo, mong sao cho Nam,
Nữ được bình quyền mà nói rằng: “Ðiều ấy là một cái xa vọng của tôi đã
có từ khi đương còn ở ngoài đời, cho đến ngày nhập Ðạo. Lúc trước tôi đã giúp
bà cụ Tổng Ðốc Ðỗ Hữu lập trường Nữ Học, bây giờ tôi hiệp sức với Bà Chánh Phối
Sư Lâm Hương Thanh tổ chức các Nữ Viện, cũng đồng một ý nghĩa. Tôi chỉ ước ao
sao cho Nam-Nữ bất bình đẳng ở ngoài đời chẳng còn trong Ðạo nữa”.
Có nhiều người thấy Ông điềm nhiên như vậy, thì tức mà hỏi:
Ngài không dùng phương pháp chi để đối phó với mấy kẻ tiểu nhơn kia sao?
- Sao mà lại được kêu những kẻ ấy là tiểu nhơn ? Nếu may mà
mình phải, thời tự nhiên một ngày kia người ta sẽ biết quấy, lo ngại chi sự ấy.
Song, than ôi ! Lời nói đó chỉ là đúng với lý tưởng của người lương thiện, tu
hành. Chớ thật tế ở đời nầy có đâu được như thế !.
Sau khi đối với Ðạo, Ðạo biết Ông vô tội; đối với Tòa, Tòa
biết Ông vô tội; cái danh hành Ðạo của Ông được trắng như tuyết.
Ông Lê Văn Trung, nguyên Thượng Nghị Viện thưởng thọ Bắc Ðẩu
Bửu Tinh, Quyền GIÁO TÔNG CAO ÐÀI, lại do hai cái án “tuần cảnh” phạt hai tên
đánh xe bò của Tòa Thánh về tội không thắp đèn và bò thiếu dây buộc ách mà phải
bị bắt vô chịu tù ở khám đường Tây Ninh. Ngày Ông vô khám nhằm lễ Khai
hạ, mồng bảy Tết năm
Giáp Tuất (1934) trước Vía Trời vài ba bữa.
Tôi còn nhớ khi sơn-đầm đem hai bổn sao lục của hai cái án
nói trên đây vô Giáo Tông Ðường đặng bắt Ông ra Tòa Bố Tây-Ninh, thì ông chậm
rãi, khăn áo chỉnh tề, mang Bắc Ðẩu Bửu Tinh và huy hiệu Giáo Tông vào rồi đi
theo sai-nha không nói một tiếng chi khác hơn là dặn các Giáo Hữu, các Tín đồ
hãy yên lặng mà lo việc cúng Vía.
Mấy ngày Ông ngồi trong khám, ngoài Tòa Thánh từ các Chức Sắc
cho đến Tín đồ họ đều nhịn đói chờ Ông. Mãn hạn ba ngày, Ông về Tòa Thánh, Chức
Sắc, Tín đồ người khóc, kẻ ôm tay Ông hun, Ông xem cũng như tuồng có ý cảm động
nhiều hơn trong những dịp khác.
Làm Lễ Vía Trời vừa xong thì Ông liền viết
một
bức thơ gởi cho Chánh phủ mà xin trả Bắc Ðẩu Bửu Tinh lại.
Thơ ấy có nhiều câu ý vị sâu xa. Song tôi không muốn thuật ra đây, vì sau khi
Quan Toàn Quyền ROBIN qua trấn nhậm, Ông đã có vào diện yết Ngài và hai đàng
cũng đã điều đình công việc “Tự do tín ngưỡng” của Ðạo, thì nhắc lại chuyện cũ
sợ e có hại đến hòa khí của Ông đã đào tạo ra. Tôi chỉ muốn thêm rằng trả Bắc
Ðẩu Bửu Tinh là một “việc làm” sau hết của cái đời sống của ông và nhắc lại lời
của ông đã cắt nghĩa “việc làm” ấy:
-
“Ðừng tưởng tôi trả Bắc Ðẩu Bửu Tinh mà còn có ý chi phiền Chánh phủ, trách
những nhà đương quyền lúc bấy giờ. Danh giá thể thống của Viện Bửu Tinh buộc
tôi phải làm như vậy. Tôi mà nói đây chẳng phải vì nghi sợ điều chi mà chỉ vì
ước ao ai nấy đều hiểu rằng tôn chỉ, mục đích của Ðạo chúng tôi là Hòa bình,
thân ái khắp cả chúng sanh “nhứt thị đồng nhơn” thì chúng tôi đâu được phép
phiền trách hờn giận. Huống chi, theo thiển kiến của tôi đối với vấn đề thực
dân, thì dầu cho lúc ban sơ nó là “việc làm do ở cường quyền” song dần dần bên
cai trị và bên bị cai trị cùng nhau tiếp xúc, rồi biết rõ nhau mà yêu nhau, thì
chúng ta lại có thể hy vọng rằng cái “việc làm do ở cường quyền” kia sẽ
thành ra một mối dây đoàn thể, thân
thiện của dân tộc nầy đối với dân tộc khác”.
Ðã nói đến thân thế sự nghiệp của Ông LÊ VĂN TRUNG tất nhiên
là phải bàn đến ÐẠO CAO ÐÀI. Vì ông là một người sáng lập, lại là một ông Giáo
Chủ. Ðạo Cao Ðài, thì ông là công Thủ, Ðạo Cao Ðài mà quấy, thì ông lại là tội
Khôi. Song tôi còn nhớ Chương Thái Viêm, nhà Bác học Tàu mỗi khi thảo
luận đến các vấn đề Tôn giáo đều nói:
- “Thiên trung điểu tích, họa giả giai nan” nghĩa là
dấu chơn của con chim bay trên không, thợ vẽ nào
cũng
phải chịu là khó. Thật thế, người ta mà muốn tìm ra cội rễ
của Tôn-giáo thời chẳng khác nào chú thợ vẽ muốn vẽ dấu chơn của chim bay trên
không.
Huống chi, ÐẠO CAO ÐÀI mới phát hiện ra ở xứ nầy chưa đầy
chín năm, bao nhiêu những lý thuyết hình thức của ÐẠO hiện đương còn ở thời kỳ
phôi thai và do Cơ Bút mà có, thì chẳng thế chi nghị luận cho được xác đáng.
Người tín ngưỡng do sự thần bí mà tín ngưỡng đã đành; chí như những kẻ công
kích mà cũng đem sự thần bí ra đặng công kích thì thật là lạ. Song dầu chi đi
nữa, tôi cũng nhớ rằng cái “biết” của loài người ngày nay chưa có thể chi giải
quyết được những chỗ khuyết nghi ấy và ở trong khoản vài chục trương giấy viết
ra cho kịp ngày Điếu tang, thì tôi đâu dám đem một vấn đề trọng đại như vấn đề
Tôn giáo mà nghị luận. Tuy nhiên, trước khi ngừng bút, tôi còn muốn đứng về
phương diện xã hội mà Ông Lê Văn Trung sanh tiền thường gọi là Nhơn Ðạo, mà kết
luận:
Sự hành động của Ðạo Cao Ðài, từ khi sáng lập đến nay, không
phải là mỗi mỗi đều được tận thiện tận mỹ. Ở trong đời, có chi là tận thiện tận
mỹ? - Song nếu xét ra cho thật công bình, thì Ðạo Cao Ðài chưa hề làm điều chi
có hại đến nhân quần xã hội. Trái lại, Ðạo Cao Ðài đã nhờ truyền bá giỏi, tổ
chức hay mà gây nên tình thân ái, đoàn thể trong một triệu mấy dân Nam Kỳ là
một việc đáng làm cho ai cũng nên kính phục. Ðó là tôi chưa nói đến cái đức tin
rất mạnh mẽ của Tín đồ. Tôi chưa nói, là vì trước khi tôi muốn nhắc cho các
Thiên Phong Chức Sắc trong Ðạo có trách nhậm kế chí của Ông Giáo Tông, đều nhớ
rằng: Ðức tin là một con dao hai lưỡi. Nếu dùng nó phải, thì chẳng chi lợi
bằng, nếu dùng nó quấy, thì chẳng hại nào hơn. Và chỗ đó là tội là công của Ông
Lê Văn Trung vậy.
DIỆP VĂN KỲ (Viết tại Saigon ngày 28 Novembre 1934)
II - Sứ mạng Cao-Đài-giáo nay phải làm gì?
“Thầy
dặn rằng: Thầy đến chẳng phải lập một nền Đạo mới mà đến đặng nhắc các con
rằng: Ngày tận tuyệt đã hầu gần, Quỉ Vương sắp đến, Thánh ngôn các Đạo đã khai
từ thuở tạo thiên không đủ kềm thúc nhơn sanh đặng trọn lành. Đời càng ngày
càng trở nên hung bạo, nhơn loại giết lẫn nhau, cả hoàn cầu giặc giã, bịnh
chướng biến sanh, thiên tai rắp đến. Ấy là các điều Thầy đã nói tiên tri rằng:
Ngày tận thế đã đến!”
Thầy
đã tạo thành đủ cả Pháp luật.
Thầy đến chỉ độ kẻ vô Đạo chớ không phải sửa Đạo. Các con hiểu à!” (23-11 Bính
Dần – 1926)
- Thọ Thiên Ân Đầu Sư Thượng Trung Nhựt:
Vào 30 Tết (Thứ Sáu: 12-02-1926), theo lịnh Đức Chí Tôn các
Môn-đệ đầu tiên đi thăm và chúc Tết gia đình các Đạo-hữu. Đêm đó, phò loan là
hai ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc. Mỗi ông đều được Đức Chí Tôn cho một bài
Tứ tuyệt mà bài của ông Lê Văn Trung là một lời tiên tri về cơ Phổ độ sẽ phát
triển :
Đã thấy ven mây lố mặt Dương,
Cùng nhau xúm xít dẫn lên đường.
Đạo cao phó có tay cao độ,
Gần gũi sau ra vạn dặm trường.
Đây là ý muốn của Ông Ngô văn Chiêu xin Đức Chí Tôn điểm danh
các vị Môn đệ đầu tiên. Thầy liền giáng, là chiều theo ý muốn của Người. Cơ
liền gõ:
Chiêu, Kỳ, Trung độ dẫn Hoài sanh
Bản Đạo khai Sang, Qúi, Giảng thành
Hậu, Đức, Tắc, Cư thiên địa cảnh
Huờn, Minh, Mân đáo thủ đài danh.
Mười hai tên nhưng 13 Đệ tử, vì hai ông Võ Văn Sang và Cao
Hoài Sang điểm chung một tên. Huờn, Minh, Mân là ba người
khách của ông Vương Quan Kỳ đến hầu đàn.
*Đàn Phố Hàng Dừa (chợ Thái Bình) lập tại nhà ông Cao Quỳnh Cư không đủ cung
ứng cho cơ Đạo ngày càng phát triển nên mở thêm các Đàn khác ở nhiều nơi.
* Đàn Cầu Kho.
* Đàn Lộc Giang tại chùa Phước Long (Chợ Lớn)
* Đàn Tân Định tại nhà ông Nguyễn Ngọc Thơ,
* Đàn Thủ Đức
* Đàn Tân Kiêm (Cần Giuộc).
Theo chính quyền Pháp, ở Nam Kỳ đã xuất hiện hai mươi mốt địa điểm là nơi lập
đàn của Đạo Cao Đài (Gouvernement Général de I' Indochine, Contribution à
I'Histoire des Mouverment Politique de I' Indochine Francaise, VII- Le
Caodaisme - Hà nội 1934, trang 81 ).
Việc lập Đàn Cơ phổ độ lúc đầu đem lại nhiều kết quả tốt.
Nhiều người có địa vị và giàu sang theo Đạo như Đốc phủ Lê Bá Trang, Tri phủ
Nguyễn Ngọc Tường, Lê Văn Hoá, Ông Bà Huyện Nguyễn-Ngọc-Thơ và Lâm Thị Thanh.
Các bậc chân tu như Lê-Văn-Lịch, Trần Đạo Quang, Nguyễn-Văn-Kinh, Hoà Thượng
Như Nhãn, Yết Ma Luật, Yết-Ma Nhung ...
Người nhập môn ngày càng đông, các ông Trung, Kỳ,
Bản lập đàn giảng đạo, ông Cao Quỳnh Diêu lo việc Lễ Nhạc, Bà Mỹ
Ngọc lập Đồng nhi, Bà Nguyễn-Thị-Hiếu may áo mão cho kịp kỳ Thiên-phong.
Để chuẩn bị Thiên-phong tại nhà ông Lê Văn Trung, Đức Cao-Đài
dạy ông Trung sắp đặt bốn cái ghế để tạm thay một Ngai Rồng (Giáo Tông) và ba
Ngai Lân (3 vị Đầu Sư).
Bàn thờ Ngũ Lôi đặt phía trước Thiên Bàn, có bài
vị “Cửu Thiên Cảm Ứng Lôi Thinh Phổ Hoá Thiên Tôn” và lá bùa
Kim Quang Tiên. Đối diện với Thiên Bàn lập bàn Vi Hộ-Pháp (Vi-Đà Hộ-Pháp, một
trong Tứ Thiên Vương, viết bằng chữ V. Hai bàn thờ này cho Đạo hữu (Đạo hữu là
bạn đạo. Chức sắc và Tín đồ mới là cấp bực người theo Đạo) lập thệ khi được
phong Chức sắc hay khi mới nhập môn.
Đêm 13-3-Bính Dần (dl: 24-4-1926), Đức Chí Tôn dạy vì sao
phải lập các phẩm Chức sắc như vầy:
"Thầy nhứt định chính
mình Thầy đến mà độ rỗi các con, chẳng chịu giao Thánh giáo cho tay phàm. Nhưng
mà buộc phải lập Chánh thể có lớn nhỏ đặng dễ bề cho các con dìu dắt lẫn nhau.
Anh trước em sau mà đến nơi Bồng Đảo".
Tuy vậy, Đức Chí Tôn nhấn mạnh:
“Chẳng một ai dưới thế này còn đặng phép nói rằng thế quyền
của Thầy mà trị phần hồn cho nhân loại”.
Ngày 14-3 (dl: 25-4), Đức Chí Tôn dạy cách hành lễ Thiên
phong, về sau coi đó mà noi theo.
Trước bàn Ngũ Lôi, hai tay chấp trên trán, cúi xuống lá bùa
Kim Quang Tiên và thề.
Ðức Chí Tôn giáng cơ tại nhà
Ngài Trung và thực hiện cuộc Thiên phong tại đây, vào ngày: 14-3-Bính Dần,
(Chúa nhựt: 25-4-1926). Phò loan: Cư - Tắc.
Thầy dạy: “Biểu hai vị Ðầu Sư xuống ngai, đến quì trước mặt
Ngũ Lôi, hai tay chấp trên đầu, quì ngay bùa Kim Quang Tiên
mà thề như vầy:
"Tôi là Lê Văn Trung tự Thiên ân là Thượng Trung Nhựt và
Lê Văn Lịch tự Thiên ân là Ngọc Lịch Nguyệt, Thề Hoàng Thiên Hậu Thổ trước bửu
pháp Ngũ Lôi rằng làm trọn Thiên đạo mà dìu dắt cả mấy em chúng tôi đều là Môn
đệ của Cao Ðài Ngọc Ðế, nhứt nhứt do lịnh Thầy phân định, chẳng dám chuyên
quyền mà lập thành Tả đạo, như ngày sau hữu tội thì thề có Ngũ Lôi tru
diệt."
Ðến bàn Vi Hộ Pháp cũng quì xuống, vái y vậy, điều câu sau
thì như vầy : "Như ngày sau phạm
Thiên
điều, thề có Hộ Pháp đọa tam đồ bất năng thoát
tục."
ĐỌA TAM ĐỒ BẤT NĂNG THOÁT TỤC
E: To
be pumished three tours of metempsychosis, without going out from world
F: Être puni à trois tours de métempsycose, sans pouvoir
sortir de monde
Ðọa Tam đồ bất năng thoát tục là Ðọa đày ba vòng luân hồi không thể thoát khỏi
cõi trần, tức là bị luân hồi từ phẩm kim thạch cho đến phẩm nhơn loại, rồi trở
lại kim thạch, luân hồi ba vòng như vậy thì mới xong hình phạt.
Câu thề “Tận đoạ tam đồ bất năng
thoát tục” để thấy sự nhiệm mầu của Đạo pháp: Chơn linh nào bị “Tận
đoạ Tam đồ” thì bị ngăn cản, không hiệp được với Chơn thần (tức đệ Nhị xác
thân) phải chuyển kiếp trở lại từ Kim thạch cho tới con người, như thế ba vòng.
Nói cách khác: là ai phạm thệ thì bị đoạ xuống cấp chót là vật chất rồi tiến
lên thảo mộc, thú cầm mới tới nhơn phẩm. Đây là một vòng. Mỗi vòng tiến hoá như
thế gọi là “Đồ”(nghiã là con đường) khoảng ngàn (1.000) năm. Ba vòng cộng lại
là ba ngàn năm (3.000 năm)
“Bất năng thoát tục” là lẩn quẩn trong cõi đoạ đày, không trở về với Đức Chí-Tôn
được. Tại sao vậy ? Bởi vì trong ba ngàn năm “Tam đồ” Chơn linh lỗi thệ phải
trả quả nghiệp, không rảnh rang lập công mà về Thiên Đàng.
Thể hiện lời thề này là sau khi tốt nghiệp
Luật sự
Pháp Chánh Hiệp-Thiên Đài, các Tân khoa phải thề trước
Cung Đạo Bát-Quái Đài, câu này:
“Chúng
tôi là Luật sự Pháp Chánh thề luôn luôn trung thành với Đạo và giữ dạ vô tư
hành sự, nếu phạm lời Minh Thệ này sẽ bị các Đấng Thiêng liêng hành pháp “Tận
đoạ Tam đồ bất năng thoát tục”.
Như thế, chìa khóa "Đại ân xá, tận độ chúng sanh"
được mở ra, nếu ta biết ăn năn và tu luyện kiếp sanh trở nên tốt đẹp.
Đến thời Tý, ngày 15-3-Bính Dần (dl: 26-4-1926) Đức Chí Tôn
ân phong:
- Đầu Sư Thượng Trung Nhựt (Lê Văn Trung)
- Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt (Lê
Văn Lịch)
- Thượng Sanh Cao
Hoài Sang
- Thượng Phẩm, Tá Cơ Tiên Hạc Đạo Sĩ Cao Quỳnh Cư.
- Hộ Pháp Hộ giá Tiên Đồng Tá Cơ Đạo Sĩ Phạm Công Tắc.
- Tiên Hạc phò cơ Đạo Sĩ : Trương Hữu Đức và Nguyễn
Trung Hậu.
- Tiên Sắc Lang Quân Nhậm Thuyết Đạo Giáo Sư: Vương Quan Kỳ.
- Tiên Đạo Công Thần Thuyết Đạo Sư : Đoàn Văn Bản.
Từ Xây bàn đến đây chưa tròn một năm mà cơ chế Hội Thánh đã
manh nha hình thành hai Đài: Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài. Đó là niềm vui lớn
cho nhân sanh, nhưng là nỗi lo cho chính quyền bảo hộ. Vì thế, Ngài Lê Văn
Trung phải sắp xếp mọi thủ tục để khai Tịch Đạo hầu tránh mọi khó khăn
sau này.
Khai tịch Đạo với chính quyền Pháp:
Tập trung nhiều người mà không có giấp phép hội họp là nỗi lo
lớn của Ngài Lê Văn Trung. Các Đàn cơ đâu thể nào tránh khỏi sự theo dõi của
Mật thám Pháp. Ông phủ Chiêu, Nguyễn Văn Hoài, Võ Văn Sang biết Luật pháp chính quyền đô hộ hơn ai hết. Dù được điểm đạo là Môn đệ
của Đức Cao Đài, các Ông vẫn lánh xa các cuộc tụ tập đông đảo. Trong tập Le
Caodaisme, Thanh tra Lalaurette đã nhắc đến các văn kiện lập qui thời đó về Tín
ngưỡng dân gian:
- Điều 144 Hình luật, Quyển 6, Đoạn 6 bắt nạn nhân phải chịu
xử giảo.
- Nghị định ngày 22-4-1873 cho phép truy nã những Tín đồ. Đô
đốc La Font cho mật thám trà trộn theo dõi các nơi đáng nghi ngờ. (Lalaurette
et Vilmont, Le Caodaisme,Sàigòn 1933, tr.91).
- Pháp cho Thông dịch viên Nguyễn Văn Tường, cảnh sát Trần
Văn Tạ, quản Báo, trà trộn để theo dõi Đạo nhưng rốt lại các người này lại theo
Đạo và thọ Thiên ân.
1- ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG ĐĂNG TIÊN
Người Đệ tử Đức Cao Đài đầu tiên là Ngài Ngô Văn Chiêu. Trong đàn cơ
14-10-1926, Đức Chí Tôn dự kiến phong cho Ngài làm Giáo Tông nên dạy rằng :
"Trung, Cư, Tắc ba con lập tức lên Chiêu, biểu nó sắm liền một
bộ Thiên phục màu trắng, có các quẻ của Bát Quái y theo Thầy vẽ, thêu bằng chữ
vàng. Dặn nó mua thứ hàng thiệt tốt, mão cũng vậy".
Vốn là "Chiêu minh linh giác" (ngộ đạo thấy
rõ),
Ngài biết Đức Cao Đài thử lòng đệ tử vì áo Giáo Tông chỉ vẽ
là áo Tiểu phục dành cho Ngài Lê Văn Trung sau này. Đến khi ban hành Pháp Chánh
Truyền, toàn đạo mới biết:
"Bộ Đại phục Giáo Tông thì toàn trắng, có thêu bông sen
vàng từ trên tới dưới, hai bên cổ áo, mỗi phía có ba cổ pháp là Long Tu phiến,
Thư Hùng kiếm và Phất Chủ. Đầu đội mão vàng năm từng Bát Quái".
Đức Hộ Pháp đã thuyết Đạo (1948) rằng:
"Mỗi vị tín đồ đều
có cái mão Giáo Tông và Hộ Pháp,
không lấy được là lỗi ở mấy em, chẳng lẽ Đạo chỉ có một người
cầm đầu mà người đó chết thì diệt tiêu nền Đạo".
Nhưng phải lên ngôi Giáo Tông, Hộ Pháp thế nào cho phù hợp với luật lệ Đạo. Khi
Ngài Ngô không tới thọ phong tại nhà Ngài Lê Văn Trung, mãi đến ngày 29-10-1926
Đức Chí Tôn mới giao “quyền thưởng phạt đã vào tay Lý Thái Bạch". Sau đó
Đức Lý thấy không thể giải quyết mọi việc phàm trần nhanh chóng nên "ban
quyền cho Thượng Đầu Sư thay mặt cho Lão mà thi hành các phận sự Quyền Giáo
Tông về phần xác, còn về phần Thiêng Liêng có Lão".
Lưu ý mấy chữ "Quyền Giáo Tông về phần
xác", tức là Ngài Lê-văn-Trung chỉ được nửa quyền Giáo Tông.
Đây phải thấy rõ không ai phủ nhận rằng Thầy đã ban quyền
Giáo Tông cho Ông Ngô văn Chiêu trong 10 ngày, nhưng ông Chiêu không được
vinh-hạnh hưởng phẩm ấy vì bị quỉ khảo nên ông bị rớt ngôi Ngôi Tông.
Tuy nhiên con số 3 chỉ ngôi Giáo Tông vẫn tròn
đầy:
- Đức Lý là Giáo Tông vô vi, thuộc về Thần
-Đức Quyền Giáo Tông, trung gian giữa vô và hữu là Khí.
- Ngài Ngô văn Chiêu có công kêu gọi thuộc về Tinh.
Tinh- Khí- Thần đã hiệp thành Tam Bửu vậy.
Kết luận: Trong thời Tịch đạo Thanh Hương, nơi cửa Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ này, ngòai ba vị Giáo Tông kể trên thì không một ai được xứng
danh là Giáo Tông cả.
2. Châu tri báo tang của Hội Thánh:
Đức Quyền Giáo Tông bị chói nước mang bịnh sốt rét rừng phải
nằm nhà thương. Chẳng ngờ bịnh trở nặng, nóng nhiều, uống thuốc vô ói ra hết,
không ăn, rồi qui Tiên. Toà Thánh báo tin như sau:
“Hội Thánh Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ rất đau đớn
mà cho chư Hiền huynh, Hiền tỷ hay tin buồn: Đức Quyền
Giáo Tông đã qui Tiên tại Giáo-Tông-Đường ngày 13-10-Giáp
Tuất (19-11-1934) hồi 3 giờ chiều hưởng thọ 59 tuổi.
Lễ tống chung định ngày 26-10-Giáp Tuất đúng 9 giờ sớm mai”.
o0o
Thánh danh Ngọc Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt
Thánh ngôn Thầy
dạy:
Ngọc Ðàn Vĩnh
Nguyên Tự (Cần Giuộc) Thứ bảy ngày 17-7-1926 (âl
8-6-Bính Dần)
Thầy,
“Hỉ chư môn đệ,
chư ái nữ. Ðại hỉ! Ðại hỉ!
Ngọc Ðầu
Sư khả tu truyền pháp, thuyết đạo.
Kẻ nào trai giới
đặng 10 ngày đổ lên, thọ bửu pháp đặng.
Chẳng phải Thầy
còn buộc theo Cựu luật, song luật ấy rất nên quí báu, không giữ chẳng hề thành
Tiên Phật đặng. Thầy cắt nghĩa: Mỗi kẻ phàm dưới thế nầy đều có hai xác thân:
Một phàm gọi là Corporel, còn một thiêng liêng gọi là Spirituel, mà cái
thiêng liêng do nơi cái phàm mà ra nên gọi nó là bán hữu hình, vì có thể thấy
đặng mà cũng có thể không thấy đặng.
Cái xác vô hình
huyền diệu thiêng liêng ấy do nơi Tinh- Khí- Thần mà luyện thành. Nó
nhẹ nhàng hơn không khí. Khi nơi xác phàm xuất ra thì lấy hình ảnh xác phàm như
khuôn in rập. Còn khi đắc đạo mà có Tinh, Khí, không có Thần thì không thế nhập
mà hằng sống đặng. Còn có Thần không có Tinh, Khí thì khó huờn đặng Nhị xác
thân.
Vậy ba món báu ấy
phải hiệp mới đặng.
Nó vẫn là chất tức
hiệp với không khí Tiên Thiên, mà trong khí Tiên Thiên thì hằng có điển quang.
Cái Chơn thần buộc phải tinh tấn trong sạch mới nhẹ hơn không khí, ra khỏi
ngoài Càn khôn đặng.
Nó phải có bổn
nguyên chí Thánh, chí Tiên, chí Phật, mới xuất Thánh, Tiên, Phật đặng.
Phải có một thân
phàm tinh khiết mới xuất Chơn thần tinh khiết.
Nếu như các con
còn ăn mặn, luyện đạo rủi có ấn chứng thì làm sao mà giải tán cho đặng.
Như rủi bị huờn,
thì đến khi đắc Đạo, cái trược khí ấy vẫn còn, mà trược khí thì lại là vật chất
tiếp điển (bon conducteur d'électricité) thì chưa ra khỏi lằn không khí đã bị
sét đánh tiêu diệt.
Còn như biết khôn
thì ẩn núp tại thế mà làm một
bậc Nhân
Tiên thì kiếp đọa trần cũng còn chưa mãn.
Vì vậy, Thầy buộc
các con phải trường trai mới đặng luyện đạo.”
Ông Lê văn Lịch là
Thầy Tu làng Long-An Chợ Lớn. Ngọc Lịch Nguyệt là Thánh danh của
Ngài Lê Văn
Lịch, Đức
Chí Tôn phong Ngài làm Đầu Sư phái Ngọc.
Ngài Ngọc Lịch
Nguyệt, hiệu là Thạch Ẩn Tử, sanh ngày mùng 1 tháng 9 năm Canh Dần (dl: 14-10-1890 ) tại làng Long
An, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn.
Thân sinh của Ngài
là Cụ Lê Văn Tiểng, tu theo Đạo Minh Sư đến bực Thái Lão Sư, hiệu Lê Đạo
Long, là người sáng lập ngôi chùa Vĩnh Nguyên Tự ở Cần Giuộc. Cụ Tiểng tu đắc
đạo, sau khi qui liễu, đắc quả Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn. Cụ có lời di chúc:
"Lập Vĩnh
Nguyên Tự để sau nầy có Thập Nhị Khai Thiên đến mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ."
Thân mẫu của Ngài
Lê Văn Lịch là Cụ Bà Trần Thị Đắc, hiền nội của Ngài là Bà Trần Thị Khá, con
gái của Ngài Trần Văn Thụ (Ngọc Chưởng Pháp). Ngài Lê Văn Lịch có người con gái
là Cô Lê Ngọc Trang, Đạo hiệu Bạch Tuyết.
Ngài Lê Văn Lịch
thọ nhận từ phụ thân bí thuật huyền môn của Đạo Lão (Tiên giáo) và Y thuật. Sau
khi nhập môn vào Đạo Cao Đài, Ngài không dùng bí thuật huyền môn nữa, chỉ
truyền lại cho con gái Lê Ngọc Trang về Y học cổ truyền.
Đầu năm Bính Dần
1926, quí Ngài Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc được lịnh Cơ Bút dạy xuống Vĩnh
Nguyên Tự lập đàn cầu Cơ, Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn (Cụ Lê Văn Tiểng, đạo
hiệu Lê Đạo Long, thân sinh của Ngài Lịch) giáng cơ dạy Ngài Lịch, lúc bấy giờ
đã tu tới bực Dẫn Ân (Minh Đường), phải hiệp với quí Ngài CƯ
TẮC để mở Đạo
Cao Đài.
Trong thời gian
nầy, Ngài Đốc phủ Nguyễn Ngọc Tương đang làm Chủ quận Cần Giuộc đã gia nhập Đạo
Cao Đài, nên cũng khuyên Ngài Lê Văn Lịch nhập môn vào Đạo Cao-Đài.
Đêm 12-3-Bính Dần
(dl: 23-4-1926), Ngài Lê Văn Lịch được Đức Chí Tôn giáng cơ ân phong Ngọc
Đầu Sư, Thánh danh Ngọc Lịch Nguyệt, cùng một lượt với Ngài Đầu Sư Thượng
Trung Nhựt, trong cuộc Lễ Thiên phong đầu tiên tại nhà Ngài Lê Văn Trung (Chợ
Lớn).
Trong TNHT, Đức
Chí Tôn có giáng cơ dạy Ngài Ngọc Lịch Nguyệt như sau: TNHT. I.14:
"Cao
Đài. Lịch! Con nghe Phật Như Lai nói chưa?
Tam Kỳ Phổ Độ là
gì ? - Là phổ độ lần thứ ba.
Sao gọi là phổ độ? Phổ độ nghĩa là gì?
- Phổ là bày ra, độ là cứu chúng sanh.
Muốn trọn hai chữ Phổ độ, phải làm thế nào? Chúng sanh là gì
?
- Chúng sanh là toàn cả nhơn loại, chớ không phải là lựa chọn
một phần người, như ý phàm các con tính rối.
Muốn trọn hai chữ Phổ độ, phải làm thế nào? Thầy hỏi?-
Phải bày bửu pháp chớ không đặng giấu nữa. Con phải luyện lại cho thành,
nội trong tháng năm nầy về theo Trung đi truyền đạo. Nghe và tuân theo...
Phải mặc y phục như Trung, mà màu hồng."
TNHT. I. 22:
"Thích Ca Như Lai thị Ngã, dục cứu chúng sanh, tá danh
Cao Đài Đại Bồ Tát. Nhữ tri hồ?
Hữu Ngã đồ Thái Đầu Sư tại thử, nhĩ vô thức luyện đạo, Ngã
phái Ngọc Đầu Sư chỉ giáo thọ bửu pháp.
Tam thập tứ vị chúng sơn bất tri Chơn lý luyện thành. Ngã vi Chủ khảo giáo hóa.
Khả tuân Ngã mạng.
Nhữ đẳng tu thọ pháp, tu thọ pháp. Khâm tai!".
Diễn nôm:
Thích Ca Như Lai là Thầy (TA), muốn cứu chúng sanh, tá danh
Cao Đài Đại Bồ Tát. Con biết không?
Có học trò của Thầy là Thái Đầu Sư tại đây, nó
không
biết luyện đạo. Thầy phái Ngọc Đầu Sư chỉ giáo thọ bửu
pháp.
34 vị tăng không biết Chơn lý luyện thành. Thầy là Chủ khảo
giáo hóa. Khá tuân lịnh Thầy.
Các con tu thọ pháp, tu thọ pháp. Kính vậy thay!
Quyển "TỨ THỜI NHỰT TỤNG KINH:
Những ngày đầu Khai Đạo, Ngài Ngọc Lịch Nguyệt đóng vai trò
quan trọng không kém Ngài Thượng Trung Nhựt.
Ngài được lịnh Đức Chí Tôn sưu tập ba bài Kinh Tam giáo trong
Kinh Tam Thánh Đại Động để làm Kinh
của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ. Ngài cùng với Ngài Đầu Sư Thượng
Trung Nhựt phụng soạn và ban hành quyển "TỨ THỜI NHỰT TỤNG KINH",
trong đó các bài Kinh Nhựt Tụng của Đạo Cao Đài được viết bằng chữ Nho, chữ Nôm
và chữ Quốc ngữ, cùng là giải thích ý nghĩa tổng quát của mỗi câu kinh, có phần
phụ thêm giải về Nghi tiết phụng thờ của Đạo Cao Đài, in và ban hành vào năm
Mậu Thìn (1928).
Khi hai Ông Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang rút khỏi Toà
Thánh Tây Ninh lập Ban Chỉnh Đạo ở Bến Tre, thì Ngài Ngọc Lịch Nguyệt cũng rời
Tòa Thánh, trở về Vĩnh Nguyên Tự tu hành.
Năm 1943, trong công cuộc nhà cầm quyền Pháp khủng bố Đạo Cao
Đài, Ngài bị họ bắt đày đi Côn Đảo, đến năm 1945, Ngài mới được trả tự do trở
về.
Ngài Đầu Sư
Ngọc Lịch Nguyệt bị sát hại trong cuộc
chiến chống Pháp xâm lược của phong trào Việt Minh, Ngài qui
tại Chợ Lớn ngày 2-9-Đinh Hợi (dl: 15-10-1947) thọ 58 tuổi. Mộ của Ngài đặt tại
phần đất phía sau Vĩnh Nguyên Tự, gần mộ của thân phụ Ngài là Cụ Lê Văn Tiểng.
Ngài Ngọc Lịch Nguyệt thỉnh thoảng có giáng cơ tại đàn cơ ở Vĩnh Nguyên Tự.
Ngày 7-1-Ất Tỵ (1965),
THI
NGỌC chiếu khai xuân đã vẹn tròn,
LỊCH trình quí giá đáng vàng son.
NGUYỆT lai sẽ rõ cơ mầu nhiệm,
MỪNG thấy đệ huynh chí chẳng mòn.
Hỡi chư Hiền Đệ, Hiền Muội!
THI
Bần Đạo thấy khắp trong huynh đệ,
Gối đã dùn, chẳng nệ mỏi xương.
Bạc màu tóc đã điểm sương,
Mà không nệ nhọc trên đường quả công.
Thiệt quí giá phúc hồng hiếm có,
Bước dặm trường đi đó đi đây.
Phổ thông giáo lý Đạo Thầy,
Thiêng liêng nương đó giải bày thiệt hơn.
Dầu nóng bức chẳng sờn cực nhọc,
Dẫu ngày đêm lăn lóc phụng hành.
Hiệp hòa lớn nhỏ em anh,
Rày đây mai đó chẳng canh cải lời.
Bần Đạo thấy nghĩ thôi quá tiếc!
Mảnh thân phàm bị diệt tiêu tan.
Lấy đâu làm một con thoàn,
Để cùng huynh đệ một đàng thi đua.
Còn ở tục dễ thừa hành đạo,
Nương cõi đời giả, tạo cái Chân.
Có nhiều phương tiện xa gần,
Để mà khuyến thiện dìu nhân trở về.
Như Bần Đạo lỡ bề thoát tục,
Cõi vô hình mấy lúc tiếc thương.
Tùng chung Tiên
Phật một đường,
Muốn dìu sanh
chúng phải nương cơ huyền.
Vì lẽ đó lời
khuyên hơn thiệt,
Để đệ huynh nghiệm
biết gần xa.
Ráng mà khắc kỷ
xông pha,
Ráng mà giữ tánh để ra giúp đời.
Đừng bê trễ than ôi uổng bấy!
Đời mỏi mòn chẳng phải còn xa.
Trước tiên gìn giữ chữ Hòa,
Tuy rằng số ít mà ra muôn phần.
Đến Chùa, Thất, rửa lần tội lỗi,
Nghe kệ kinh tắm gội linh hồn.
Mau chân mà tiến bước dồn,
Quả đầy công đủ bảo tồn nguyên căn.
THI
Căn lành gìn giữ chớ buông lơi,
Dù mấy năm qua cũng một đời.
Mải miết mặc, ăn cùng chỗ ở,
Hơi tàn vạn sự thảy buông trôi.
Ðêm 22 rạng 23-4-1926 (âl 11/ 12-3-Bính Dần
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI Giáo Đạo Nam phương
I. Ba con nghe dạy
cuộc sắp Thiên phong:
“Các con vui
không?
Ðạo phát trễ một
ngày là một ngày hại nhơn sanh. Thầy nôn nóng nhưng mà Thiên cơ chẳng nghịch
đặng, nên phổ thông trắc trở.
Vậy thì ba con
(Trung, Cư, Tắc) cứ sắp đặt thế nầy: Trung nghe! Con dời bài vị của Lý
Bạch để dưới tượng Thầy, con dọn dẹp trong hết, để một cái ghế kế một bên tran
thờ, rồi để lên một cái ghế lớn đặng làm ngôi Giáo Tông, ba cái nữa
để sắp hàng theo ở dưới đặng làm ngôi cho ba vị Ðầu Sư. Con phải bao bốn
cái ghế ấy cho tinh khiết. Con đem Thiên phục Giáo Tông để nơi ghế ở trên, còn
bộ Thượng Thanh thì để giữa, bộ Ngọc Thanh bên hữu, còn ghế bên tả, con phải
viết một miếng giấy để chữ "Thái" cho lớn mà dán lên chỗ
dựa.
Ngay chỗ bàn ngự
của Thầy, phải để một cái ghế trước ngôi ba vị Ðầu Sư, vọng một bài vị, biểu
Lịch viết như vầy:
CỬU THIÊN CẢM ỨNG
LÔI THINH PHỔ HÓA THIÊN TÔN" lại vẽ thêm một lá bùa "KIM QUANG
TIÊN" để thòng ngay giữa, ai ai ngó vào cũng đều thấy đặng. Bàn Thầy giáng
cơ thì để trước bàn vọng Ngũ Lôi, khi giáng cơ rồi thì dời đi cho trống chỗ,
đặng nhị Ðầu Sư quì mà thề.
Con lại để thêm
một cái bàn giữa bên cửa sổ, đằng trước ngó vô.
II. Cư! Nghe dặn. Con
biểu Tắc tắm rửa sạch sẽ (xông hương cho nó), biểu nó lựa một bộ quần
áo Tây cho sạch sẽ, ăn mặc như thường, đội nón. Cười....
Ðáng lẽ nó phải
sắm khôi giáp như hát bội, mà mắc
nó nghèo, Thầy
không biểu. Bắt nó lên đứng trên, ngó mặt ngay vô ngôi Giáo Tông, lấy chín tấc
vải điều đắp mặt lại. Lịch! Con viết một lá phù "GIÁNG MA
XỬ" đưa nó cầm.
Các con phải thanh
tịnh, kể từ ngày nay diệt tận phàm tâm, chớ nhơ một điểm thì ngày ấy thề mới
đặng.
Cư! Khi đem
ba bộ Thiên phục đến vọng trên ba cái ngai thì con phải chấp bút bằng nhang như
mọi lần, đặng Thầy trấn Thần trong ba bộ Thiên phục và ba ngai ấy, rồi mới kêu
hai vị Ðầu Sư đến quì trước bửu ngai của nó, đặng Thầy vẽ phù vào mình.
Khi hai vị Ðầu Sư
vái rồi, phải đến trước Bửu điện Thầy mà làm lễ (12 lạy) và trước ngôi Giáo
Tông (9 lạy), rồi biểu Giảng xướng lên: "Phục vị", thì hai người leo
lên ngồi. Cả thảy môn đệ phân làm ba ban, đều quì xuống.
Biểu Tắc leo
lên bàn, con chấp bút bằng nhang, đến bàn Ngũ Lôi đặng Thầy triệu nó
đến, rồi mới tới trước mặt Tắc đặng Thầy trục xuất Chơn thần của nó ra,
nhớ biểu Hậu, Ðức, xông hương tay của chúng nó, như em có giựt mình té thì đỡ.
Rồi biểu hai vị
Ðầu Sư xuống ngai, đến quì trước mặt Ngũ Lôi, hai tay chấp trên đầu, quì ngay
bùa Kim Quang Tiên mà thề.
Tới phiên các Môn
đệ, từ người đến bàn Ngũ Lôi mà thề rằng:
"Tên gì? . .
. Họ gì? . . . Thề rằng: Từ đây biết một Ðạo Cao Ðài Ngọc Ðế, chẳng đổi
dạ đổi lòng, hiệp đồng chư môn đệ, gìn luật lệ Cao Ðài, như sau có lòng hai thì
Thiên tru Ðịa lục." (36 chữ)
Tới trước bàn Hộ
Pháp cũng thề như vậy, rồi mới đến lạy nhị vị Ðầu Sư.
Bài Thánh Ngôn
trên được chia làm hai phần: I và II.
-PhầnI có trong ÐS.I.108 và Phần II có trong ÐS.I.112.
*Phần I: Ðức
Chí Tôn giáng cơ tại nhà Ngài Cao Quỳnh Cư, vào đêm 22 rạng 23-4-1926, Phò
loan: Cư - Tắc, hầu đàn có mặt hai Ngài Trung và Lịch. Ðức Chí Tôn dạy hai Ngài
Trung và Lịch sắp đặt cuộc Thiên phong nơi nhà Ngài Trung ở đường "Quai
Testard", Chợ Lớn.
*Phần II: Ðức
Chí Tôn giáng cơ tại nhà Ngài Trung và thực hiện cuộc Thiên phong tại đây, vào
ngày Chúa nhựt 25-4-1926 (âl:
14-3-Bính Dần), Phò loan: Cư - Tắc.
Trong ngày nầy,
Ðức Chí Tôn trục xuất Chơn thần của Ngài Phạm Công Tắc để Chơn thần của Vi Hộ
Pháp nơi cõi thiêng liêng nhập vào, mượn xác Phạm Công Tắc chứng thệ cho nhị vị
Ðầu Sư và các môn đệ Ðức Chí Tôn.
Xong rồi, Ðức Chí
Tôn lập Minh Thệ cho hai vị Ðầu Sư: Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt.
Sau, Ðức Chí Tôn
lập Minh Thệ cho các môn đệ. Ðức Chí Tôn nói: "Bộ Ngọc Thanh bên hữu,
còn ghế bên tả để chữ Thái." Nếu tả hữu nầy là bên hữu và bên tả
của Ðức Chí Tôn.
Thơ, con
đã ngoan đạo, mà sự ngoan đạo của con đó còn độ lắm kẻ. Thầy khen con!.
Bính, Thầy
thưởng công con, cho lên chức Phối Sư. Thầy cám cảnh lòng yêu mến của con, Thầy
cám ơn lòng đạo đức của con. Sanh linh còn nhờ công con mà thoát qua khổ hải.
Bản, Thầy
thăng chức Giáo Sư.
Trò, Thầy cho
lên chức Giáo Hữu.
Nhiều đứa khác
nữa, ngày mùng 9, Thầy biểu đòi về cho Thái Bạch phong thưởng.
Thầy ban ơn trọn
cả các con, dầu không có mặt tại đây cũng vậy.
Thầy giở cơ lên,
các con đều chun ngang qua cho Thầy ban Phép Lành.
Thầy cầu cho các
con đặng ngoan đạo như Thơ vậy, sửa mình cho nên Chí Thánh, vì Ðạo năm nay sẽ
rõ thấu hoàn cầu, môn đệ tăng thêm hằng hà sa số, phận sự các con lại càng nặng
nề hơn nữa, nhưng các con nhớ biết thương Thầy, mà hễ thương Thầy thì ắt thương
Ðạo, mà hễ thương Ðạo thì thương hết chúng sanh. Các con biết Thầy là trọng thì
biết trọng Ðạo, mà hễ trọng Ðạo thì cũng phải trọng cả chúng sanh.
Trong tháng Giêng
nầy, Thái Bạch sẽ hội Nữ phái đặng lập cho hoàn toàn. Thầy trông công các con
lắm đó.
Thầy ban ơn cho
các con một lần nữa. Thầy thăng”
2 - ĐẦU SƯ
NGỌC LỊCH NGUYỆT
Ngày
28-02-Bính Dần (dl: 10-04-1926 ) Đức
Chí Tôn khai đàn cho ông Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt:
Đức
Cao-Đài dạy: Trung, sau khi cho chư Nhu cầu Đạo rồi, phải khai đàn cho
Lịch nội ngày nay. (sau khi khai đàn tại Vĩnh Nguyên Tự xong, chư vị lập đàn
Cơ, Đức Chí-Tôn giáng ban cho Ngài Lê-văn-Lịch 4 câu thi):
Đầu Sư phái Ngọc
hiệp quần Nho,
Tam Giáo Qui
Nguyên dẫn ngã đồ,
Vạn tải vô tư
đương hội ngộ,
Đạo thành chí khởi
lập Da-Tô.
Ngày 14-07-Bính
Dần (dl: 21-08-1926 ) Thầy
dạy về trường hợp Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt. Bài này có in trong Thánh
Ng ôn Hiệp Tuyển, xin trích ra một đoạn:
“…Nhưng có điều là
Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm Tự phá cổ nên tu nhiều mà thành ít. Vì vậy các
con coi thử lại, từ 2000 năm nay bên Á-Đông này đã đặng bao nhiêu Tiên Phật.
Các con duy biết có một mình Huệ Mạng Kim Tiên mà thôi”.
(Phần bổ
sung) “Các con nghĩ sự tu hành khổ hạnh
dường nào. Đời mạt
kiếp này dữ nhiều lành ít. Nếu Thầy
không chuyển Pháp
lại thì chưa ai tu đặng trọn Đạo nên Thầy lựa Ngọc Đầu Sư trong hạng thiếu
niên mới có đủ
công phổ độ.
Trong phần nhiều
các con chưa vừa lòng cho Lịch ngồi địa vị ấy cho nên có điều cản trở trong sự
truyền đạo. Thầy cũng nhìn như vậy, song vì tiền kiếp của Lịch và nhơn đức của
Tiểng nên Thầy mới phú thác cái trách nhiệm tối đại ấy cho nó. Các con đều có Chức
sắc lớn, nhỏ; đều thọ Thiên phong nơi Thầy. Cứ giữ phẩm vị các con nhưng
có một điều yếu thiết là cầu các con lập nhiều công quả nơi trường Thầy sáng
tạo cho khỏi phế hủy nửa chừng. Các con khá gìn luật lệ cho tới ngày Thầy lập
thành Tân Luật. Thành cùng chẳng thành cũng do nơi Thầy. Đương lúc đầu Thầy
khai Đạo thì Luật pháp rẻ rúng đặng dụ kẻ biếng nhác. Các con đừng phế
phận”
&
(1870-1946)
Thầy Tu làng
Hạnh-Thông-Tây
Thánh danh Ngọc
Chưởng Pháp Trần Đạo Quang Ngài Trần Ðạo Quang, thế danh là Trần Văn Quang (có
tài liệu chép là Trần Thanh Nhàn) sanh ngày 10-11-Canh Ngọ (dl: 31-12-1870 ) tại Ban Dầy,
quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho.
Ngài là con
trai duy nhứt của ông Trần Chí Hiếu và bà Dương Mỹ Hậu. Hai ông bà làm nghề
nông và tu theo đạo Minh Sư, tông Phổ Tế. Ngài có lòng mộ đạo từ nhỏ: năm 12
tuổi, Ngài noi theo cha mẹ, phát tâm tu theo Minh Sư. Ngài chí quyết tu hành.
Năm 16 tuổi, Ngài bắt đầu ăn chay trường. 21 tuổi, Ngài xuất gia tu
hành, bắt đầu tu Nhứt Thừa: Nhứt bộ rồi Nhị
bộ và Tam bộ, sau tiến lên tu Nhị Thừa qua bốn bậc: Thiên Ân, Chứng Ân, Dẫn Ân,
Bảo Ân, rồi Ngài tiếp tục tu lên Tam Thừa, qua hai bậc:
Ðảnh Hàng: lấy đạo
hiệu Trần Vận Quang.
Thập Ðịa là
Thái Lão Sư: lấy đạo hiệu là Trần Ðạo Quang. Thái Lão-Sư Trần Ðạo Cửu nhận làm
thầy đứng ra khai thị cho Ngài. Việc tu tiến dần lên đến bậc cuối Thái Lão Sư,
đạo hiệu phẩm này là Trần Đạo Quang (năm Ngài 45 tuổi). Thái Lão Sư Trần Ðạo
Quang, được sự tín nhiệm của 12 vị Lão Sư Tông Phổ Tế đạo Minh Sư ở Việt Nam, nên
Ngài về trụ trì chùa Linh Quang Tự là Tổ đình của Tông
Phổ Tế. Sau đó chuẩn bị nhận Tổ Ấn Tông Phổ Tế từ Tổ Sư Trần Đạo Khánh (Trung
Hoa). Người dự định phong cho Ngài Trần Ðạo Quang làm “Việt Nam Ðệ Nhứt Tổ” của
Tông Phổ Tế đạo Minh Sư ở Việt Nam . (Tài
liệu của Huệ Nhẫn)
Khoảng đầu năm
Bính Dần, quí Ngài Lê văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Vương Quan Kỳ, Nguyển văn
Kinh…đến Linh Quang Tự (Gò Vấp) là nơi Ngài Trần Đạo Quang đang trụ trì, xin
lập Đàn cơ theo lịnh Đức Cao-Đài. Tuy đột ngột nhưng do hiểu đạo lý và tự tin,
Thái Lão Sư chấp thuận. Đêm ấy, Đức Cao-Đài đã chuyển tâm được Thái Lão Sư Trần
Đạo Quang chịu qui hiệp Cao Đài. Nhiều tín đồ tông Phổ tế Minh Sư lúc ấy theo
gương Ngài, trong số đó đặc biệt có chư vị Nguyễn văn Tương (sau đắc
phong Thượng Chưởng Pháp), Nguyễn văn Kinh, Bà Lê Thị Ngân (Đạo Minh), Bà
Nguyễn thị Quyền ( con g ái Ngài
Nguyễn văn Tương)..
Ngài Trần Đạo
Quang thọ Thiên ân Quyền Thượng Chưởng Pháp ngày 12-12-Bính Dần (dl: 15-01-1927 ), sau đó Ngài thọ
phong chính thức là Ngọc Chưởng Pháp…
Ngài Trần Đạo
Quang khi được Đức Chí-Tôn dạy chuyển về Cao-Đài đang là Thái Lão Sư trụ trì
Linh Quang Tự tại Hạnh Thông Tây. Một số Đệ tử lúc ấy cũng theo Ngài qui hiệp .
Thời gian tách ra
lập Chi Phái:
Sau cùng rồi Ngài
cũng tách rời Toà Thánh bởi Ông Thái Ca Thanh lôi kéo được một số Chức sắc hiệp
tác với ông buổi đầu như: Ngài Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang.
Khi Ngài Thượng
Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương đăng Tiên tại làng Hữu Ðạo quận Cai Lậy thì khoảng
hơn một tháng sau, Ðức Chí Tôn phong Ngài Trần Ðạo Quang làm Quyền Thượng
Chưởng Pháp ngày 12-12-Bính Dần (dl: 15-1-1927). (Theo Ðạo Sử của
Bà Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu Q.II/ trang 172 và 192)
Ngài Ngọc Chưởng
Pháp Trần Văn Thụ đăng Tiên ngày 14-5-Ðinh Mão, thì sau đó ít lâu, Ðức Chí Tôn
ân phong Ngài Trần Ðạo Quang làm Ngọc Chưởng Pháp chánh vị.
Trong cơ Ðạo phân
chia Chi phái, năm 1931 Phối Sư Thái Ca Thanh rút khỏi Toà-Thánh Tây-Ninh về Mỹ
Tho lập phái Minh Chơn Lý, Ngài Ngọc Chưởng Pháp hợp
tác với Minh Chơn Lý, sau đó thấy ông Ca và ông Phùng sửa đổi hết cách thờ
phượng, nên Ngài rút khỏi Minh Chơn Lý, xuống Bạc Liêu hợp với ông Cao Triều
Phát mở
ra phái Minh Chơn
Ðạo năm 1935.
Năm 1937, Ngài
Trần Đạo Quang ra hành đạo ở Ðà Nẵng. Lúc đi ra Trung, Ngài không có giấy thuế
thân, nên Ngài lấy giấy thuế thân của người trong làng tên là Hà Văn
Thuần để xin làm căn cước thì mới được phép ra Trung. Thế nên khi hành đạo
ở Ðà Nẵng, Ngài lấy tên là Hà Văn Thuần. Ngài ủng hộ bổn đạo nơi đây xây dựng
được Thánh-Thất Trung-Thành, để làm cơ sở hoạt động của Cơ Quan Truyền Giáo
Trung Việt.
Ngày 17-2-Bính
Tuất (dl: 20-3-1946 ), Ngài
Trần Ðạo Quang qui Thiên tại chùa Linh Quang Tự ở Gò Vấp, Gia Ðịnh, hưởng thọ
77 tuổi.
Thi hài của Ngài
được an táng tại nghĩa trang Minh
Sư gần Linh Quang Tự. Sau nầy, do nhu cầu mở rộng sân bay Tân
Sơn Nhứt, Linh Quang Tự và nghĩa trang đều bị giải tỏa, bổn đạo cải táng Ngài
về phần đất ở phía sau Thánh Tịnh Minh Kiến Ðài vào ngày 15-8-Kỷ Mùi (1956)
thuộc xã Thông Tây Hội, cũng thuộc quận Gò Vấp.
Phái nầy do ba
Ngài:
1 - Chưởng Pháp
Trần Ðạo Quang,
2 - Cao Triều
Phát, và
3 - Nguyễn Ngọc
Thiệu.
Tách khỏi phái
Minh Chơn Lý (vì thấy hai ông Ca và Phùng biến cải theo Tà đạo), qui tụ về Giá
Rai tỉnh Bạc
Liêu, lập ra phái
Minh Chơn Ðạo vào năm 1935. Lúc đầu trụ sở đặt tại Chùa Minh Sư của Ngài Trần
Ðạo Quang tại Giá Rai, sau mới lập Tòa Thánh Ngọc Minh ở Giồng Bướm Giá Rai,
cũng gọi là Tòa Thánh Hậu Giang. Gần Tòa Thánh nầy có Ngũ Hành Tòa để làm
Hiệp-Thiên-Ðài. Phái nầy hoạt động khá mạnh, lên tới tỉnh Vĩnh Long.
Phái Minh Chơn Ðạo giữ đúng theo Tân Luật, Pháp
Chánh Truyền và lễ
nghi của Ðạo buổi sơ khai. Phái nầy không luyện đạo, mặc dầu Ngài Trần Ðạo
Quang, trước khi gia nhập Ðạo Cao Ðài, Ngài là Thái Lão Sư cầm đầu Chi Minh Sư
ở Việt-Nam. Ngài Trần Ðạo Quang được phong chức Chưởng quản Vô Vi Chưởng quản
Cửu-Trùng Ðài, Ngài Cao Triều Phát chức Thái Chưởng Pháp Chưởng quản Hiệp Thiên
Ðài, Ngài Nguyễn Ngọc Thiệu chức Ðầu Sư Ngọc Thiệu Nhựt. Sau
nầy, Ngài Cao TriềuPhát lại tách ra, ông Nguyễn Văn Kiện tự Huân được phong
chức Hộ Pháp Thiên Ấn Tinh Quân, chưởng quản Hiệp Thiên
Ðài. Cơ bút của phái Minh Chơn Ðạo phong gần đủ các phẩm Chức sắc cao cấp Hiệp
Thiên Ðài và Cửu Trùng Đài, như: Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh, 9 vị Thời
Quân, 2 vị Chưởng Pháp, 7 vị Ðầu Sư, 3 Chánh Phối Sư (không có phẩm Giáo Tông,
bên Cửu Trùng Đài thì chức Chưởng quản Vô Vi là cao nhứt). Sau cuộc đảo chánh
của Nhựt Bổn, quân đội Pháp trở lại dùng phi cơ dội bom, trúng Tòa Thánh Ngọc
Minh tan tành. Ngài Cao Triều Phát hợp tác với Việt Minh để bảo vệ tín đồ. Sau
Hiệp Ðịnh Genève 1954, Ngài Cao Triều Phát tập kết ra Bắc và qui liễu tại đó
trong năm sau.
(1881-1951)
Tri phủ chủ Quận
Cần-Giuộc
1 - Phần
đời: Ông Nguyễn Ngọc Tương sanh ngày 26-5-Tân Tỵ (dl: 22-6-1881) tại làng
An Hội, tỉnh Bến Tre, thuở nhỏ học tại Collège Mỹ Tho, rồi lên Sài Gòn học ở
Lycée Chasseloup Laubat, đậu bằng Thành Chung năm 1902, xin làm Thơ ký phòng
Thượng Thơ. Làm nơi đây được một năm thì xin về làm Thơ ký nơi Tòa Bố
tỉnh Bến Tre suốt 17 năm liền.
Năm 1919, thi đậu
ngạch Tri Huyện, được bổ làm Chủ Quận Châu Thành Cần Thơ, rồi Chủ Quận Hòn
Chông (Hà Tiên), đến năm 1924 thì đổi về làm Chủ Quận Cần Giuộc, qua năm 1927
đổi ra làm Chủ Quận Xuyên Mộc (Bà Rịa).
2 - Phần Đạo: Ngày
19 tháng Chạp năm Ất-Sửu (dl: 1-2-1926) Quí Ngài Lê văn Trung, Cao Quỳnh Cư,
Phạm Công Tắc bạch xin Thầy xuống Cần Giuộc độ Ngài Nguyễn Ngọc Tương, lúc ấy
đang làm Chủ Quận. Do trước đó, trong thời gian công vụ tại Hòn Chông Hà
Tiên (1920-1924), Ngài Nguyễn Ngọc Tương có tìm học Đạo Minh Sư, có ăn chay và
tập tu thiền, nên con đường nhập môn của Ngài được nhiều thuận lợi. Ngày rằm
tháng Giêng Bính Dần (dl: 27-02-1926 ) tại
nhà Ngài (Dinh Quận Cần Giuộc) chư vị lập Đàn Cơ. Thầy giáng rằng:
“Tương, từ
đây con trấn nhậm nơi nào thì là hồng phúc của nơi ấy, con nghe!
Con trị ai Thầy
cũng trị ai,
Một lòng đạo đức
chớ đơn sai.
Năm năm công quả
tua bền chí,
Chỉ dẫn nhơn sanh
bước lạc loài.
Ông
nhập môn theo Ðạo Cao-Ðài vào tháng 2 năm
Bính-Dần (1926), thọ
phong Thượng Chánh Phối Sư ngày 17-5-Bính Dần (dl: 26-6-1926 ).
Năm 1930, thăng
lên Quyền Ðầu Sư.
Cũng năm này, tuân
lời dạy của Đức Chí-Tôn, Ngài
Tương xin từ
quan.(lúc ấy Ngài 50 tuổi) để trọn lo hành
Đạo, ứng với lời
Thánh truyền “Năm năm công quả tua bền chí” trước
kia.
3- Ngài Tương tách
khỏi Toà Thánh Tây Ninh:
Ðầu năm 1934, ông
Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang tách khỏi Tòa Thánh Tây Ninh, rút về làng An
Hội lập Ban Chỉnh Ðạo và sau đó biến thành Chi phái Bến Tre.
Ngày 8-1-Ất Hợi
(dl: 11-2-1935 ), Ðại
Hội Vạn Linh của phái Bến Tre bầu ông Tương làm Giáo Tông phái Bến Tre.
Ngày 7-4-Ất Hợi
(dl: 9-5-1935) cử hành Lễ Ðăng điện cho Ngài Tương lên ngôi Giáo Tông ở Thánh
Thất An Hội Bến Tre và từ đó, Thánh Thất An Hội được gọi là Tòa Thánh Bến
Tre.
Từ năm 1942 đến
1951, ông Tương thường nhập tịnh trong Tịnh Thất riêng, lúc đó ông thường tự
xưng là Lý Giáo Tông.
Ngày 14-4-Tân Mão
(dl: 19-5-1951 ), ông
Tương qui thiên, tháp được xây dựng ngay trước Thánh Thất An Hội, Bến Tre
Ngày 18-11-Giáp
Tuất (Thứ Hai: 24-12-1934)
Hai ông Tương và
Trang về Thánh-Thất An-Hội (Bến Tre) phổ biến châu tri 147 mạ lỵ Đức Quyền Giáo
Tông Lê văn Trung và Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc.
Hai ông tự phong chức là:
- Tri phủ Lê Bá Trang là CHƯỞNG PHÁP
- Tri phủ Nguyễn Ngọc Tương làm ĐẦU SƯ của
phái Bến Tre.
4 - Lập Ban Chỉnh Ðạo (Phái Bến Tre):
Nhớ lại vào đầu năm 1934, khi hai ông rút khỏi Tòa Thánh Tây
Ninh về Bến Tre lập Ban Chỉnh Ðạo, với mục đích chấn chỉnh lại nền Ðạo, qui tụ
được 85 Thánh Thất theo về với hai ông. Trong lúc đó, toàn Ðạo Cao
Ðài chỉ có 128 Thánh Thất, như vậy số Thánh Thất theo hai ông Tương
và Trang cùng với số tín đồ chiếm hết 2/3, Tòa Thánh Tây Ninh chỉ còn lại 1/3.
Hai ông cố gắng lôi kéo một số vị Thời Quân Hiệp-Thiên-Đài theo về hai ông để cho
có đủ hai Ðài: Hiệp-Thiên-Đài và Cửu-Trùng-Đài, nhưng không thành công, vì một
số vị Thời Quân, tuy có bất mãn Ðức Hộ Pháp nhưng quí vị ấy muốn giải quyết vấn
đề theo chiều hướng khác hơn hai ông kia, nên quí vị ấy không hợp tác với hai
ông được.
Thế lực của hai ông rất mạnh, lại được chánh quyền Pháp ủng
hộ, nên hai ông tổ chức thuê bao gần chục chiếc xe đò đưa rất đông tín đồ của
hai ông về Tây-Ninh dự định sẽ dùng sức mạnh chiếm Nội-Ô Toà-Thánh. Hai ông báo
cho Ðức Quyền Giáo-Tông biết ngày 20-1-Giáp Tuất (1934) hai ông sẽ kéo lên Tòa
Thánh, vì hai ông nghĩ rằng phần thắng nắm chắc trong tay.
Ðức Quyền Giáo Tông liền thông báo cho Ðức Hộ Pháp. Ðức Hộ
Pháp tức cấp huy động tất cả khoảng 500 công quả Phạm Môn chia nhau giữ chặc
các cửa vào Nội Ô Toà Thánh. Với sức kháng cự quyết liệt
mạnh mẽ của 500 công quả Phạm Môn, lực lượng của hai ông Tương và Trang phải
chịu thảm bại, rút lui về Sài Gòn.
Cuối năm 1934, Ðức Quyền Giáo Tông đăng Tiên (ngày 13-10-Giáp
Tuất, dl: 19-11-1934). Trong khi đó, tại Thánh Thất An Hội Bến Tre, Ngài Nguyễn
Ngọc Tương và Lê Bá Trang tổ chức Ðại Hội toàn thể Chức sắc và tín đồ thuộc Ban
Chỉnh Ðạo để bầu cử chức Giáo-Tông:
- Lần bầu cử thứ nhứt: Ngài Lê Bá Trang lên chức Ngọc Chưởng
Pháp;
- Lần bầu cử thứ nhì, Ngài Nguyễn Ngọc Tương lên chức Giáo
Tông. Ðó là vào năm 1935 (Ất Hợi).
Năm 1938, Ngài Nguyễn Ngọc Tương cử hành một
lễ long trọng, tuyên bố nhiệm vụ của Ban Chỉnh Ðạo chấm
dứt. Như vậy là Ngài lập thành Chi phái Bến Tre, xây dựng
Thánh Thất An-Hội thành Tòa-Thánh Bến-Tre, tổ chức Cửu Viện, thăng thưởng một
số Chức sắc cầm quyền Cửu Viện. Thực lực của phái Bến Tre lúc đầu rất đông và
rất mạnh, nhưng vì không có chánh nghĩa nên số người theo ông lần lần rút lui,
các hoạt động chỉ cầm chừng, dần dần suy tàn, nhất là sau khi Ngài Lê Bá Trang
qui vị. Ngài Nguyễn Ngọc Tương thường nhập tịnh theo cách riêng của ông, càng
về sau nầy, Ngài tự xem mình như là một phân thân của Ðức Lý Giáo Tông, nên
Ngài tự xưng là Lý Giáo Tông. Năm 1951, Ngài Nguyễn Ngọc Tương qui vị.
Sau đó, phái Bến Tre phân ra làm hai nhóm nhỏ độc lập nhau:
Một nhóm tại Tòa Thánh Bến Tre, một nhóm tại Thánh Thất Tân-Túc (Bình Chánh) và
Thánh Thất Ðô Thành đường Hậu Giang Chợ Lớn. (Ðức Quyền Giáo Tông giáng cơ tiết
lộ cho biết: Ngài Nguyễn Ngọc Tương là chơn linh của Ngô Tôn Quyền tái kiếp,
Ngài Lê Bá Trang là chơn linh Quan Vân Trường thời Tam quốc)
Trong thời gian này có 5 bức thư khá quan trọng: Bức
thơ số 1
Ông Thượng Tương
Thanh gởi cho Thái Ca Thanh Ghi lại mấy ý chánh:
- Tôi thấy rõ là
một cuộc khảo do nơi Tam-Trấn để cho Tà Thần mượn tên cám dỗ, trong ba cái bịnh
lớn của con người là “Tham, Sân, Si” Nếu bậc cầm đuốc dẫn đường mà không trừ
hết, còn một hai cũng phải bị vướng.
Thánh-ngôn Cơ Bút của Hậu-giang từ khi ban sơ đến bây giờ… Có một phần rất ít
của Tiên Thánh, còn bao nhiêu đều là Tà mưu chước quỉ của Tà Thần cám dỗ.
…Nếu phăn lại gốc
thì Tôi rõ biết, khi ban sơ lúc Anh
thay mặt cho Tôi ở
Toà-Thánh, Anh có bất bình về sự hành
động cử chỉ của
mấy vị Đại-Thiên-Phong nơi đây đối đãi với Anh.
…Dụ được Anh rồi
nó dắt Anh đi lần lần, từ mấy thứ “An Thiên Đại Hội” qua đến lập Toà-Thánh Tam
Bình Kiên-giang Thất Sơn, đã nhiều phen tiên tri này nọ đều trôi hết, nay đem
Anh trở về lập Toà-Thánh Trung ương Mỹ tho, là chỗ ở của Anh, Tôi xét kỹ thiệt
toàn là công cuộc của Cơ cám dỗ Hậu-giang. Do sự bất bình kia mà gầy tạo ra đó
! Anh suy-nghĩ đến thì Anh thấy liền, Cơ ấy lợi dụng cái danh, cái chức của Đạo
mà dụ người
…Sau khi
kích bác nhục mạ Tây-Ninh rồi bố cáo mà dán khắp Lục Tỉnh mong Anh và các Chư vị
giúp để cho Tà Thần xúi giục mà hăng-hái thọ lãnh gia phong lập riêng một
Hội-Thánh Trung-ương tự mình làm chủ, làm cho ai trông vào cũng thấy cái Chủ
nghĩa Minh-Chơn-lý của Hậu-giang kết chung lại là một trường háo danh ham chức
đó là “Tôi”. Đạo ở nơi nào? Đức ở nơi nào?
… nên Thầy
đã căn dặn: Ngoài Thập Nhị Thời quân của Thầy đã chọn đừng vội tin Thầy có
giáng Cơ nơi này nơi nọ, mà phải bị lầm mưu Tà quái cám dỗ.
…Trong lòng anh thiệt hết giận rồi, thì cái màn bí mật che án sẽ xủ xuống. Anh
sẽ thấy tỏ rõ chi cũng có Thầy biết, cũng có chư Phật, Thánh, Tiên hay.
Thiên-phong Chức sắc nào ở Tây-Ninh thiệt có tội thì bị phạt, không khi nào
chạy khỏi.
Vì Anh sẽ
thấy rõ chữ Nhựt trong Đạo-hiệu Thái Ca-Thanh của Anh. Đó là
một cái lắt-léo của Cơ để cho Anh biết mà phân biệt chơn giả đó. Trong lòng Anh
thiệt hết giận rồi, tự nhiên Anh cũng sẽ thấy rõ-ràng là không có Thần hay Tiên
Thánh nào xúi Anh thêm nghịch, dạy Anh chia lìa, đốc Anh truyền rao nhục mạ
Tây-Ninh rồi lại gia phong cho Anh và các vị theo giúp Anh, hối đốc lập dựng
Thánh Thất Cầu Vỹ mà làm Toà-Thánh để nhóm Hội-Thánh Tây Ninh, mượn nhà Anh mà
làm Hiệp-Thiên Đài, Anh sẽ thấy rõ ràng là cơ cám dỗ nương cái hơi phiền-phức
của Anh và chư vị kia mà phát hiện những sự ấy đặng giúp cho mấy Anh Em được
thoả tình tư tưởng.
…. Nếu
Anh và các Anh theo Anh mà còn dụ-dự, tiếc áo-mão thì cái Minh-Chơn-lý của mấy
Anh em sẽ bị nơi áo-mão đó mà mất hết chủ-nghĩa hay, rồi cũng vì áo-mão đó trì
nặng phải chìm không phương cứu vớt.
Tây-Ninh 1er Novembre 1932( Thượng Tương Thanh)
Thầy có
dạy rồi: Trời không hai mặt, đất chẳng hai vua. Cũng vì chữ “NHỰT” của Ngài Đầu
Sư Thượng Trung Nhựt mà ông Thái Ca Thanh quá ham muốn nên mích lòng
với Ngài Đầu Sư xong rồi tách khỏi Toà Thánh Tây Ninh và xưng đạo hiệu là Thái
Ca Nhựt, cũng như ông Ngọc Thiệu cũng lấy đạo hiệu là Ngọc Thiệu
Nhựt, rồi nảy sanh chi phái. Thực ra chữ NHỰT đây trước nhứt là phải đủ Tam
bửu của Trời là NHỰT- NGUYỆT- TINH do Đức Chí Tôn ban cho thì mới có giá trị,
chứ nào phải đâu do ham muốn quá mà tự ban cho mình thì có giá trị gì đâu !
Thầy có dạy rồi:
Đạo Thầy nhiều
nhánh các con ôi!
Nhánh có trái
bông, nhánh cụt còi.
Thiết nghĩ đây là
do Thiêng liêng ban thưởng nào phải do ý phàm mà tính rối, rồi mích lòng mà lập
ra chi phái này nọ, nọ kia làm cho cơ Đạo phân chia manh mún, thật là của qúi
không biết dùng, lại vội phân chia mà tan tành manh mún. Ôi thương thay Đạo
Trời cao vòi vọi, mà trí phàm thì quá hạn chế !
06 - NGUYỄN-NGỌC-THƠ
(1873-1950)
Thánh danh Đầu Sư
Thái Thơ Thanh
1 - Phần đời:
Ngài Đầu Sư Thái
Thơ Thanh, thế danh là Nguyễn Ngọc Thơ, tên thật là Nguyễn Văn Tơ, sanh năm
1873 tại quận Bãi Xàu tỉnh Sóc Trăng, sau lên Sài Gòn lập nghiệp ở Tân Định.
Thân sinh là Ông Nguyễn Hưng Học, cháu ruột của Trung Quân Nguyễn Văn Thiền
(kêu bằng Chú ruột), vốn dòng trâm anh thế phiệt, trung hưng công thần.
Thuở thiếu thời,
Ngài theo Nho học, sau theo Tây học, rất ái mộ Phật giáo, phụng thờ cha mẹ rất
hiếu hạnh. Ngài có làm Thơ Ký tại phòng Phiên dịch được ít lâu, sau nghỉ ở nhà,
noi theo nghiệp làm thầy hốt thuốc Bắc của ông thân, rồi ra làm thầy hốt thuốc,
lại có phụ dịch nhựt trình cho nhựt báo tỉnh.
Sau đó, Ngài bước
qua đường buôn bán, mở mang trước nhỏ, sau to, trở nên giàu có, mua được một sở
Đại Thương Cuộc tại Sài Gòn. Nhà cầm quyền Pháp lúc bấy giờ cử Ngài làm Hội
Đồng Thẩm Án tại Tam Tòa Sài Gòn, tất cả trước sau được thưởng 7 Huân chương
với 2 tấm Kim Khánh, Kim Tiền.
Chánh thất của
Ngài là Bà Bùi Thị Đông, một phụ nữ khôn khéo bề tề gia nội trợ, thuận tùng
theo chồng, tạo lập nhà cửa, phố xá tại Tân Định, sự nghiệp càng ngày càng
thạnh lợi, bề thế lớn lao.
Về sau, Ngài được
ban cho phẩm Hàm Tri Huyện, nên người đời thường gọi Ngài là ông Huyện Thơ.
Ông Nguyễn Liên
Phong, trong tập Điếu Cổ Hạ Kim Thi Tập có làm bài thơ khen tặng Ngài Nguyễn
Ngọc Thơ:
Làm trai chí khí
trước sau bền,
Án viện luận bàn
hiển họ tên.
Nề nếp ông thân
khuôn những tạc,
Phụng thờ từ mẫu
thảo tâm đền.
Dựng nền buôn bán
ra đồ sộ,
Cậy sức vợ hiền
hiệp giúp nên.
Nẻo lợi thâu vào
thành nghiệp cả,
Ơn nhờ che chở hộ
hai bên.
Con gái của Ngài
Nguyễn Ngọc Thơ là Nguyễn Thị
Hương, có chồng là
Trương Văn Tuấn, chủ nhà in Đức Lưu Phương ở Tân Định, sanh người con trai là
Bác sĩ Trương Văn Quýnh. Bà Nguyễn Thị Hương cũng theo cha nhập môn vào Đạo Cao
Đài, đắc phong phẩm Giáo Hữu ngày 14-Giêng-Đinh Mão (dl: 15-2-1927 ) đàn cơ Phong
Thánh Nữ phái kỳ I.
2- Phần đạo:
Đầu năm Bính Dần
(1926), Ông Phạm Tấn Đãi, nhà ở Rạch Kiến, tỉnh Long An, thường chấp bút để học
đạo. Ngày nọ, Ông chấp bút thì được lịnh Đức Chí Tôn dạy: "Con
hiệp cùng Trung để đi độ Thơ."
Ông Phạm Tấn Đãi
(sau đắc phong Khai Đạo Hiệp
Thiên-Đài) vâng
lịnh Đức Chí Tôn lên Sài Gòn, tìm đến nhà Ông Cao Quỳnh Cư để hỏi thăm nhà Ông
Trung.
- Bà Cư đáp: Ông
Trung có ra đây, vừa mới đi lên nhà Ông Thơ.
Ông Đãi hỏi thăm
địa chỉ của Ông Thơ, liền đi lên Tân Định tìm nhà
Ông Thơ, thì gặp Ông Trung tại đó.
Ông Đãi liền trình
bày Thánh giáo của Đức Chí Tôn dạy cho hai ông xem. Ông Thơ xem xong nói: Tôi
muốn làm sao hai ông cầu nguyện thế nào cho tôi chấp bút được thì tôi mới tin.
Ông Trung liền
chịu và bảo Ông Thơ phải trai giới ba ngày, đồng thời hai Ông Trung và Đãi cũng
ở đó hiệp nhau cầu nguyện. Ông Thơ chấp bút thông công được với các Đấng một
cách tốt đẹp, nên Ông bằng lòng theo Đạo. Ông nói với Ông Trung và Ông Đãi làm
thế nào để độ cho vợ của Ông là Bà Lâm Ngọc Thanh đang ở Vũng Liêm theo Đạo
luôn cho thuận chiều xuôi gió một đường.
Ông cầu nguyện, Ơn
Trên cho biết hiện giờ nầy bà Lâm Ngọc Thanh đang làm gì ở Vũng Liêm, cho biết
từng chi tiết để ông ghi chép, rồi hôm sau, ông đánh điện kêu bà lên Sài Gòn.
Khi bà lên tới Sài Gòn, ông hỏi các hoạt động của bà trong ngày vừa qua thế
nào, thì bà nói đúng như Ơn Trên đã mách bảo, không sai một mảy. Thế là hai ông
bà đều tin và theo Đạo.
Hai ông bà Thơ bàn
tính làm thế nào để độ Thầy mình là Hòa Thượng Như Nhãn theo Đạo luôn. Ông
Trung và ông Thơ cậy ông Đãi ra nhà ông Cao Quỳnh Cư để mời ba ông Cư, Tắc,
Sang và Đạo hữu đến nhà ông Thơ để lập đàn cầu cơ. Đàn Cơ được kết quả, Đức Chí
Tôn thâu phục được Ngài Như Nhãn.
Tại nhà của Ngài
Nguyễn Ngọc Thơ ở Tân Định, Đức Chí Tôn cho phép mở một cái Đàn để thâu nhận những
người mộ đạo, Ngài Thơ chứng đàn, phò loan là hai Ngài: Cao Quỳnh Cư và Phạm
Công Tắc.
Ngày 2-7-Bính Dần
(dl: 9-8-1926), Đức Chí Tôn phong Ngài Thơ làm Phối Sư phái Thái, cầm
quyền Thái Chánh Phối Sư, Thánh danh là Thái Thơ Thanh.
Ngày 17-2-Quí Dậu
(dl: 12-3-1933), Ngài Thái Thơ Thanh được thăng lên Quyền Thái Đầu Sư.
Ngài Nguyễn Ngọc
Thơ đã chấp nối thành vợ chồng với Bà Lâm Ngọc Thanh ở Vũng Liêm, tục gọi là Bà
Huyện Xây. Hai Ông Bà đều được Đức Chí Tôn độ theo Đạo và về sau Bà Lâm Ngọc
Thanh đắc phong Nữ Đầu Sư, Thánh danh là Hương Thanh.
Ngài Đầu Sư Thái
Thơ Thanh và Bà Lâm Hương Thanh, nhờ giàu có sẵn và một lòng tin tưởng vào nền
Chánh giáo của Đức Chí Tôn nên đã đem nhiều tiền bạc ra hiến cho Đạo trong buổi
sơ khai để xây dựng nền móng cho Đạo, như sau:
- Khi Hòa
Thượng Như Nhãn hiến chùa Từ Lâm Tự tại Gò Kén (Tây Ninh) cho Đạo Cao Đài làm
Thánh Thất để tổ chức Lễ Khai Đạo, Ngài Thái Thơ Thanh xuất tiền ra tu bổ, sơn
phết, trang trí lại thành một Thánh Thất Cao Đài, làm đường thông ra quốc lộ
cho rộng rãi, cất thêm nhà cho bổn đạo ở làm công quả ... Nhờ vậy mới có chỗ
rộng rãi tốt đẹp để tổ chức long trọng Đại Lễ Khai Đạo Cao Đài ngày 15-10-Bính
Dần (dl: 19-11-1926).
- Qua đầu năm
1927, Hòa Thượng Như Nhãn đổi ý, đòi chùa Từ Lâm lại, không hiến cho Đạo Cao
Đài nữa, Đức Lý Giáo Tông dạy Ngài Thái Thơ Thanh hiệp cùng chư Chức sắc Cửu
Trùng Đài và Hiệp-Thiên-Đài đi coi mua 100 mẫu đất rừng tại làng Long Thành với
giá 25.000 đồng thuở đó để làm nơi xây dựng Tòa Thánh và các cơ quan Trung ương
của Đạo, trả chùa Từ Lâm Tự lại cho Hòa Thượng Như Nhãn. Số tiền 25.000 đồng
mua đất do Ngài Thái Thơ Thanh và Bà Lâm Hương Thanh xuất ra cho Hội Thánh
mượn..
- Ngài Thái Thơ
Thanh xuất tiền in 10.000 tấm Thánh Tượng Thiên Nhãn Ngũ Chi khổ lớn để phát
không cho bổn đạo lập Thiên bàn thờ Đức Chí Tôn tại tư gia.
Riêng phần Ngài
Thái Thơ Thanh và Bà Lâm Hương Thanh thì xuất tiền ra khai thác một sở rừng
hoang để xây dựng Cực Lạc Cảnh, có ý muốn qui tụ các tăng ni Phật giáo qui hiệp
về đây tu hành theo Tân pháp Đạo Cao Đài, nên lập ra nhiều cảnh như: Quan Âm
Các, Long Nữ Điện, Tây Vức Trì, đặt tên các con đường là: Phước Đức Cù, Di-Lạc
Đạo. Tuy là cảnh tạm nơi cõi trần mà nghe qua như là cảnh Phật nơi cõi Cực Lạc
Thế giới..
Sau đây là Sớ Văn
phúc trình của Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh và Bà Lâm Hương Thanh (lúc cầm quyền
Nữ Chánh Phối Sư) dâng lên Hội Thánh và Đức Chí Tôn.
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ
ÐỘ
(Đệ lục niên)
Chánh ngoạt,
sơ nhị nhựt, Tân Vị, Khâm Thiên
Tổng quản Tài
Chánh, phụng sắc Chưởng quản tài liệu, Tổng lý Công viện, Lương viện, Hộ viện,
Nông viện, Phổ Độ viện.
Quyền Thái Đầu Sư
Chủ Tọa Hội Thánh, Quản lý tạo tác Tổ đình, Thái Thơ Thanh kỉnh bút.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ, Đệ lục niên, Chánh ngoạt, sơ tam nhựt, Tân Vị, Nữ Chánh Phối Sư Hương Thanh
đề bút.
Tượng mảng Đại Đạo
hoằng khai Tam Kỳ Phổ Độ lưu truyền thiên vạn cổ, bủa khắp Ngũ Châu, thì nền
Chơn đạo phải to tát mới ra cảnh tượng thể thống Đạo cả.
Vì vậy mà hai tôi
nong nã đêm ngày lo mở mang
cuộc Thánh địa,
chế ra nền Tây Vức, bởi công trường cực nhọc, trên nhờ sức thiêng liêng Đại Từ
Phụ ban bố, mới xui khiến mua thêm được 100 mẫu đất rừng, của tư bổn vợ chồng
tôi xuất ra mua, liên tiếp Thánh địa, nối dài ra tới Ngã ba Mít Một (Boulevard
d'Anglais), bề mặt tiền trên 2000 mét, giáp ranh Bá Huê Viên, nối liền Động
Đình Hồ, 1000 mét Thánh địa nữa, cộng chung là 3000 mét.
Cầu nguyện Đức
Chí-Tôn ban ơn ngày sau Hội Thánh mở mang ba phía là Đông, Nam, Bắc, mỗi phía
3000 mét, vuông vức cộng là 12.000 mét vuông, đặng xây vách thành cao lớn giáp
bốn phía, dựng nên miền Tây Vức, đề hiệu là THÁI CỰC TOÀN ĐỒ.
Trong chia ra hai
cuộc: Phía Chánh Bắc, xây cửa thành lớn, đắp nổi cao chữ "ĐẠI ĐẠO TAM KỲ
PHỔ ĐỘ", lộ ra bốn chữ to tát là "ĐẾ THIÊN THƯỢNG HOÀNG"; còn
phía Chánh Nam, cũng tại cửa thành y kiểu ba mặt như nhau, đề hiệu là "ĐẠI
ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ", hiện ra bốn chữ "ĐẾ THÍCH PHẬT TỔ"; phía
Chánh Đông, tạo một cuộc Ngũ Quang Môn, nghĩa là Đại Thành Môn, có năm cửa Ngũ
Chi Đại Đạo, hiện ra bốn
chữ "THÁI CỰC
TOÀN ĐỒ"; còn Chánh Tây Môn thì cửa thành y kiểu ba phía
đề hiệu là Tây Vức Cảnh.
Trong Thái Cực
Toàn Đồ chia ra làm hai cuộc: Bên phía Bắc là BẠCH NGỌC KINH, tạo tác Tổ Đình,
có Bá Huê Viên, Động Đình Hồ, Đức Thế Tôn ngự mở cảnh thoát trần, Đức Di-Lạc
giáng thế khai Long Hoa Hội. Hai bên là Rừng Thiên Nhiên, phía sau lập Cửu
Viện, Thiên Phong Đường, Đầu Sư Đường, Chánh Phối Sư Đường, Hộ Pháp Đường, Thái
Y Viện, Dưỡng Lão Ấu, Tịnh Thất Sở, và Học Đường, Dưỡng Đường, với các xưởng Bá
công kỹ nghệ. Còn các con đường: 1 - Như Lai Đồ. 2- Di-Lạc Đạo.
3-Phước Đức Cù. 4-Oai Linh Tiên. 5- Bình Đặng Đồ.
6- Sử Quân
Tử. 7- Thái Hòa Lộ,. 8- Bình Dương Đạo.
Còn bên phía Nam
thì tạo CỰC LẠC VÔ VI CẢNH GIỚI, là đắp con đường chữ Thập lớn dài từ Nam chí
Bắc, từ Đông giáp Tây, gọi là TỨ TƯỢNG ĐỒ biến BÁT QUÁI, chính giữa Ngã Tư biến
ra Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Giữa trung tim, un đúc một cảnh
Nội Điện Đế Thích, giống in như cuộc cổ tích trên chốn Đế Thiên gần nước Xiêm
La vậy.
Phía bên hữu Tây
Bắc thì tạo Quan Âm Các, phía bên tả Tây Bắc thì dựng Long Nữ Điện. Phía bên
hữu Đông Bắc thì cất Tòa Kinh Viện 15 căn lầu ba từng nóc. Phía bên tả Đông Nam
thì xây núi Tô Sơn, trên chót núi có đắp tượng Đức Thế Tôn nằm qui Niết Bàn, bề
dài 12 thước tây, trên đảnh trung có Thạch động Phổ Đà Sơn, Đức Từ Hàng Đạo Nhơn
thành Phật ấy là năm cuộc to lớn.
Còn các cuộc nhỏ
khởi tạo trước là: tạo Thất Bửu Tháp, đào Tây Vức Trì, cất Thưởng Liên Đình,
tạo Từ Thiền Lâm. Trong cuộc Từ Thiền có 3 con đường cái:
1-Bát Nhã Đạo 2- Bồ Đề Lộ. 3- Như Ý Cảnh.
Lựa những bậc chơn
tu trường trai khổ hạnh, từ
trung thừa sắp lên
mới cho vào trong cuộc Từ Thiền Lâm
nầy, vuông vức 500
công.
Ấy là bên hướng Nam .
Còn bên hướng
Bắc thì Thái Bình Địa, cũng 500 công, cất Chợ Từ Bi, Nhà Thương, Nhà Thí,
Nhà Mát, Nhà Nghỉ cho bực tín đồ nhập môn theo Hạ thừa sắp lên thì được phép ở.
Ước mong ngày sau, Hội-Thánh mở mang cuộc Thánh Địa nầy cho giáp hết núi Điện
Bà đặng ra vẻ nền Chơn đạo.
Trân trọng một bài
kính cáo, nguyện cầu Đạo mạch
hoàn toàn lưu
truyền, trăm họ trước sau an nhàn.
Thái Thơ Thanh,
Lâm Hương Thanh kỉnh đề.
Chuyển đạt Thiên
Đình, ngưỡng vọng Đại Từ Phụ Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chứng chiếu.
Ngu đệ tử phục thủ
bá bái.
3 - Vài nét về:
CỰC LẠC CẢNH:
Nguyên nhân tạo
Cực lạc Cảnh ? -Vào năm Quí Dậu (1933) Đức Hộ Pháp cho công thợ xây dựng Báo Ân
Từ. Kể như Đức Ngài chuẩn bị dành khi di dời tạo Tòa Thánh sẽ làm nơi thờ
phượng. Trong giai đoạn nầy ông Quyền Thái Đầu Sư chủ tọa Hội Thánh quản lý tạo
tác Tổ đình, Thái Thơ Thanh kỉnh bút:
Ông cùng bà Lâm
Hương Thanh, Nữ Chánh Phối Sư mua thêm 100 mẫu đất liên tiếp Thánh Địa, có
thượng tấu với Đức Chí Tôn và thông tri toàn Đạo. Đông, Tây, Nam, Bắc mỗi phía
ba ngàn thước vuông vức, chu vi là 12 ngàn thước đặng xây vách thành cao lớn
bốn phía dựng ra miền Tây Vức đề bốn chữ nổi “THÁI CỰC TÒAN
ĐỒ”.
Ông Tạo Bát Bộ Kim
Cang có 8 cảnh:
1 - Quan Âm
Các 2 - Long Nữ Điện 3 -
Tàng Kinh Viện
4 - Phổ Đà
Sơn 5 - Kim Cang
Động 6 - Bồ Đề Ốc
7 - Tây Vức
Trì 8 - Bát Bửu Tịnh Thất.
Phần trong có Lục
Thông Cơ sở:
1 - Giảng
Đường 2 - Tịnh
Đường
3 - Túc Đường
4 - Dưỡng
Đường 5 - Thiên Ân
Đường 6 - Học Đường.
Còn về lộ:
1 - Như Lai
Đồ 2 - Di Lạc
Đạo 3 - Phước Đức Cù
4 - Oai Linh
Tiên 5 - Bình Đẳng Đồ
6 - Sử Quân Tử
7 - Thái Hòa
Lộ 8 - Bình Dương Đạo
9 - Tây Qui Trực
Chỉ 10 - Thượng Hòa Lộ.
Bên ngoài phía
Đông trong cuộc từ Thoàn Bát Bộ Kim Cang có 3 con lộ:
1 - Bát-Nhã-Lộ 2 - Bồ Đề
Lộ 3 - Như Ý Cảnh.
Thế nên đêm 01-07-Tân Mùi (1931) tại
Bửu Điện
Tòa Thánh Đức Hộ
Pháp với Văn Pháp Phò Loan Đức Lý giáng cơ rầy ông Thái-Thơ-Thanh phải bỏ cả
hình tướng Thiền-môn thì mới mong tạo thành Cực Lạc Vô Vi cảnh
giới, hiểu à ? Muốn tạo Cực Lạc hỏi Hộ Pháp chỉ cho.
Đến 09-12-Tân Mùi,
12 giờ khuya Hộ Pháp chấp bút. Quan Âm giáng điển cho thi như sau:
Đại kế qui nguyên
vĩ đình thì,
Hành tàng cụ Pháp
chưởng phong lôi.
Thiền môn nhược
bất khai môn nội,
Cửu nhị nguyên
nhân bất cố hồi.
Rồi đến 15-12-Tân
Mùi (dl: 22-1-1932 ) tại
Phạm Nghiệp: Phò Loan Hộ Pháp- Tiếp Đạo. Hầu bút Sĩ Tải Ngọ. Hầu đàn Đức Quyền
Giáo Tông và ông Thái Thơ.
Đức Chưởng Đạo về
cơ có câu:
Kẻ vì mị đoái hoài
giả tạo,
Kẻ hay tin quái
giáo gây trò.
Nguyên nhân lỡ
bước ai lo?
Đem đường Cực lạc
đưa đò mê tân.
Đức Chưởng Đạo nói
khó viết nên thăng nhờ Lục Nương tiếp giáng điển toàn bài cũng đề
tài khuyên ông
Thái Thơ có những
từ như sau:
Phải hiểu nghĩa
Thiền Lâm cho rõ,
Các thinh âm chẳng
có cửa Không.
Bớt điều sắc tướng
huờn vong,
Bớt điều hồ mị
nhọc lòng phạn hương
Bớt các lễ người
đương mê!
Đức Chí Tôn giáng
cơ dạy Ngài Thái Thơ Thanh:
TNHT. II. 6:
"THƠ, nghe dạy:
Thời kỳ Mạt pháp
nầy khiến mới có Tam Kỳ Phổ Độ, các sự Hữu hình phải hủy phá tiêu diệt.
Thầy đến chuyển
Đạo, lập lại Vô Vi, các con coi thử bên nào Chánh lý: Hữu hình thì bị diệt
đặng, chớ Vô
Vi chẳng thế nào
diệt đặng.
Thơ! Thầy đã
khiến con đi Đế Thiên Đế Thích đặng xem cho tạng mặt Hữu hình, nội thế gian nầy
ngày nay ai cũng nhìn nhận cho là tối đại, mà con đã thấy nó còn bền vững đặng
chăng? Lòng đạo đức của con, Thầy thấy rõ, nhưng thời giả dối đã qua, thời kỳ
chân thật đã đến, Thầy không muốn cho con hao tài tốn của mà gìn giữ sự giả
dối.
Chẳng cần chi con
lập Thánh Thất của Thầy và sùng tu Phật tượng chi hết. Con hiểu bổn nguyên Bảo
Sanh là bổn nguyên Thánh chất Thầy. Thầy khuyên con để dạ lo cho nhơn sanh mà
thôi, phần hồn về Thầy."...
Các Đấng thiêng
liêng giao cho Lục Nương Diêu Trì Cung giáng cơ trả lời Ngài Đầu Sư Thái Thơ
Thanh về Tờ Sớ xin làm Cực Lạc Cảnh và Thái Cực Đồ.
Đức Nguyệt Tâm
Chơn Nhơn giáng mở đầu, sau đó nhượng cơ cho Lục Nương.
NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN
Mặt nhựt rạng nhờ
trời thanh bạch,
Cõi trần may nhờ
khách đức dày.
Mùi hương sen Phật
đã bay,
Từ bên Đông Á phô
bày Tây Âu.
Nước hằng sống rửa
bầu thế sự,
Khiến nguyên nhân
đổi dữ theo lành.
Vạn bang dẹp cuộc
chiến tranh,
Lập cơ thoát khổ
độ sanh muôn loài.
Kẻ vì mị đoái hoài
giả đạo,
Kẻ hay tin quái
giáo gây trò
Nguyên nhân lỡ
bước ai lo,
Đon đường Cực Lạc
đưa đò mê tân.
Khá hiểu nghĩa
Thiền Lâm cho chóng,
Các nguyên nhân
trông ngóng bấy lâu.
Biết thân lại đợi
ai cầu,
Tái cầu, Lục Nương
tiếp:
Cầm gươm thần huệ
soi lầu nguyệt quang.
Dục thế tục an
nhàn lấy phận,
Cửa Thiên cơ khỏi
vấn vương oan.
Để chân vào cõi
Niết Bàn,
Thoát vòng luân
chuyển may đàng tầm duyên.
Tu đặng phép nhà
Thiền ít kẻ,
Những đam mê theo
lẽ dối đời.
Sa môn chánh pháp đổi dời,
Con buôn cửa Phạm
gạt người thiện tâm.
Khá hiểu nghĩa
Thiền Lâm cho rõ,
Các thinh âm chẳng
có cửa Không.
Bớt điều sắc tướng
hoàn vong,
Bớt điều hồ mị
nhọc lòng phạn hương.
Bớt những lẽ người
đương mê tín,
Nhập Tịnh gia cậy
lịnh Thích Ca.
Bớt điều làm sãi
bó ma,
Đưa linh lại mượn
có nhà minh sanh.
Bớt những lẽ giựt
giành bái phước,
Lấy Vu Lan đặng
được ấm no,
Bớt kinh bớt xá
dâng thơ,
Mã môn con hát giả
đò giải khiên.
Bớt cậy Phật lập
quyền Địa Ngục,
Bớt đồ mưu lấy
phục Di-Đà.
Bớt phương giải
nạn tinh ma,
Lập nên danh phận
cho nhà quỉ tăng.
Thái Thơ thanh,
Anh khá kiếm lời
răn của Phật,
Lấy từ bi dìu dắt sa môn.
Phật tăng như xác
không hồn,
Lấy câu cứu khổ
làm môn độ đời.
Anh khá mở cho rồi
Cực Lạc,
Lập đường tu cho
các chư sơn.
Tùng theo Tân Pháp
Chí Tôn,
Đường tu cửa Phật
may huờn như xưa.
EM nói rõ cho vừa
ANH hiểu,
Bác Thiền Lâm,
tùng kiểu Tam Kỳ.
Phép mầu hai chữ
Từ Bi.
THĂNG
Đức Chí Tôn giáng
cơ tiết lộ cho biết, nguơn linh của Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh là Từ Hàng
Bồ Tát, và của Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh là Long Nữ, đồ đệ của Đức
Quan Âm Bồ Tát và của Ngài Đầu Sư Thái
Nương Tinh là Văn
Thù Bồ Tát.
Sau đây xin chép
lại bài: Đức Phạm Hộ Pháp xuất vía về Bạch Ngọc Kinh và Cực lạc Thế giới, thấy
Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh, Chơn linh của Đức Từ Hàng Bồ Tát giáng trần, vào
năm Đinh Mão (1927):
"Lúc mở Đạo ở
Nam Vang (Tần quốc), Đức Phạm Hộ Pháp xuất Chơn thần về Thiên đình, qua Bạch
Ngọc Kinh và Cực Lạc Thế giới, thấy Cửu phẩm Liên Hoa, nên
thuật y câu chuyện lại cho Ngài Thái Thơ Thanh nghe như vầy: Đương lúc mơ màng,
Chơn thần liền xuất đi, thấy ngồi trên một cái xe ngựa, day qua thấy cảnh Thất
thập nhị Địa, qua đến Tứ Đại Bộ Châu, nhìn thấy Đức Chí Tôn đứng trên Tòa Kim
Khuyết, Đức Lý Giáo Tông cũng đứng trên bàn, kế Chức sắc Thiên phong, mấy vị
Đạo tâm đứng hầu Ngài….”
Năm 1950, Ngài Đầu
Sư Thái Thơ Thanh trở về nhà riêng ở Tân Định Sài Gòn để dưỡng bịnh. Ngài bị
một bọn cướp ăn mặc giả trang là người thân đến thăm, lọt được vào nhà, chúng
ám hại Ngài để cướp bóc tiền của và vàng bạc.
Ngài qui vị ngày 21-7-Canh Dần (dl: 3-9-1950)
hưởng thọ 77 tuổi.
Hội Thánh hay tin, đem Liên đài xuống Sài Gòn để tẫn liệm thi
thể rồi rước về Tòa Thánh Tây Ninh làm lễ Đạo táng rất long trọng. Liên đài nhập
Bửu tháp, xây tại Đông Lang Tòa Thánh và đem bửu ảnh thờ nơi Báo Ân Từ
Bài thài hiến lễ Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh:
Tu thân giáo hóa chỉnh đời thanh,
Đồng chúc lê dân hưởng phước lành.
Cõi tục cầu an
kinh tụng niệm,
Lời truyền nguyện thấu đến cao xanh.
Mưa nhuần gió thuận Nghiêu - Thang tịnh,
Nắng tốt tuyết hòa Thuấn - Võ thanh.
Đồng hưởng đời đời câu thạnh trị,
Tiêu diêu khoái lạc chí hùng anh.
Bài thài nầy về sau được Hội Thánh dùng làm bài thài hiến lễ
chung trong Lễ cúng kỹ niệm và tế lễ các vị Nam Nữ Đầu Sư quá vãng hằng
năm.
Ngày mùng 8-4-Nhâm Dần (dl: 5-8-1962), tại Thánh Tịnh Huỳnh
Quang Sắc ở Bình Đông, Chợ Lớn, Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh có giáng cơ cho bài
thi ngụ ý cho biết Ngài trở về cõi thiêng liêng được đắc phong là Từ Hàng Đạo
Nhơn.
THI
TỪ bi xây dựng lập ban vui,
HÀNG mặc viết tu bước thẳng xuôi.
ĐẠO lý sáng soi dìu khách tục,
NHƠN luân tô điểm tợ hoa tươi.
NGUYỄN gia gội phước gìn nên một,
NGỌC quí đượm màu giữ vẹn mười.
THƠ phú Thần Tiên ngâm hiểu nghĩa,
GÍANG khuyên ráng học đạo làm người.
Khoán thủ 8 câu thơ trên là: Từ Hàng Đạo
Nhơn
Nguyễn Ngọc Thơ giáng.
Tiếp theo, ngày 15-9-Nhâm Dần (dl: 13-10-1962), cũng tại
Thánh Tịnh Huỳnh Quang Sắc, Ngài Thái Thơ Thanh giáng cơ ban cho Kinh Nhạc Đạo
Hành Ca, giảng giải về Đạo lý:
TỪ tâm cứu khổ độ quần sanh,
HÀNG uyển chỉnh tu tạo sống lành.
ĐẠO lý gieo truyền gầy hạnh lạc,
NHƠN luân bồi đắp tạc thinh danh.
NGUYỄN gia phước huệ nêu màu đẹp,
NGỌC tốt tinh vi rạng sắc thanh.
THƠ viện sáng soi gìn giác thế,
GIÁNG phân lẽ phải gắng thi hành.
Đàn nay, Bần đạo thừa vâng sắc lịnh của Đức Chí Tôn giáng tả
Kinh NHẠC ĐẠO HÀNH CA quyển nhứt trên đường khai thông chuyển hóa.
TỰA KINH
NHẠC lòng hòa tấu bản Đường Tu,
ĐẠO đức sáng soi vẹt ngút mù.
HÀNH hóa cảm thông khai mạch sống,
CA ngâm đúng điệu tỉnh phàm phu.
Nhạc Đạo Hành Ca là những điệu sóng đàn lành mạnh hòa nhịp
bản ca đạo đức, là những giọng dịu hiền giác hóa khách trần đi trên khúc quanh
mê lộ.
- HÀNH CA lý tưởng khai triển bước quang vinh.
Câu đối:
- Nhạc ĐạoTam Kỳ giác ngộ trần mê khai tâm chuyển hóa,
- Hành Ca nhứt lộ xiển dương chánh pháp bỉnh tánh hồi
nguyên.