Đại Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ
( Đạo Lịch 91 )
Tòa Thánh Tây Ninh
Lời
dẫn: Năm 1832, vua Minh Mạng chia toàn Nam kỳ làm sáu tỉnh, với
tổng cộng 18 phủ, 43 huyện, vùng đất Tây Ninh thuộc trấn Phiên An. Đến năm Minh
Mạng thứ 17 (1836) vua Minh Mạng cho đổi tên tỉnh Phiên An thành tỉnh Gia Định
lập thêm phủ mới tên Tây Ninh. Phủ Tây Ninh chính thức được thành lập, gồm hai
huyện Tân Ninh và Quang Hóa trực thuộc tỉnh Gia Định. Địa danh Tây Ninh với tư
cách là một đơn vị hành chính cấp phủ lần đầu tiên có tên trên bản đồ hành
chính VN.
Về lịch
sử thì Tây Ninh là vùng đất của Thủy Chân Lạp, có tên là Romdum Ray, tức Chuồng
Voi (Pare aux éléphants) vì nơi đây chỉ có rừng rậm với muôn thú dử mà cọp,
voi, beo, rắn,... cư ngụ. Những người thổ dân ở đây sống rất thiếu thốn, cơ cực
cho đến khi người Việt đến khai hoang làm thành vùng đất trở nên trù phú.
Thánh
địa Cao Đài nằm về phía Đông tỉnh lỵ Tây Ninh. Toà Thánh cách Tỉnh lỵ 5 cây số
và cách Saigon 99 cây số. Thánh ý của Đức Chí Tôn muốn xây dựng tại Tây Ninh
một ngôi Tòa Thánh khang trang để tạo thành khối Đức tin cho toàn tín đồ Đạo
Cao Đài. Thánh ngôn của Đức Chí Tôn: "Các con phải chung hiệp
nhau mà lo cho hoàn toàn Tòa Thánh, chi chi cũng tại Tây Ninh đây mà thôi."
Khởi
tiên, khai phá khu bàu Cà Na và sân bay. Lúc đó (1926) còn là rừng già, âm u
chướng khí. Nước hết sức độc. Thú dữ như cọp, gấu, beo, v.v... nhiều vô kể.
Các tín
hữu Cao Đài do nhiều nơi trên toàn quốc qui tụ về Tây Ninh, bắt đầu từ năm
1926. Đức tin mạnh mẽ vào Thượng Đế tạo nên sức mạnh giúp tín đồ phá rừng lấy
gỗ xây dựng. Di chuyển ngoài đi bộ, chỉ có xe ngựa, xe bò nhưng quyết tâm “bắt
gió nắn nên hình” với sự hướng dẫn của các Đấng Thiêng liêng. Kết quả là TÒA
THÁNH TÂY NINH hiện lên sừng sửng một góc trời. Một Tòa Thánh với kiến trúc độc
đáo trên thế giới.
Làn
sóng di dân mạnh nhất vào khoảng năm 1947-1950, tức là sau lúc Đức Hộ Pháp được
trả tự do. Kế đến là khoảng 1953-1954, chiến tranh Việt Pháp đến hồi quyết
liệt. Di dân chạy về Thánh Địa sống dưới bóng Đạo vì được mang danh THÁNH ĐỊA
VÔ PHÒNG THỦ. Vào năm 1966-1967 mặt trận miền Trung sôi động, các tỉnh Bình
Định, Quảng Ngãi, thêm một số dân Đạo dời gia đình về Toà Thánh lập nghiệp vùng
Vườn Điều (xã Ninh Thạnh).
Dân
chúng đông đảo lại nghèo khổ nên quý vị Chức sắc Đại Thiên Phong, nhất là Đức
Hộ Pháp đã đổ biết bao công sức gầy dựng cho khu rừng rậm hoang sơ trở thành
vùng Thánh địa xinh đẹp như ngày nay. Trong Nội Ô Tòa Thánh, lần lượt những
dinh thự của các cơ quan Đạo được xây dựng nên. Còn vùng ngoại ô, đường xá được
qui hoạch dọc ngang thẳng tấp, chợ, trường cũng phát triển theo. Dân chúng sống
trong cảnh an vui, đạo tâm dần nảy nở.
Nội Ô
Tòa Thánh còn ẩn chứa rất nhiều bí pháp học Đạo, tuy nhiên chỉ những ai vững
đức tin, biết định tâm định trí học hỏi và trầm tư mới khám phá được. Gần một
thế kỷ trôi qua kể từ ngày KHAI MINH ĐẠI ĐẠO. Bao tang thương biến đổi, người
tín đồ nghĩ đến thêm đau lòng!
Xin
tri ân những bậc tiền bối đã khuất.
Chúng
ta hãy cùng cầu nguyện:
“…Từ
điểm Thương Yêu trong tâm Thượng Đế
Xin
Thương yêu tràn ngập trong tâm con người
Cầu
xin Đức Di Lặc (Đức Chúa Christna) sớm xuất hiện ở trần gian.
Từ
trung tâm nơi Thiên Ý biểu lộ
Xin
THIÊN Ý hướng dẫn ý chí yếu ớt của con người.
THIÊN
Ý mà các Chân Sư biết và phụng hành.
Từ
trung tâm mà ta gọi là loài người.
Xin
Thiên Cơ của THƯƠNG YÊU và ÁNH SÁNG thực hiện.
Và
mong sao Thiên Cơ sẽ đóng kín nẻo tà.
Cầu
xin ÁNH SÁNG, TÌNH THƯƠNG và SỨC MẠNH sẽ vãn hồi Thiên Cơ trên trần thế.”
Tòa
Thánh Tây Ninh, tọa lạc tại xã Long Thành Bắc, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây
Ninh, cách Thị Xã Tây Ninh khoảng 5 km về hướng Đông Nam, thuộc Miền Nam
nước Việt Nam.
Huyện Hoà Thành trước 1975 có tên là huyện Phú
Khương. Huyện nằm ở vị trí trung tâm giáp với 5 huyện thị
trong tỉnh.
Diện tích: 81,8 km2.
Dân số:
135 200 người.
Huyện
gồm thị trấn Hòa Thành và 7 xã khác: Hiệp Tân, Long Thành Bắc, Long Thành Nam, Long Thành Trung, Trường Đông, Trường Hòa, Trường Tây.
Dân cư
trong huyện gồm các dân tộc: Kinh, Chăm, Khmer và người Hoa.
Lịch sử hình thành
Năm 1698, Hòa Thành là phần đất nằm trong đạo Quang
Phong thuộc phủ Gia Định. Vào thời kỳ này, đất đai Hòa Thành phần lớn là rừng
rậm hoang vu. Hạt Tây Ninh, lúc bấy giờ mới có 2 quận: Trảng
Bàng và Thái Bình.
Năm 1942, quận Thái Bình đổi tên là quận Châu Thành
thì Hòa Thành chỉ là phần đất Đông Nam huyện gồm 4 xã. Sau năm 1954, Chính quyền chia huyện Châu Thành là 2 quận: Phú Khương và Phước Ninh. Quận Phú
Khương gồm 11 xã. Hòa Thành ngày nay, gồm phần lớn diện tích đất của quận Phú
Khương xưa.
Chính
quyền, thời kỳ 1955-1956, thành lập huyện Tòa
Thánh gồm 4 xã. Cuối năm 1960, huyện Tòa Thánh, sáp nhập với huyện Dương Minh
Châu, lấy tên là huyện Phú Khương.
Đến năm 1979, huyện Phú Khương được
đổi tên lại thành huyện Hòa Thành, trên cơ sở chữ cuối của các xã Trường Hòa và
Long Thành ghép lại.
- Chia
xã Long Thành thành các xã Long Thành Bắc, Long Thành Trung, Long Thành Nam và
thị trấn Hòa Thành.
- Chia
xã Hiệp Ninh thành xã Hiệp Ninh và xã Hiệp Tân.
- Chia
xã Ninh Thạnh thành xã Ninh Thạnh và xã Ninh Sơn.
- Chia
xã Trường Hòa thành xã Trường Hòa, xã Trường Đông và xã Trường Tây.
- Xã
Suối Vàng Cạn đổi tên thành xã Tân Bình.
Ngày 10 tháng 8 năm 2001, các xã Tân Bình, Ninh
Sơn, Ninh Thạnh, Thạnh Tân, Hiệp Ninh và 139 ha diện tích tự nhiên với 7.815 nhân khẩu của xã Hiệp Tân
được sáp nhập vào thị xã Tây Ninh (nay là thành phố Tây Ninh).
Hoà
Thành có mạng lưới giao thông thuỷ bộ khá dày đặc. Phía nam huyện có sông Vàm
Cỏ Đông chảy qua, dài 11 km với cảng Bến Kéo. Ngoài ra, có rạch Tây Ninh, suối Rạch Rễ
phân bố đều trong huyện phục vụ tốt cho nông nghiệp, giao thông. Đường bộ,
ngoài các trục lộ chính như quốc lộ 22B đoạn qua huyện dài 12,8 km, đường
tỉnh 781, 785, 790, 793, 797, 798, 799, còn có mạng lưới đường nông thôn chằng
chịt từ thị trấn toả đi các xã trong và ngoài huyện.
Diện
tích tự nhiên của huyện hiện là 8.311,84 ha , đơn vị hành chính gồm thị trấn Hoà Thành và 7 xã (Hiệp
Tân, Long Thành Bắc, Long Thành Trung, Long Thành Nam, Trường Đông, Trường Hoà,
Trường Tây). Dân số toàn huyện năm 2014 hơn 144.000 người.
Chợ lớn
nhất của huyện Hòa Thành là chợ Long Hoa.
Đàn Khai Đạo nhằm ngày 15 tháng 10 năm Bính Dần (DL 19 –
11 – 1926) tại chùa Gò Kén (Từ Lâm Tự), nằm
gần QL22B, Long Thành Trung, Hoà Thành, Tây Ninh.
Trong
cuốn Đạo sử (đạo Cao Đài) do nữ Đầu sư Hương Hiếu biên soạn, có đoạn viết về
chùa Gò Kén vào năm 1926 như sau: “Cảnh
chùa này vốn của hoà thượng Như Nhãn ở chùa Giác Hải (Chợ Gạo) quyên tiền trong
bổn đạo của ông mà lập ra. Tháng 7 năm Bính Dần (Aout 1926), ông tình nguyện
dâng chùa ấy cho Đại đạo Tam Kỳ phổ độ để làm thánh thất.
Nơi Chùa Gò Kén chỉ là bước đầu cho sự phôi thai khai
sáng nền Đạo, rồi Đền Thánh Tổ Đình phải được xây cất trên phần đất “Lục
Long Phò Ấn”, một nơi rừng sâu nước độc. Sở rừng 140 mẫu tây của người Pháp
tên ASPA tọa lạc làng Long Thành nằm dọc theo quốc lộ 13 đường đi Tây Ninh,
Suối Đá, Phan, Chà Là.
Thánh Giáo ngày 21 – 01 – Đinh Mão (21 – 2 – 1927), Đức
Lý Giáo Tông giảng dạy: “Thái Thơ Thanh, Lão cậy Hiền Hữu một phen nữa,
mai nầy đi lên đường trên gọi là đường dây thép, nhắm địa thế dài theo cho tới
ngã ba Ao Hồ coi Hiền Hữu thấy đặng chăng…”.
Đến ngày 23 – 01 – Đinh Mão, Đức Lý giáng dạy: “Lão
khen Thái Thơ Thanh phải đó đa ! Tưởng chư Hiền Hữu không thấy nữa”.
“Lão cắt nghĩa vì sao cuộc đất ấy gọi
là Thánh Địa? Sâu hơn ba trăm thước, như con sông, giữa trung tim đất giáp lại
trúng giữa sáu nguồn làm như sáu con Rồng đoanh nhau”.
“Nguồn nước ấy chảy trúng ngay đỉnh
núi gọi là “Lục Long Phò Ấn”, ngay miếng đất đó được ba đầu: Một đầu ra Giếng
Mạch Ao Hồ, hai đầu nữa bên cụm rừng bên kia…”.
“Người Lang Sa chỉ đòi hai mươi ngàn,
Lão dặn trả giá mười bảy, mười tám ngàn thì mua đặng”.
“Còn xin khai khẩn miếng đất rừng bên
kia nữa mới trọn. Đất nay còn rẽ, đất chung quanh Thánh Địa ngày sau hóa vàng.
Chư Hiền Hữu lo lập, ngày sau rất quí báu!”.
Đền Thánh tượng trưng Bạch Ngọc Kinh tại thế. Gọi
Đền-Thánh Tây-Ninh hay Tổ Đình, vì đây là gốc, là nơi phát xuất của Đạo
Cao Đài, là nơi đặt các cơ quan trung-ương của Hội Thánh Cao Đài, tức Hội
Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Ðạo Cao Ðài do Ðức Chí Tôn Thượng Ðế lập nên, được chánh
thức làm Lễ Khai Ðạo vào ngày 15-10 Bính Dần (Dl 19-11-1926).
Chi phái là những chi nhánh nhỏ do những Chức sắc gốc của
Ðạo Cao Ðài Tòa Thánh Tây Ninh tách riêng tự lập ra, không còn chịu hệ thống
của Hội Thánh Tòa Thánh Tây-Ninh nữa.
Kể từ khi Pháp Luật Đạo ra đời, nghĩa là sau khi Đức Chí
Tôn ban cho Pháp Chánh Truyền và dạy lập Tân Luật để phân định quyền-hành cho
các Chức-sắc để dễ bề làm việc, thì có sự rạn nứt dần. Khi đã có phẩm tước rồi
thì vì quyền hành nên có chỗ bất đồng ý-kiến, dù là phẩm tước này do Đức
Chí-Tôn ban tặng tuỳ theo quả vị Thiêng Liêng Các vị này tự ý tách ra lập riêng
phe phái và tự ban cho phẩm tước cao tột theo như ý muốn cá nhân của phàm ngã.
Các vị này lập Cơ bút riêng, phong thưởng Chức sắc riêng, tạo thành những Chi
phái của Ðạo Cao Ðài.
Từ năm 1928 đến năm 1934, có 5 Chi phái được lập ra hoạt
động đáng kể, nhưng vì muốn đủ con số 12 Chi phái, nên người ta kể thêm những
nhóm nhỏ lẻ tẻ mà đúng ra không thể gọi là Chi phái (vì không có Hội Thánh).
Năm Chi phái hoạt động đáng kể lúc đầu là:
- Chiếu Minh (1927)
- Cầu Kho (1930)
- Minh Chơn Lý (1931)
- Tiên Thiên (1932)
- Ban Chỉnh Ðạo Bến Tre (1934).
Rồi từ 5 Chi phái nầy lại nảy sanh
nhiều Chi phái khác nữa, như: từ Minh Chơn Lý nảy ra Minh Chơn Ðạo, từ Chi phái
Chiếu Minh vô-vi nảy ra Chiếu Minh Ðàn, Chiếu Minh Long Châu…v.v.
Chọn đất Tây Ninh làm Thánh Địa là nguồn cội Đạo Trời, để
bao bọc, chở che cho toàn nhơn loại vì đạo đức thương yêu nhau, không sát hại
lẫn nhau hầu tránh nạn chiến tranh hạt nhân nguyên tử.
" Các con nghe! Nơi nào Thầy ngự thì nơi ấy là Thánh Địa:
chi chi cũng tại Tây Ninh nầy mà thôi "
Châu Thành Thánh Ðịa là một vùng
ngoại ô rộng lớn của Tòa Thánh Tây Ninh, rộng 20.383 mẫu, (theo tài liệu trong
sách 40 năm lược sử Ðại Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ của Hoài Nhân), do các tín đồ Cao Ðài
từ khắp nơi trong nước về Thánh Ðịa khai phá lập nghiệp sanh sống.
Theo Bảng Thống Kê trước năm 1974,
Châu Thành Thánh Ðịa có tất cả 18 Phận đạo, từ Phận đạo Ðệ nhứt đến Phận đạo
Thập bát. Các Phận đạo nầy được phân ra làm 3 khu vực theo hướng Bắc Nam :
- Châu Thành Bắc có 6 Phận
đạo: 6, 10, 11, 12, 13, 18.
- Châu Thành Nam có 6 Phận đạo: 5,
8, 9, 14, 15, 16.
- Châu Thành Trung có 6 Phận
đạo: 1, 2, 3, 4, 7, 17.
Năm 1974 số Phận đạo là 19 và năm
1975 số Phận đạo được 20
Theo Bảng thống kê năm 1974 báo cáo
Hội Nhơn sanh năm Giáp Dần (1974) Châu Thành Thánh Ðịa có:
- Số Phận đạo: 19.
- Số Hương đạo: 198.
- Số nóc gia: 29874.
- Nhân số: 170 000
người.
- Số lộ đất: 608 con
đường.
Số Hương đạo và Phận đạo càng lúc
càng tăng vì số tín đồ Cao Ðài qui tụ về Thánh Ðịa càng ngày càng đông. Mỗi
Phận đạo có chừng 10 Hương đạo. Mỗi Hương đạo có 3 Ấp đạo, mỗi Ấp đạo có 36 nóc
gia. Mỗi Ấp đạo chia ra làm 3 Liên gia, mỗi Liên gia có 12 nóc gia, lập
thành Thập nhị Liên gia Bảo để chia xẻ vui buồn, thăm viếng
lẫn nhau.
Ðứng đầu Châu Thành Thánh Ðịa là
một vị KHÂM THÀNH, phẩm Giáo Sư, do Hội Thánh bổ nhiệm. Dưới vị Khâm Thành có 3
vị Phó Khâm Thành, phẩm Giáo Hữu, mỗi vị phụ trách một khu vực: Bắc, Trung,
Nam.
Ðứng đầu Phận đạo là vị ÐẦU PHẬN
ĐẠO, phẩm Lễ Sanh. Ðó là sự tổ chức về Hành Chánh Ðạo trong Châu Thành Thánh
Ðịa bên Cửu-Trùng-Ðài. Ðối với Cơ Quan Phước Thiện, hệ thống tổ chức trong Châu
Thành Thánh Ðịa cũng tương tự như trên, nhưng các chức vụ thì gọi khác đi một
chút để tránh sự trùng lập giữa Hành Chánh và Phước Thiện.
A - Châu Thành Thượng.
Lấy Núi Bà làm trung tâm:
- Đo từ chân núi về hướng Đông: 28km
- Đo từ chân núi về hướng Tây: 12km
- Bề dài từ Tây đến Đông: 28km + 12km =
40km (Giếng Mạch đến Núi Cậu).
- Đo từ chân núi về hướng Nam : 24km
- Đo từ chân núi về hướng Bắc: 16km.
- Bề ngang từ Nam đến Bắc: 24km + 16km = 40km
B - Châu Thành hạ.
Lấy Tòa Thánh làm trung tâm:
- Phía Đông: Từ Tòa Thánh đo về hướng
Đông 21km.
- Phía Tây: đo từ Tòa Thánh đến Mít Một
3km.
- Phía Nam: đo từ Tòa Thánh đến Cẩm
Giang 12km.
- Phía Bắc: đo từ Tòa Thánh đến Núi Bà
12km.
Du khách tham quan Tòa Thánh, ngồi trên phi cơ nhìn xuống
thấy Đền Thánh, Đền đài Dinh thự nguy nga của Đạo Cao Đài trong vùng Thánh Địa,
nhà cửa san sát, đường sá dọc ngang thẳng tắp tạo thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp.
Vào năm 1926, vùng nầy còn là nơi rừng thiêng nước độc, một nơi sơn lâm chướng khí,
bệnh tật, thú dữ cọp beo luôn luôn rình rập. Nhờ ơn các vị Đại Thiên phong tiền
bối, và công ơn to lớn của Đức Hộ Pháp Phạm Công
Tắc, nay vùng này đã trở thành một đô thị tôn giáo sầm uất, được
nhiều du khách trên thế giới đến tham quan và tìm hiểu. phải là bậc vĩ
nhân thế kỷ mới sáng lập được. Là Đấng thay Trời lập tôn giáo ĐẠI ĐẠO
TAM KỲ PHỔ ĐỘ (Đạo Cao Đài), nhưng ngoài sứ mệnh lập giáo, Đức Ngài Phạm
Công Tắc còn là nhà thiết kế đô thị đại tài
Khuôn viên nội ô Tòa Thánh Tây Ninh rộng khoảng 1 km vuông (độ 100 mẫu). Giống như
các công trình kiến trúc tôn giáo khác trên toàn thế giới, kiến trúc bố cục Tòa
Thánh Tây Ninh cũng chứa đựng những quan điểm triết lý, tôn giáo hoặc huyền học.
Theo kinh sách Cao Đài, Tòa Thánh tượng trưng cho Bạch Ngọc Kinh (nơi Thượng đế ngự) tại thế gian.
Nội ô Toà Thánh được bao bọc bởi hàng rào xây bằng gạch
có trang trí hoa văn. Đường vào Nội Ô có 12 cổng, các cổng đều xây dựng kiểu
Tam quan, đắp chạm hình Tứ linh (Long, Lân, Qui, Phụng) và hoa sen. Cổng lớn
nhất được gọi là Cửa Chánh Môn, 11 cổng khác nhỏ hơn được đánh số từ 1 đến 12
(lưu ý không có Cửa số 5).
Trong nội ô Tòa thánh, du khách tham quan sẽ thấy rất
nhiều công trình kiến trúc lớn, nhỏ., gồm có Đền Thánh, Báo Ân Từ và các dinh
thự như: Giáo Tông Đường, Hộ Pháp Đường, Đầu Sư Đường nam, nữ; kiến thiết theo
kiểu Đạo đồ, cùng các cơ sở của các cơ quan ban bộ. Đường sá thẳng tấp: Đại lộ
Phạm Hộ Pháp, Cao Thượng Phẩm, Cao Thượng Sanh, chạy dài theo chiều dọc có hình
chữ Càn.
Chạy dọc từ hướng Bắc xuống hướng Nam, ta có ba đường
chính là:
- đường CAO THƯỢNG PHẨM (từ cửa sô 2 đến cửa số 6)
- đường PHẠM HỘ PHÁP (từ cửa 1 đến cửa 7).
- đường CAO HOÀI SANG (từ cửa 12 đến cửa 8)
Các con đường chạy từ hướng Tây sang hướng Đông gồm có:
- đường OAI LINH TIÊN (từ cửa số 4 đến cửa 9)
- đường THƯỢNG TRUNG NHẬT (từ cửa số 3 đến cửa 10).
- đường THÁI THƠ THANH (từ Chánh môn đến cửa 11).
Vùng
Nội-Ô Toà Thánh nổi tiếng với 12 cổng tam quan xây dựng theo 3 dạng kiến
trúc khác nhau. Cổng lớn nhất được gọi là Cửa Chánh Môn, 11 cổng khác nhỏ hơn
được đánh số từ 1 đến 12. Thực tế nhân sanh sẽ không thấy cửa số 5, nhưng
được thay bằng cổng Chánh Môn cũng đủ vào số 12. Các cửa này đặt
nghịch chiều với chiều quay của kim đồng hồ. Mỗi cửa cách nhau 300 m . có hàng rào tường bao quanh 12 cửa.
Dạng cổng
|
Tên cổng
|
Không có mái che
|
Cửa Chánh Môn, Cửa số 2, Cửa số
3, Cửa sô 6, Cửa số 8, Cửa số 9, Cửa số 11, Cửa số 12
|
Có mái che thu nhỏ dần
|
Cửa số 1 (Cửa Hòa Viện), Cửa số
7
|
Có mái che dài
|
Cửa số 4, Cửa số 10
|
9 . CHÁNH MÔN
Cửa
Chánh Môn được xây dựng như một cổng tam quan với 3 lối đi, một cổng chánh và
hai cổng phụ hai bên.
Ðức
Phạm Hộ Pháp có chỉ dẫn Ban Kiến Trúc của Ðạo vẽ họa đồ Chánh môn: Bề cao 36
thước, bề ngang 60 thước, cổng cổ kính tam quan, trên nóc đắp mái ngói có để cổ
pháp Tam giáo.
Khi
Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước làm Quyền Chưởng quản HTÐ, Ngài hợp tác với Tỉnh
Trưởng tỉnh Tây Ninh lúc đó là Thiếu Tướng Lê Văn Tất để lo xây cất Chánh môn.
Một số vị cho rằng họa đồ Chánh môn của Ban Kiến Trúc vẽ theo lịnh của Ðức Hộ
Pháp thì Chánh môn cao tới 36 thước, như vậy thì cao quá, không thích hợp nên
đề nghị Ty Kiến Thiết Tây Ninh vẽ họa đồ khác. Ty Kiến Thiết vẽ họa đồ Chánh
môn chỉ cao 9 thước, ngang 54 thước, trên nóc đắp 2 rồng phò cổ pháp (RỒNG ĐƯỢC
THÊM VÀO). Họa đồ nầy được Ngài Bảo Thế chấp thuận. Sau đó thấy cổng thấp quá
nên thêm 2m cao, như vậy chiều cao của cổng hiện nay là 11m?