Phần
dưới mái chính, trên tấm tường bắc ngang là 6 chữ đắp nổi, sơn đen bằng Hán tự
và cả bằng chữ Việt, là “Đại đạo Tam kỳ phổ độ”. Trên hai trụ chính, có đôi câu
đối nêu bật lên ý nghĩa của giáo lý Cao Đài:
Câu liễn I Câu liễn II
高 "Cao 臺 "Đài
上 Thượng 前 Tiền
至 Chí 崇 Sùng
尊 Tôn
拜 Bái
大 Đại
三 Tam
道 Đạo 期 Kỳ
和 Hòa 共 Cọng
平 Bình 享 Hưởng
民 Dân 自 Tự
主 Chủ 由 Do
目 Mục." 權 Quyền". [2]
Đôi liễn này thường được chạm
khắc nơi các cổng Tam quan đi vào nội ô Tòa Thánh, hay các cổng chánh của các
Thánh Thất ở khắp mọi nơi.
Nguyên trước đây câu liễn một (1) chữ chót là CHÁNH, đối với chữ QUYỀN của câu liễn hai
(2).
Tạm
dịch
- Đấng
Chí Tôn ở cao hơn hết, đã mở ra nền đạo lớn hoà bình, hướng tới nền dân chủ.
- Tôn
thờ Đấng Cao Đài đã mở ra kỳ tôn giáo thứ ba, đem đến quyền tự do cho mọi người
chung hưởng.
Cổng
Chánh môn được cấu trúc mặt bằng cơ bản theo lối cổng tam quan, nhưng ba khối
cổng chính và phụ đã được tách rời ra thành 3 chiếc cổng riêng, nối liền nhau
bởi một bức tường rào trang trí hoa gió và những cặp bông sen trên đỉnh. Hai
trụ cổng chính có tiết diện vuông, mỗi bề 3 mét và cách nhau 12 mét, làm thành
bề rộng thông thuỷ của lối vào cổng chính. Lên đến cao độ 8 mét, bắt đầu có một
tấm đà ngang, phía trên là khoảng trống được phân vị bằng các trụ đứng chia ra
nhiều ô vuông nhỏ. Trên nữa là mảng tường ngang lớn rộng hình thang, đắp nhiều
gờ chỉ phân vị ngang và bố trí khung đặt chữ: ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ (tiếng Việt
ở trên, tiếng Hán ở dưới) cùng các chữ và số năm xây dựng: 1965, Ất Tỵ, Toà
Thánh, Tây Ninh.
Trên
tấm tường hình thang ấy, có một khe lõm vào để làm nổi bật lên một tấm tường
cong vuốt lên ở hai đầu, nâng đỡ bên trên những khối hình mây, cặp rồng chầu
vào một khối tượng hình Tam bửu, đặt trên một bông sen cực lớn. Hai cổng phụ
cũng có rồng chầu Tam bửu, các mảng tường ngang và hai trụ đứng. Kích thước bị
thu nhỏ, nên bề rộng thông thuỷ cổng phụ chỉ còn 5,7 mét.
Cổng
chính cao và rộng hơn các cửa khác, đắp lưỡng long tranh châu, hoa sen, cùng ba
cổ pháp: quyển sách Xuân thu, bình Bát vu và Phất trần.
1 . Cuốn
sách “XUÂN THU”:
Đó là
một tác phẩm viết ra bởi Đức Khổng Tử, nêu lên quan điểm về thuyết Chính danh,
Nhất quán, Trung dung, Đại đồng dưới dạng Kinh, có nghĩa là sự hoàn thiện
luân lý, giảng dạy ngoài các nghi lễ, lời bói toán về tiên tri, văn học, âm
nhạc; những luật lệ của Nhơn đạo : bổn phận làm người, làm một công dân, làm
cha, làm mẹ, làm chồng, làm vợ, làm con, làm anh làm chị, làm thầy làm trò, làm
quan, làm vua, cả đến những bổn phận đối với thú vật và thảo mộc. Đó là biểu tượng
của KHỔNG GIÁO.
Cuốn
sách ấy gọi là Xuân Thu, bởi vì tư tưởng của Đức Khổng Tử làm nẩy
nở luân lý của con người, giống như mùa Xuân và mùa Thu là hai mùa có ngày và
đêm dài bằng nhau và dễ chịu.
2 .
PHẤT CHỦ:
Một thứ
chổi được trang trí một chùm lông đuôi gọi là Phất chủ (Phất
là chuyển động hay xua đuổi, chủ là bụi bặm) hay Phất trần (xua đuổi
các thứ ô trược của thế gian), tượng trưng sự luyện tập tinh thần gồm việc tự
thanh lọc hằng ngày tất cả các tật xấu, tượng trưng sự thanh lọc lục dục thất
tình. Đó là biểu tượng của LÃO GIÁO.
3 . BÁT
VU:
Bình
bát vu tức là bình bát (patra), dùng đựng thức ăn của các nhà sư (du tăng khất
sĩ), dùng để nhận lấy thức ăn cúng dường bởi các tín đồ khi đi khất thực. Tuy
Thái tử Sĩ Đạt Ta là con của vua một Vương quốc Ấn Độ, Ngài đã can
đảm từ bỏ tài sản của thế gian để đi tìm trong cảnh cô tịch sự bình an của tâm
hồn và đi tìm chơn lý. Ngài phải ăn xin để sống, để nuôi dưỡng
xác thân với mục đích là truyền bá đức tin mà Ngài đã ngộ được. Bình
Bát Vu là biểu tượng của sự dứt bỏ những của cải của thế gian, sự quên mình,
lòng từ bi san sẻ khổ đau của người khác. Đó là cổ pháp của PHẬT GIÁO.
Đạo Cao
Đài chọn ba cổ pháp trên để nói lên sự đồng nguyên của ba nền tôn giáo lớn của
nhân loại trong Đại đạo. Thánh đạo, Tiên đạo và Phật đạo chỉ là ba giai
đoạn tiến hóa của linh hồn trên con đường trở về hội nhập với Thượng Đế, Đại
Linh Hồn của vũ trụ.
Chú
thích: Theo giáo lý Cao Đài,
- Bà la
môn giáo, Phật giáo, Pythagore giáo cùng nằm trong Phật đạo.
- Khổng
giáo, Thiên Chúa giáo, Tin lành, Hồi giáo cùng nằm trong Thánh đạo.
Cửa
Chánh Môn Nội ô Tòa Thánh Tây Ninh nhìn từ hướng Đông
Cổng Chánh Môn theo họa đồ của Đức Hộ Pháp chỉ dẫn
Lưu ý:
không có biểu tượng LƯỠNG LONG TRANH CHÂU
Từ
Chánh môn đến Đền Thánh, có ba bảo tháp chứa tro cốt của Đức Hộ Pháp (ở giữa),
Đức Thượng Phẩm (bên trái) và Đức Thượng Sanh (bên phải). Các Tháp được xây
đắp, chạm trổ nhiều hoạ tiết tinh vi và có hình Bát quái. Trên nóc tháp, có gắn
Bửu pháp của ba vị.
Cửu
Trùng Đài giữ quyền Hành Pháp, trông coi về hành chánh Đạo, và điều hành cơ phổ
truyền giáo hóa chúng sanh. Giáo Tông đứng đầu CTĐ, làm việc tại Giáo Tông
Đường.
VĂN
PHÒNG CỬU TRÙNG ĐÀI hay còn gọi Tòa Nội Chánh là nơi làm việc của Hội thánh
CTĐ. Tòa Nội Chánh nằm giữa cửa 1 và cửa 12, bên phải Đền Thánh nếu nhìn từ
trong ra.
Hội
Thánh CTĐ do Ba Đầu Sư lãnh đạo, nhưng quyền hành giao cho Ba Chánh Phối Sư. Ba
Chánh Phối Sư đứng đầu Toà Nội Chánh, điều hành Chức sắc cả ba phái.
Ba
Phái: Tam Thanh
- Phái
Thái: mặc áo vàng (PHẬT
ĐẠO)
- Phái
Thượng: mặc áo xanh (TIÊN
ĐẠO)
- Phái
Ngọc : mặc áo đỏ (THÁNH
ĐẠO)
Hai
cơ quan: Hành chánh và Phổ tế
Trong
Toà Nội Chánh, văn phòng của Cửu Trùng Đài, có các cơ quan trực thuộc dưới
quyền của ba Chánh Phối Sư.
- Phái
Thái trông coi về Hộ viện (tài chánh), Lương viện (thực phẩm) và Công viện (xây
cất, tu bổ)
- Phái
Thượng trông coi về Học viện (giáo dục), Y viện (y tế) và Nông viện (sản xuất
thực phẩm nuôi người hiến thân trọn đời hành Đạo)
- Phái
Ngọc trông coi về Hòa viện (hòa giải xích mích), Lại viện (lo về văn thơ, hồ
sơ) và Lễ viện (lo về các cuộc tế lễ).
Chú
thích: Năm
Quí Mão (1963) chính quyền thay đổi, buộc Đạo phải
sửa đổi các danh từ dinh thự, như: “Tòa
Nội Chánh đổi lại Cửu Trùng Đường”. Vô tình, điều này lại ứng với câu trong Sấm:
“ĐÀI phương phúc địa giáng
linh,
CỬU
TRÙNG thụy ứng LONG THÀNH ngũ vân”.
Vùng
Thánh địa, xưa thuộc về xã Long Thành, quận Phú khương, tỉnh Tây
ninh.
Hoà
Viện vốn được coi là cổng đầu tiên, nó được xây vào năm 1961.
Từ cổng
số 1 này, cứ đi vòng quanh theo tường rào ngược chiều kim đồng hồ là sẽ tới các
cổng số 2, Chính môn, cổng số 3, cổng số 4 v.v…
Nhìn
chung, trừ cổng Chính môn ra, thì có thể phân ra hai loại cổng của Toà thánh
Cao Đài. Loại có mái và loại không có mái. Dù loại nào, thì cấu trúc mặt bằng
cũng khá giống nhau, theo kiểu tam quan ở các đình, chùa truyền thống. Nghĩa
là, bao giờ cũng có 4 trụ xây, chia ra thành 3 lối ra vào. Hai trụ giữa lớn và
cao hơn, cách khoảng rộng hơn 6 mét làm cổng chính. Hai bên là cổng phụ rộng
chỉ khoảng 2,5 mét.
Từ cửa Hòa Viện số I chánh Bắc (Thủy), du khách đi vào Tòa
thánh với khoảng cách gần nhất.
Cửa 1 hay là cửa Hoà Viện , được xây năm 1961
Từ cửa
này đi theo lộ Bình Dương thẳng về hướng Bắc ta sẽ đến núi Bà. Còn đường chạy
ngang qua cổng là Liên Tỉnh Lộ 13. Sau 1975, đường này đổi tên là đường Cách
Mạng Tháng 8.
Đi từ
ngoài vào, bên trái hàng rào có 06 bông sen và bên phải có 07 bông sen. Hai bên
cổng có bố trí 02 căn nhà nhỏ. Căn nhà nhỏ ở hướng Tây có trống báo giờ cho cả
Nội Ô. Trống báo giờ ở đây khởi trước rồi trống báo giờ ở Báo Ân Từ mới được
khởi sau. Nóc cả hai căn nhà đều có bố trí đồng hồ bằng xi măng. Căn nhà nhỏ
bên phía Đông (phía có Tòa Nội Chánh Cửu Trùng Đài) đã bị đập bỏ.
Gần căn nhà bị đập bỏ, cái giếng đầu tiên của ĐĐTKPĐ (bên hông Tòa Thánh- phía Nữ
Phái) cũng bị lấp.
Đạo Sử
viết rằng khi xây dựng Tòa Thánh người công quả bị bịnh rất nhiều. Đức Chí Tôn
dạy Đức Cao Thượng Phẩm lấy nước ở giếng đó đem lên Thiên Bàn cầu nguyện rồi
cho người bịnh uống rất hiệu nghiệm. Một di sản hiếm quý đến vậy mà HĐCQ lấp
bỏ!. Thật
đáng tiếc vô cùng!!!.
Hình 2 căn nhà phụ hướng Đông và Tây đối nhau qua cổng 1
Hình
cái giếng lịch sử được lợp ngói nằm kế gốc cây, bên phải Tòa Thánh (từ trong TT
nhìn ra).
Tín đồ
đi cúng thường ghé lại đây để uống nước, rửa mặt.
Cổng số 2 không có mái che, đề năm xây là 1925
Trước
đây người đạo đã thỉnh giáo Ngài Hiến Pháp Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh về việc vì
sao cửa số 2 đề năm 1925 trong khi năm 1927 mới mua đất xâyTòa Thánh
tạm....Ngài Hiến Pháp trả lời do ý của Đức Hộ Pháp, Ngài không rõ và đề nghị
tìm hiểu thêm. Các bậc tiền bối không dám thay đổi thể pháp của Đức Hộ Pháp vì
các Ngài biết rằng có bí pháp ẩn tàng trong đó. Cửa số 02 không ghi năm tạo lập
cổng. Đây là điều khác biệt so với các cổng khác.
Sau
1975, Hội Đồng Chưởng Quản cho 04 cây cột ở cửa số 2 mọc thêm 04 bông
sen. thành ra Cửa số 2 ngày nay (năm 2013) có 10 bông sen.
Chú
thích:
Năm
1925 có bốn dấu ấn rất quan trọng:
Quí Ông Cư ,Tắc, Sang xây Bàn lần đầu tiên
|
|
Hội Yến Diêu Trì Cung đầu tiên
|
|
Lập Đàn Cầu Đạo (Vọng Thiên Cầu Đạo)
|
|
Đức Cao Đài nhận ba ông Cư, Tắc, Sang làm môn đệ
|
Cổng số 12 , được xây năm Giáp Dần 1974.
Nhìn vào trong, ta thấy dãy Tây lang.
Phía sau dãy Tây lang là khu nhà vệ sinh, tắm rửa rộng rãi.
Từ cửa 12 có đường chạy đến cửa 8, đó là lộ CAO HOÀI SANG.
Cổng số 3, đựơc xây năm Bính Ngọ 1966.
Ngôi nhà bên phải, trong cổng xưa là Viện cô nhi, sau có
xây sở may Linh Đức để may đạo phục cho tín đồ và chức sắc..
Cổng số 4 được xây năm Canh Tý
1960