Khi quan sát
từng chi tiết trong Tòa Thánh, am hiểu được tường tận sự huyền bí và nghe thuật
lịch sử kiến trúc xong, du khách sẽ đi viếng từ cơ quan trong nội ô Tòa Thánh.
Đi trở về phía
sau Tòa Thánh, du khách sẽ thấy một cái tháp hình bát giác cao vượt lên 3 tầng.
Mỗi tầng cao lên độ 2 thước và 3 thước.
Tháp nầy dùng
để an vị Chức sắc lớn trong nền Đạo.
Hội Thánh Cửu
Trùng Đài, thì Chức sắc Nam, Nữ phải từ phẩm Đầu sư trở lên. Nhưng đặc biệt có
3 vị Đầu sư phái Nam và một Đàu sư nữ phái cùng ba vị Chưởng pháp, một vị Giáo
Tông được cơ bút Chí Tôn ân phong trong buổi khai Đạo mới được xây tháp mà
thôi.
Riêng về Hội
Thánh Hiệp Thiên Đài thì Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh và 12 vị Thời Quân,
Thập nhị Bảo quân cùng các Chức sắc khác như Tiếp lễ Nhạc quân, Hộ đàn Pháp
quân thì khi qui vị cũng được xây tháp. Nhưng chỉ một lần thôi. Dù sau nầy có
những vị Chức sắc khác kế vị nhưng cũng không được xây cất tháp nữa.
Mỗi Tháp an vị
chức sắc nầy, đều được xây hình bát giác.
TẠI SAO
THÁP PHẢI XÂY HÌNH BÁT GIÁC?
- Vì khi mỗi
Chơn Linh mãn phần nơi cõi thế tức là lúc chết linh hồn phải trở qua: “Ba mươi
sáu cõi Thiên Tào, nhập trong Bát Quái mới vào Ngọc Hư”. Nghĩa là linh hồn qua
ba mươi sáu cõi Thiên Tào ấy, thì còn phải vào Bát Quái để Thiêng Liêng phán
đoán tội lỗi căn cứ theo quá trình sinh hoạt của một kiếp rồi mới được vào ngọc
Hư Cung, tức là nơi Chí Tôn ngự, nếu đầy đủ thiện quả, trọn vẹn tâm đức tu hành
thì được thăng; còn chưa đầy đủ phải lãnh lịnh trở lại cõi phàm trần. Đạo Phật
gọi là “chuyển kiếp luân hồi”.
Vì vậy, xây
Tháp an vị Chức sắc, thể thức kiến trúc phải theo hình Bát Quái Đài, tức là một
trong ba Đài: HIỆP THIÊN ĐÀI, CỬU TRÙNG ĐÀI và BÁT QUÁI ĐÀI ở Tòa Thánh tượng
trưng cho hình thể Đại Đạo để phổ độ chúng sanh (như chúng tôi đã lược thuật rõ
rệt nhiệm vụ của mỗi Đài ở những đoạn trước). Vậy cần nhắc lại nhiệm vụ của Bát
Quái Đài để đọc giả có thể am tường thêm về thể thức xây Tháp hình Bát Quái
Đài.
Bát Quái Đài do
các Đấng Thiêng Liêng điều khiển, trực tiếp rước các đẳng chơn hồn để phán xét
công đức tu hành và tội phước ở thế gian. Sau khi trải qua cuộc phán xét ấy,
chơn hồn mới được vào Ngọc Hư Cung, là nơi Thượng Đế ngự mà chầu. Tùy công
nghiệp tu hành, sinh hoạt thiện lương của một kiếp mà Thượng Đế định theo phẩm
Thần, Thánh, Tiên, Phật hoặc phải luân hồi lại chốn trần gian.
Tháp an vị Đầu Sư
Vì vậy, nên thể thức Tháp an vị Chcứ
sắc phải kiến trúc theo hình Bát Quái Đài và cũng có mục đích tiêu biểu sự mầu
nhiệm Tạo Hóa cõi vô hình để nhân thế soi chung vậy...
Khi quan sát Tháp phía sau Tòa
Thánh, du khách đều thấy sự kiến trúc đều cùng một thể thức. Nhưng những hìn
họa trên các Tháp đều theo sự tích khác nhau, tùy theo phẩm vị, hoặc nam, nữ mà
phác họa sự tích thích hợp.
Xem xong các
Tháp nầy, du khách sẽ vào hậu Điện Tòa Thánh viếng Đông lang, Tây lang.
Đông lang và Tây lang thể thức kiến
trúc đều như nhau hai bên tả hữu Tòa Thánh liên đới với nhà Hậu Điện.
Tuy gọi là Đông lang và Tây lang
song bên trong có các phòng làm việc hoặc để Chức sắc, Chức việc hiến thân trọn
đời cho Hội Thánh an nghỉ thôi.
Sự liên đới Đông lang và Tây lang với
Hậu Điện cùng Tòa Thánh theo cơ bút thì kiến trúc như hình Long Mã vậy...
Từ Đông lang, du khách đưa mắt nhìn
về hai ngôi nhà đồ sộ nằm ngang vị trí của Đông lang. Đó là Trai đường, nghĩa
là nơi dùng để công quả, chức việc và chức sắc làm việc trong các cơ quan của
Hội Thánh Cửu Trùng Đài dùng cơm hằng bữa.
Nơi đây, mỗi ngày có hai bữa cháo
cơm cho công quả ăn. Bữa mơi, tiếng trống đổ 11 giờ và một hồi tan sở thì trong
các cơ quan Cửu Trùng Đài, chức sắc và nhơn viên lớn, nhỏ... lần lượt đến đây
dùng bữa cháo, rau. Bữa chiều khoản độ 5 giờ, cũng sau một hồi trống tan sở,
vẫn nhóm người muôn thuở ấy... trở lại đây dùng cơm dưa muối...
Cảnh kham khổ... nhưng tình vẫn
thiết tha... Hiện trạng nầy làm cho du khách buồn miên man nghĩ ngợi... Khi
người ta ý thức được cuộc sống chỉ là giả tạm; mùi trần ai đày đọa bao người,
nên tuy sống khổ... mà họ vẫn vui tươi vì hiểu biết...
Nhận thức cảnh tu hành đạm bạc muối
dưa... khiến du khách thấy lòng buồn dười dượi mông lung với trường đời lang
bạt...
Khi rời khỏi Đông lang trở lại phía
trước Tòa Thánh, du khách sẽ dừng chơn mơ màng đứng ngắm hai thửa rừng hai bên
tả, hữu trước Tòa Thánh, gọi là rừng “Thiên Nhiên”...
Từ mặt tiền Tòa Thánh đi ra độ 30
thước, có cột Phướng hình rồng cao độ 30 thước chơ vơ vòi vọi giữa khung trời
bát ngát.
Khán
đài và phía sau là rừng Thiên Nhiên
Dưới chân cột
Phướng rồng có chạm hoa sen và hình bốn con Kim Mao Hẩu. Ý nghĩa rồng với hoa
sen tiêu biểu “Hội Long Hoa” là mục đích cứu cánh của nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
(chúng tôi đã lược thuật đoạn trước...)
Cách cột
Phướng chừng 10 thước có cội cây Bồ Đề, sum suê nhành lá, dưới gốc là tượng
hình Đức Phạt Thích Ca ngồi tịnh, sau lưng có con rắn 7 đầu đưa lên...
Cội cây Bồ Đề
và tượng Phật Thích Ca nầy nguyên của Đức Narada Théra, đại diện Phật giáo
Cyelan biếu.
Ý NGHĨA
TƯỢNG PHẬT DƯỚI CỘI BỒ ĐỀ
Thuở xưa, Đức
Phật Thích Ca ngồi thiền định dưới cội bồ đề quán thông được chơn tướng của vạn
vật chúng sanh, và tầm được bốn phép thiền định sau, mà hiện nay pháp môn thiền
định nầy các bậc tu hành còn thực dụng:
- Một là Ý
Thanh Tịnh.
- Hai là Tịnh
Tâm Thủ Nhứt; Chuyển Tâm Bất Dịch.
- Ba là thấy
rõ chơn tướng vạn vật chúng sanh.
- Bốn là không
y thiện; không phụ ác; không khổ, không vui, bình thản, không không.
Ngày nay,
nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ qui tam giáo, hiệp ngũ chi đặc biệt quan tâm đến đời
sống nhân gian hiện hữu (đó tức là bậc hạ thừa), còn mục đích cứu cách cũng lấy
phương thức luyện tịnh mà tồn dưỡng tinh thần để đến giải thoát kiếp trần khổ
hạnh.
Vì vậy, đúc
tượng Phật tịnh dưới cội bồ đề trước Tòa Thánh là mục đích tiêu biểu đại cương
thể thức tu tập. Du khách có thể quan sát những chi tiết mà xác định được phần
nào về Đạo CAO ĐÀI.
Sau lưng pho tượng Phật Thích Ca có rắn bảy đầu
đưa lên. Bảy đầu đó tượng trưng thất tình: mừng, giận, buồn, vui, thương, ghét,
muốn của loài người.
Ngày xưa
Phật giáo, thì tu tập luyện tịnh sao cho chơn ngã được sống ngoài vòng tục lụy,
trần ai, nghĩa là diệt dục cho lòng bình thản không không mới giải thoát linh
hồn ra ngoài vạn khổ ở đời. Vì thế mà thất tình vẫn còn, nhưng được tập trung
duy nhứt theo một chiều hướng về cõi thượng giới hư linh. Nên bảy đầu rắn đưa
lên tượng trưng thất tình là ý nghĩa đó...
Hình ảnh tượng
Phật lặng thầm thiền định dưới cội bồ đề ấy... có hiệu lực gợi niềm rung cảm
lâng lâng cõi long du khách.
Từ pho tượng
Phật nầy nhìn thẳng phía trước, du khách sẽ thấy hai bên tả hữu có hai khán đài
thật to, để quan khách nghỉ mát hoặc trong những ngày lễ lớn để khách thập
phương ngồi nghe thuyết đạo.
Khán đài nầy
kiến trúc thật to xây trên 12 bậc cao thấp khác nhau.
Ý nghĩa 12 bậc
ấy cũng tượng trưng thập nhị khai thiên của Trời.
Vào khoảng
thời gian 1955-1956 có cuộc lễ khánh thành, hai khán đài nầy, người người đông
nghẹt.
Thoảng phút ấy
qua rồi, dòng đời đã chìm dần trong ký ức thế nhân... Giờ đây hai khán đài chỉ
âm thầm song song bên cạnh rừng cây rợp bóng...
Chính giữa hai
khán đài nầy có kiến trúc một đài nhỏ, hình bát giác gồm 9 bậc cao dần lên gọi
là “Cửu Trùng Thiên”.
Du khách mới
xem qua hình ảnh Cửu Trùng Thiên không lớn mấy cũng như một gò đất nhỏ mô lên,
trong nắng vàng trập trùng ánh sáng.
Ý NGHĨA XÂY
CỬU TRÙNG THIÊN
Tam Kỳ Phổ Độ;
Đấng Thượng Đế khai nền Đại Đạo gọi là thời kỳ ân xá. Đức Ngài mở cả Cửu Thiên
Khai Hóa mà lập Cửu Trùng Đài điển hình tại thế đặng độ rỗi chúng sanh.
Những người tu
công nghiệp đầy đủ sẽ được siêu rỗi qua Cửu Trùng Thiên mà vào Bạch Ngọc Kinh.
Trái lại, ai
tu dang dở, công nghiệp còn thiếu kém, cũng được sự độ rỗi, song luật công bình
tạo hóa phải căn cứ công đức tu hành phán đoán công minh và lập vị theo Cửu
Thiên Khai Hóa.
Cũng như tại
thế nầy, khi chầu lễ Chí Tôn, những Chức sắc lớn ấy là công quả đầy đủ và Chức
sắc nhỏ ấy là những vị còn thiếu công nghiệp tâm đức tu hành, nên phẩm vị khác
nhau. Xây Cửu Trùng Thiên nầy để thiêu xác những vị đại Chức sắc (bên Cửu Trùng
Đài thì phầm Đầu sư trở lên cũng như bên Hiệp Thiên Đài thì từ phẩm Thập nhị
Thời quân trở lên). Những bậc chức sắc nầy đầy đủ công đức tu hành; hiện kiếp
cũng như tiền căn (theo cơ bút Thiêng Liêng chỉ dạy) nên lúc chết thân xác được
thượng vị lên Cửu Trùng Thiên.
Đó là tiêu
biểu sự giải thoát được kiếp trần ai khổ hạnh của vị ấy đồng thời nhờ công đức
tu hành đó mà lập vị thiêng liêng qua khỏi Cử Thiên Khai Hóa. Vì vậy, mới có
xây cất Cửu Trùng Thiên.
Xem qua Cửu
Trùng Thiên và nhận thức được ý nghĩa, khi nghe tường thuật. Hẳn du khách thấy
rõ kiếp con người sanh trưởng tại thế gian nầy không phải cốt để an hưởng kiếp
giả tạm và nhờ sự vinh sang, quyền cao, chức trọng mà lúc qui mãn được Thiêng
Liêng độ rỗi đâu. Trái lại, đó chỉ là của trần để lại cho trần... mà linh hồn
phải nương nhờ nó để tu dưỡng nên chánh thiện, chánh giác mà lập vị đẳng cấp
Thiêng Liêng trên cõi vô hình.
Đến đây du
khách đã tường lãm sự thực dụng của Cửu Trùng Thiên liên đới đến lập vị thiêng
liêng.
Hình ảnh Cửu
Trùng Thiêng la đà trên mặt đất trong ánh nắng mơ màng với ý nghĩa luận thuật
còn làm du khách nghĩ ngợi vu vơ... Rồi trông về phía trước, du khách thấy liền
hai pho tượng; một pho tượng hình người chạy bộ hai tay chấp, đúc bằng xi măng,
sơn màu vàng song đã lam mờ phai nhạt...
Và còn một pho
nữa thì tượng hình người cỡi ngựa, tay cầm cương, tay che mắt trông về phía mặt
trời lặn – xa xôi – với nhiều sự tin tưởng. Hai pho tượng nầy cũa đúc bằng xi
măng, chạm trổ sắc sảo, tuyệt vời...
Đó là hai pho
tượng XA NẶC chạy bộ theo Đức Thích Ca cỡi ngựa tầm Đạo buổi đầu tiên.
Hình ảnh hai
pho tượng nầy thể hiện sự tích tầm đạo của Phật Thích Ca, đồng thời làm tiêu
biểu cho thế nhân mục kích và ý thức sự vinh sang, quyền quí ở cõi đời mà ngàn
xưa Đức Thích Ca đã nhận thức được...
Nguyên Phật
Thích Ca xưa kia là một vị Thái Tử con vua Tịnh Phạn sinh trưởng tại Ấn Độ.
Đời Thái Tử
sống trong nhung lụa xa hoa, vật chất đủ điều...
Nếu lấy quyền
thì Thái Tử sẽ là vị vua có đủ quyền bính thống trị cả thiên hạ; nếu lấy sự
giàu sang phú quí vinh hoa thì đầy đủ biết bao...
Nhưng Thái Tử
sớm đã nhận thức được ý nghĩa kiếp sinh con người chỉ là giả tạm, suốt đời khổ
não vẫn triền miên trong ngũ trọc mà phải qua những trạng thái: sanh, lão,
bịnh, tử...
Hiện trạng đau
buồn ấy thúc đẩy Thái Tử tìm phương giải khổ chúng sanh...
Suốt bao năm
khổ hạnh tầm đạo, Thái Tử đã tìm được phương pháp giải khổ mà cứu cánh nó là sự
giải thoát kiếp luân hồi sanh tử cho chúng sanh; ấy là Đạo Phật vậy...
Hình
Thái Tử cỡi ngựa tầm đạo
Ngày nay lập
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Thượng Đế qui nguyên Tam giáo, thực tiễn giáo lý:
Phật, Lão, Nho làm phương châm thực dụng, có hiệu lực thích ứng với trào lưu
tiến hóa của nhân loại, mục đích thực hiện đời sống thế nhân trên cương lĩnh
đạo đức sinh hoạt cho cõi đời được hòa thuận an vui khỏi cảnh chiến tranh tàn
khốc, hầu lấy Đạo Phật làm phương giải thoát kiếp sinh.
Nên tượng hình
Phật Thích Ca tiêu biểu đại cương quan điểm thực hiện của tôn chỉ và mục đích
nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ; đồng thời cảnh giác thế nhân hướng về đạo đức từ bi,
quan tâm kiếp trần hiện tại.
Hình ảnh hai
pho tượng chơ vơ trong ánh nắng, khích lệ tâm hồn du khách bâng khuâng bao
niềm, khi trở bước.
Rời khỏi hai
pho tượng nầy, du khách sẽ quay vào Tòa Thánh đề đi con đường Bình Dương Đạo
sang viếng các cơ quan.
Khi cất bước
lâng lâng và lắng nghe rừng âm u, gió rít lê thê, du khách sẽ chạnh niềm rung
cảm... Đâu đây, trong cảnh rừng rợp bóng có kẻ mơ màng ngồi ngắm Tòa Thánh
buông tiếng hát vu vơ...
"Đây: muôn thuở
Thánh Tòa phơi bóng đẹp...
Bên cạnh rừng
heo hút gió đê mê...
Khách trần
gian đi đến, lúc đi về...
Tâm hồn vẫn
chập chờn bao dư ảnh...
Rồi những lúc
u hoài lòng có chạnh,
Nhớ nhung về
phong cảnh đẹp nên thơ...
Ngôi Thánh Tòa
trong ánh nằng lững lờ...
Vang bóng lại
tâm hồn niềm thơ mộng.
Chơi vơi giữa
khung trời xanh cao rộng,
Có hai đài:
chuông, trống vút song song.
Trời quá cao
bát ngát, lại mênh mông,
Mà hình ảnh là
đà, e ấp ấy!...
Trời cao quá,
buồn tênh nên thấp lại,
Đất đìu hiu,
nên vượt mấy tầng cao...
Như cùng nhau
liên đới những âm hao...
Cõi trần thế
sầu đau còn lắm lắm!!!
Đây lấp lánh
muôn vàn màu sắc thắm,
Chói chang niềm rung cảm khách trần
gian...
Để ai còn say đắm cảnh trần hoàn...
Tỉnh lại giấc mơ màng trong cõi
mộng...
Đây muôn thuở Thánh Tòa còn vang
bóng,
Đây cửa thiền mở rộng đón nhân gian.
Hỡi ai đời sống lắm đoạn tràng!...
Giải thoát kiếp lên đàng về tu
niệm...
Mượn kinh kệ vui niềm vui mầu nhiệm,
Khoác áo chùa liệm kiếp khổ đau..."
. . . . . . . . . .
. . . . . . . .
(Thơ của T.L. Thiền Giang PHAN VĂN
TÂN)
Nghe tiếng hát miên man niềm buồn
bã, khiến lòng người thổn thức mông lung...
Qua khỏi mặt tiền Tòa Thánh nhìn vào
thửa rừng “Thiên Nhiên” phía tả, du khách sẽ trông thấy ngôi nhà nghỉ mát. Ngôi
nhà nầy cất trong thửa rừng, dưới những tàn cây xum xuê nhành lá... để du khách
viếng Tòa Thánh tạm nghỉ hoặc vào đọc sách nên gọi là “Thơ viện”.
Ngôi nhà nầy không lớn lắm, những
đặc biệt thể thức trang trí xem vẻ khác lạ. Bên ngoài vào, du khách sẽ thấy
những tấm bản vẽ hình bộ Cổ Pháp Tam giáo (Xuân Thu, Phất Chủ, Bát Du).
Rời nhà nghỉ mát, du khách sẽ thấy
bên lề đường phía tả có một ngôi nhà trơ trẻn trong ánh nắng hiu buồn... Đó là
ngôi “Nữ Đầu Sư Đường”, tức cung thự của vị Đầu Sư nữ phái, đồng thời cũng là
cơ quan trung ương truyền giáo của phái nữ.
Nơi đây đặc biệt dành riêng cho Chức
sắc nữ phái ở tu tập và đặt những cơ quan tổ chức có hệ thống như nam phái mà
lo việc phổ độ chúng sanh.
Nữ Đầu Sư Đường
Tất cả những
hoạt động về truyền giáo đều đặt dưới quyền vị Nữ Đầu Sư, nếu Đầu Sư khuyết thì
vị Nữ Chánh Phối Sư điều khiển.
Ngôi nhà nầy
khuôn diện chữ nhựt, có hai tầng: dưới và trên lầu. Hiện nay hệ thống tổ chức
truyền giáo của Hội Thánh Cửu Trùng Đài nữ phái các cơ quan đều đặt tại đây.
Ngày ngày êm
đềm qua đi năm, tháng... Nơi đây có những vị tu sĩ nữ phái lớn, nhỏ... sớm,
chiều:
Mượn kinh kệ
tiêu dao cửa Phật.
Bền trầm luân
tỉnh giấc mơ màng...
... mà phôi
pha đi niềm tục lụy trần ai... quên điều trần thế...
Mỗi chiều, khi
tiếng trống điểm giờ tan sở, trước ngôi nhà nầy là biết bao tà áo trắng phơi
phới tung bay trong ánh ngày hiu hiu tạnh nắng...
Dòng đời âm
thầm hờ hững qua đi... Tâm hồn họ vẫn trẻ trung trong lạc thú nên thơ mầu
nhiệm...
Nơi đây, bao
đêm về trăng mờ khắc khoải. Tiếng thời gian điểm hờ; trống dội vu vơ... họ cất
tiếng ngâm thơ gởi niềm rung cảm...
... Thế sự:
thăng, trầm; ai biết đâu!...
Thân người một
kiếp có là bao?.!...
Cõi trần: thấp
thoáng thoi đưa bóng...
Cảnh thế: ngùi
trông thỏ ác sầu!
- Lặng lẽ phôi
pha niềm tục lụy;
Âm thầm thêm
lắng nỗi thương đau.
Huyền vi tạo
hóa ai ơi thấu!
- Gởi kiếp phù
sinh với đạo mầu.
(Thơ của
T.L. Thiền Giang PHAN VĂN TÂN)
... Đêm đêm,
thường có thế... Ngày, ngày vẫn vui niềm đạo đức tu thân. Đến đây tìm hiểu, du
khách sẽ chạnh lòng kiếp sống vì đâu?
Rồi dời chơn
đăng bước, du khách sẽ thấy liền bên hữu đường Bình Dương Đạo có một ngôi nhà
đồ sộ nằm chênh vênh trong lòng khu đất rào.
Chung quanh
ngôi nhà nầy là những tàng cây sữa xum xuê nhành lá, chen lẫn vài cây cổ thụ
vút lên cao... Đó là ngôi “Giáo Tông Đường”, tức là dinh thự của vị Giáo Tông.
Trong nền đạo
Cao Đài, Đức Giáo Tông do cơ bút Thiêng Liêng tuyển chọn hay do toàn cả Hội
Thánh, Tín đồ và quyền nhơn sanh bầu cử mới được công nhận.
Quyền hạn Giáo
Tông là anh cả nhơn sanh, có quyền thay mặt cho Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế tức
Giáo Chủ Đạo CAO ĐÀI.
Giáo Tông Đường
Hiện nay, Giáo
Tông Đường nầy là nơi đặt để cơ quan tối cao điều khiển nền Đạo, do Đức Thượng
Sanh CAO HOÀI SANG chưởng quản.
Thượng Sanh
đặt văn phòng tại đây là có tính cách tạm. Căn bản Pháp Chánh Truyền Đại Đạo ấn
định, thì Thượng Sanh phải có văn phòng riêng cũng như Hộ Pháp thì có Hộ Pháp
Đường; Giáo Tông thì có Giáo Tông Đường và Thượng Phẩm thì có Thảo Xá Hiền Cung
vậy.
Có lẽ hiện giờ
Hội Thánh chưa đủ phương tiện cất dinh thự văn phòng Đức Thượng Sanh. Nhưng
chắc dù sao cũng được thực hiện, vì đây là thể pháp hữu vi liên đới vô vi trong
cơ phổ độ tam kỳ của nền Đại Đạo.
Đối diện với
ngôi Giáo Tông Đường, bên tả lề lộ Bình Dương Đạo là Hạnh Đường, tức là ngôi
trường để Hội Thánh đào luyện các chức sắc về khả năng phổ độ chúng sanh.
Những chức sắc
vào hàng Lễ Sanh, Giáo Hữu... trước khi hành quyền Giáo Sĩ, phải trải qua một
thời gian học tập, thực hiện theo phương thức Đại Đạo phù hợp nhu cầu tiến bộ
nhơn loại trên mọi lãnh vực.
Hạnh Đường
Ngôi Hạnh
Đường này cũng kiến trúc theo thể thức: trên nóc, dưới nền, gọi Lưỡng nghi.
Vách dừng bốn bên là Tứ Tượng. Trên nóc hình Bát Quái (bát giác). Thể thức kiến
trúc nầy biểu hiện theo căn bản phát huy Trời Đất hóa sanh muôn loài vậy.
Hình thức ngôi
Hạnh Đường nầy cũng khá rộng, vuông vức độ hai chục thước. Bên trong bàn ghế
thật nhiều để y như một lớp học. Trên các cột và chung quanh vách có treo những
tấm bảng cây độ 4 tấc vuông vẽ bộ Cổ Pháp của Tam giáo (Xuân Thu, Phất Chủ, Bát
Du).
Về bộ Cổ Pháp
Tam giáo nầy còn có ý nghĩa tiêu biểu sự qui Tam giáo cho khách bàng quan nhận
thức rằng nơi đây nghiên cứu giáo lý Tam giáo, thực tiễn những quan
điểm có hiệu nghiệm thực dụng, thích hợp nhu cầu nhân loại trong sự tấn hóa
hiện đại mà cải tổ nếp sanh hoạt thế nhân: chân, thiện... đạo đức cao vọng thực
hiện đời sống nhân gian trở nên hòa thuận, an vui...
Kiến trúc ngôi
Hạnh Đường nầy hẳn Hội Thánh cũng thể theo tích xưa... Khi xưa, Đức Khổng Phu
Tử chu du liệt quốc để truyền bá Đạo Nho. Thấy công việc truyền giáo ấy bất
thành Ngài bèn về ngụ tại nơi gọi “Hạnh Đường” để đào luyện đạo đức cho tam
thiên đồ đệ (dường như vùng nầy xưa kia có rất nhiều cây hạnh). Về sau trong số
đồ đệ của Ngài, chỉ còn có bảy mươi hai người, nên gọi “Thất Thập Nhị Hiền”,
truyền bá mối Đạo đến ngày nay...
Đại cương hai
chữ Hạnh Đường nầy có thể nói để tiêu biểu sự đào luyện “đạo hạnh” và khả năng
vạch rõ đường lối đạo đức cho người truyền giáo.
Tóm
lại, quan điểm hai chữ Hạnh Duong thể hiện căn bản đào luyện khả năng giáo sĩ
Đạo Cao Đài trên phương diện hạnh đức. Vì người truyền giáo phải có đầy đủ hạnh
đức vẹn toàn, mới cảm hóa được lòng người khuynh hướng về đạo lý. Đó là phưong
thức thực hiện ý nghĩa “HẠNH ĐƯỜNG” vậy